Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2025

Ngài ơi! Xin Ngài hãy đến!

 Ngài ơi! Xin Ngài hãy đến!

snTM 070625a


“Thánh Thần, khấn xin ngự đến! Hồn con đang mong chờ Ngài. Suối nguồn thánh ân hiện xuống! Này dương gian, xin Ngài đổi mới. Ngài ơi, xin Ngài hãy đến!  Chiếu sáng thế gian u mê tối tăm. Ngài ơi, xin Ngài hãy đến! Hiển linh Ngài ơi!”

Những dòng chữ trên đây, là trích đoạn của bài thánh ca mang tên “Thánh Thần Hãy Đến”. Tác giả: Lm. Thành Tâm.

Thánh Thần là ai? Thưa, giáo lý Công Giáo dạy rằng: “Chúa Thánh Thần là ngôi thứ ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy.”

Khi nói tới Chúa Thánh Thần, cố Giáo hoàng Phanxico  đã có bài huấn từ gửi đến 100.000 tín hữu và du khách hành hương hiện diện ở quảng trường thánh Phêrô, trong buổi triều yết chung thường lệ, sau đây: “Chúa Thánh Thần là ‘nước hằng sống’. Người làm cho tín hữu được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa Tình Yêu và khiến cho cuộc sống của họ được Thiên Chúa soi sáng, canh tân, biến đổi, hướng dẫn, linh hoạt và dưỡng nuôi”. (nguồn: internet)

Thế nên, có thể nói, Chúa Thánh Thần là một hồng ân, một hồng ân mà xưa kia Đức Giê-su đã “xin Chúa Cha ban cho” các môn đệ,  (và tất nhiên là có cả chúng ta, hôm nay). 

Thánh Gio-an, một  người môn đệ trong Nhóm Mười Hai, cho biết rằng: Hôm ấy, trước giờ phút sinh ly tử biệt, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ, rằng: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.” (x.Ga 14, 16-17).

Và, quả thật, Nhóm Mười Hai, trừ Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đã “nhận lấy Thánh Thần”, sau khi Đức Giê-su phục sinh và hiện ra với các ông. 

Vâng, biến cố đó được kể lại như sau: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”.

Lý do gì các ông sợ người Do Thái! Thưa, là bởi, sau khi nhóm thượng tế và các kỳ mục được “mấy người lính trong đội canh mồ” báo cho biết sự việc Đức Giê-su đã trỗi dậy, họ cho lính một số tiền lớn và bảo họ tung tin đồn rằng, “ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác” Mà…thời đó, trộm xác là một tội rất nặng. Do vậy, trước những tin đồn ác ý đó, tình trạng của các môn đệ chẳng khác nào những “con chim ẩn mình chờ chết”. Thế nên,  các ông sợ là điều tất yếu.

Đang lúc tâm hồn các ông chết dần chết mòn trong nỗi sợ, thì… “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em”. Nói xong… chuyện kể tiếp rằng: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Các môn đệ  “vui mừng vì được thấy Chúa”.

Rồi, phút linh thiêng, đến. Nhìn các môn đệ vui mừng, Đức Giêsu nói: “Như Chúa Cha sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.

**

Tất cả các môn đệ đều được nhận lấy Thánh Thần, ngoại trừ tông đồ Tô-ma, vì ông không có mặt, hôm đó. 

Tám ngày sau, Đức Giê-su lại đến. Lần này, “có cả ông Tô-ma ở đó”. Đức Giê-su gọi Tô-ma và đã có một cuộc nói chuyện riêng với ông. Vâng , chỉ là một cuộc nói chuyện về sự yếu tin của ông.

Có người thắc mắc. Vậy, ông Tô-ma có được nhận lấy Thánh Thần? Thưa  có. Ông Tô-ma được nhận lấy Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần.

Ngày thứ 50, tính từ lễ Vượt Qua, theo quy định trong sách Lê-vi, người Do Thái có một ngày lễ, đó là Lễ Ngũ Tuần.

Hôm ấy, vào ngày lễ này, Chúa Thánh Thần đã xuống trên các môn đệ cách long trọng. Biến cố này đã được tường thuật trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 2,1-11).

Sách Công Vụ Tông Đồ thuật rằng: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho.” (Cv 2, 4).

Các môn đệ đã nói-các-thứ-tiếng-khác. Nhiều người hiện diện nơi đó đã phải “kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình” (Cv 2,6). Một số người khác đã “sửng sốt thán phục và nói: Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê sao? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?”

Nói tóm lại, các dân thiên hạ, dù là dân “Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, A-xi-a”, hoặc là dân “Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, Roma hay Do Thái, người đảo Cơrêta hay người Ảrập”, v.v… tất cả mọi sắc dân đó đều nghe các môn đệ “dùng tiếng nói của (họ) mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2, 11).

Vậy, những ai thắc mắc rằng, ông Tô-ma có được nhận lấy Thánh Thần không, thì giờ đây hết thắc mắc rồi nhé !

Tất cả các môn đệ đều được “nhận lấy Thánh Thần”.

***    

Thời đại Thiên Chúa sáng tạo đã qua. Thời kỳ Thiên Chúa cứu chuộc đã hoàn tất qua biến cố “chết, sống lại và lên trời” của Đức Giê-su Ki-tô. Và hôm nay, chúng ta đang sống trong thời kỳ cuối cùng – thời kỳ “Ân điển Chúa Thánh Thần”.

Thế nên, thật phải đạo khi chúng ta tự hỏi mình, rằng: Là một Ki-tô hữu, tôi đã nhận lấy Chúa Thánh Thần? Tôi đã có ân điển của Chúa Thánh Thần?

Nếu chưa? Quả là một sự nguy hiểm cho đời sống Ki-tô hữu của chúng ta.

Nguy hiểm ở chỗ, không có Chúa Thánh Thần, làm sao chúng ta có được “Ơn khôn ngoan”, để mà phân biệt đâu là lẽ phải, đâu là điều gian ác!

Không có Chúa Thánh Thần, làm sao chúng ta có được “Ơn hiểu biết”, để mà nhận biết đâu là lẽ thật để được hưởng sự sống đời đời!

Không có Chúa Thánh Thần,  làm sao chúng ta có được “Ơn sức mạnh – Ơn thông minh” để mà vượt qua những cám dỗ, những cạm bẫy tràn lan trong một xã hội duy vật vô thần như hôm nay!

Không có Chúa Thánh Thần, làm sao chúng ta có được “Ơn đạo đức – Ơn kính sợ Thiên Chúa” để mà tôn kính sự công bằng và quyền phép của Người?

Thế nên, chúng ta phải có ơn của Chúa Thánh Thần. Mà, có ai trong chúng ta lại chưa có… khi chúng ta đã lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức!

Do vậy, điều chúng ta cần phải làm, đó là: tuân thủ lời thánh Phao-lô khuyên dạy: “đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx 5, 19). Nói cách khác, phải có ngọn lửa của Thần Khí” cháy bùng trong ta.

Cố Giáo hoàng Phanxico, có lời khuyến cáo: “Không có ngọn lửa của Thần Khí, những lời tiên tri sẽ bị dập tắt, nỗi buồn thay cho niềm vui, thói quen thay thế tình yêu, việc phục vụ trở thành nô lệ.”

Charles Spurgeon, một nhà truyền giáo Hoa Kỳ, nói quyết liệt hơn: “Nếu chúng ta không có Thánh Thần, chúng ta nên đóng cửa các nhà thờ. Nếu các giáo sĩ không có Thánh Thần, tốt hơn họ đừng rao giảng Lời Chúa và giáo dân nên ở nhà mà ngủ” (nguồn: 5/phút cho Lời Chúa).

Vì thế, ước gì lời khuyến cáo của ngài cố Giáo hoàng Phanxico, như một nguồn cảm hứng…  nguồn cảm hứng thúc giục chúng ta  khẩn-khoản-nài-xin… “Xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống. Sửa lại mọi sự trong ngoài (chúng ta)… An ủi dạy dỗ (chúng ta) làm những việc lành”.

****  

Chúa Nhật hôm nay (08/06/230235), toàn thể Giáo Hội long trọng  cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Chúng ta, chắc chắn chúng ta, cũng sẽ đến nhà thờ “tề tựu ở đây”. Vâng, chúng ta sẽ tề tựu và chúng ta sẽ nghe lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, qua phần Phụng Vụ Lời Chúa.

Riêng phần nhập lễ, chúng ta sẽ được nghe lời nguyện của Cha chủ tế, nguyện rằng: “Lạy Chúa, Chúa đã cử Thánh Thần đến thánh hoá Giáo Hội ngay từ buổi sơ khai, và sai đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Hôm nay khi mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng con nài xin Chúa tiếp tục công trình Chúa đã thực hiện và tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần cho mọi tín hữu trên khắp cùng thế giới. Chúng con cầu xin...”

“Tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần cho mọi tín hữu trên khắp cùng thế giới” chẳng phải là có cả chúng ta, sao!

Vâng, có chúng ta. Thế nên, thật là chính đáng  để chúng ta lớn tiếng nguyện rằng: “Ngài ơi! Xin Ngài hãy đến…”

Petrus.tran

 

Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2025

Hãy là chứng nhân của Chúa...

 Lễ Chúa Thăng Thiên

Hãy là chứng nhân của Chúa

tbd 010625a


Như chúng ta đã biết, vào Thánh lễ Chúa Nhật mỗi tuần, sau bài giảng của Cha chủ tế, toàn thể cộng đoàn tín hữu đọc kinh Tin Kính. Trong bài kinh này, chúng ta có lời tuyên xưng rằng: Chúa Giê-su: “Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha.”

Lời tuyên xưng “Người lên trời…” không do Giáo Hội tự thêu dệt ra, nhưng do chính các tông đồ, là những nhân chứng sống, chứng kiến sự kiện này, công bố. Lời công bố của các tông đồ, đã được thánh Luca ghi lại trong hai cuốn sách. Một, đó là Tin Mừng theo thánh Luca. Hai, đó là sách Công Vụ Tông Đồ.

**
Theo sách Công Vụ Tông Đồ ghi lại, có vẻ như sau biến cố Đức Giê-su phục sinh, việc “Ngài lên trời” không phải là điều các tông đồ cho rằng sẽ xảy ra. Điều các ông nghĩ sẽ xảy ra, đó là “Thầy khôi phục vương quốc Israel”.

Thật vậy, một ngày nọ, nhân cơ hội Thầy Giê-su “dùng bữa” với mình, các ông đã hỏi Ngài rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?”

Bốn mươi ngày qua, kể từ khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu không ngừng hiện ra với các môn đệ. Và, mỗi khi hiện ra với các ông, Ngài chưa một lần có những lời nói hay việc làm ngụ ý như thế. Trái lại, những lời Đức Giê-su nói với các ông là những lời dạy dỗ và giải thích Kinh Thánh.

Thật vậy, trong một lần hiện ra được xem như là lần cuối cùng, Đức Giêsu có lời bảo với các ông rằng “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”.

Và rồi Ngài đã “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”. Mở trí cho các ông, để các ông biết rằng: Thầy Giê-su đã thật sự Phục Sinh. Sự việc Ngài Phục Sinh, không nằm trong kế hoạch tiếp tục thi thố những phép lạ, thu phục nhân tâm, hầu khôi phục vương quốc Israel, nơi trần thế này.

Do vậy, để trả lời câu hỏi của các ông, Ngài đã nói: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”

Đó… chính là điều các môn đệ cần biết và cần làm. Và rồi, điều Đức Giê-su đã nói với các môn đệ trong bữa tiệc Vượt Qua, rằng: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”… hôm ấy đã trở thành hiện thực.

Hôm ấy, chuyện được kể rằng, Đức Giê-su “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.”

Sự kiện Đức Giê-su lên trời đã được sách Công Vụ Tông Đồ ghi lại, như thế. Còn Tin Mừng thánh Luca, thì sao?

Thưa, Tin Mừng thánh Luca, ghi lại: Hôm ấy… Đức Giê-su “Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành các ông. Và khi đang chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (x.Lc 24, 50-51).

***
Đức Giê-su đã được “cất lên”, đã được “đem lên trời”. Chuyện đã xảy ra hơn hai ngàn năm, và hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục tuyên xưng niềm tin này, trong thánh lễ mỗi Chúa Nhật, qua kinh Tin Kính.

Tuy nhiên, để niềm tin của mình không chút nửa tin nửa ngờ, mỗi khi nghe một ai đó phản bác cho rằng, đó là chuyện nhảm nhí, chúng ta cần hiểu rằng, sự lên trời của Đức Giê-su không nên hiểu theo “mặt chữ” rằng, Ngài bay bổng lên không trung và các tầng mây quyện quanh thân Ngài.

Suy nghĩ như thế là một cách suy nghĩ rất ấu trĩ. Đã có người suy nghĩ như thế, và hậu quả là người này cho rằng chẳng có chuyện Chúa Giê-su lên trời.

Người này… người này chính là Yuri Alekseyevich Gagarin. Ông ta là “một phi công và nhà du hành vũ trụ người Liên Xô, người đã thực hiện chuyến bay có người lái đầu tiên thành công vào không gian vũ trụ. Du hành trên Vostok 1, Gagarin đã hoàn thành một quỹ đạo quanh Trái Đất vào ngày 12 tháng 4 năm 1961, với chuyến bay kéo dài 108 phút.” (nguồn: internet).

Nhiều nguồn tin cho rằng, sau khi trở về trái đất, Gagarin có lời tuyên bố: “Tôi đã đi vào không gian, nhưng tôi đã không gặp thấy Thiên Chúa.”

Đúng, tôi (người viết) cũng chẳng thấy Chúa đâu, sau một chuyến bay, trên một chiếc máy bay C 47, bay từ Đà Nẵng vào Sài-gòn.

Hồi ấy, khi nhìn ra cửa sổ máy bay, thấy có rất nhiều “đám mây” bay lờ lững, thế là tôi vội đứng lên “đăm đăm” nhìn bầu trời hướng về đám mây, tìm xem có ông thánh Phê-rô không! Bỗng có một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên vai tôi. Tôi lẩm bẩm “Sao thế! Chẳng lẽ ông Phê-rô bước vào máy bay, như xưa kia Chúa đã bước vào căn phòng các cửa còn đóng kín, để gặp mình sao!”

Rồi khi quay lại nhìn… Trời ạ! Hóa ra là ông co-pilot. Ông phi công phụ nhẹ nhàng nói với tôi “ngồi xuống… máy bay đang bay, không được đứng!” Bây giờ nghĩ lại, mình đúng thật là ấu trĩ! (Hồi ấy, em mới có 13 tuổi, không ấu trĩ sao được, phải không thưa quý vị!)

Trong Kinh Thánh, từ ngữ “trên trời” có nghĩa là chỉ nơi Thiên Chúa hiện diện. “Lên trời” là đi vào sự hiệp thông tuyệt hảo và vĩnh cửu với Chúa Cha và được chia sẻ với Chúa Cha quyền năng và vinh quang. Như có lời được ghi trong Thánh Vịnh: “Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con”.

Thế nên, cảm ơn ông Gagarin. Cảm ơn là bởi, lời “chứng” của ông rất đáng tin cậy!

Kinh Thánh có lời chép rằng: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.” Sáng tạo trời và đất “để con người làm bá chủ”. Để con người chế tạo ra phi thuyền bay vòng vòng quanh vũ trụ chơi cho vui, chứ đâu phải bay lên đó để mà căng mắt tìm “ông trời”!

****
Chúa Giê-su đã được-đem-lên-trời. Và, chúng ta đừng có mà “đứng (đó) nhìn trời”, nữa! Hãy trở về với nhiệm vụ Chúa giao, trước khi Ngài lên trời.

Vâng, nhiệm vụ Chúa giao, chúng ta biết rồi. Đó là: Hãy là chứng nhân của Chúa. Cha Charles E.Miller nói, đây là “lời chỉ bảo sau hết” của Chúa Giê-su.

“Ta phải nhìn nhận rằng…” cha Charles nói tiếp: “… Chúa Giê-su đã làm tốt phần việc của Người để thực hiện kế hoạch của Chúa Cha. Rày là đến phần chúng ta. Anh chị em phải là những người nhận trách nhiệm về sứ vụ của Giáo Hội”.

Đúng vậy! Tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta phải là những người nhận trách nhiệm.

Theo tông huấn Giáo hội tại Châu Á ở số 45, do cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II viết, có lời dạy rằng: “Như Công đồng Va-ti-can II đã chỉ rõ, ơn gọi của người giáo dân đặt họ ngay vào trong thế giới để thi hành những phận vụ đa dạng nhất, chính tại đây họ được mời gọi truyền bá Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô.

Do ơn sủng và do tiếng gọi của bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, mọi giáo dân đều là nhà truyền giáo; và địa bàn truyền giáo của họ là cả một thế giới rộng lớn và phức tạp như: chính trị, kinh tế, công nghiệp, giáo dục, truyền thông, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật và thể thao…

Tôi xin gửi lời cám ơn của toàn thể Giáo hội đến họ, và tôi khuyên tất cả các giáo dân hãy nhận lấy vai trò riêng của mình trong đời sống và sứ mạng của Dân Chúa, là làm chứng cho Đức Ki-tô ở bất cứ nơi nào mình có mặt”. (nguồn: Tông Đồ Giáo Dân Thực Hành).

Chúa Giê-su đã giao. Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã tái nhắc nhở. Thế thì, chúng ta sẽ nhận trách nhiệm chứ! Vâng, hãy nhận trách nhiệm, trách nhiệm là chứng nhân của Chúa ở bất cứ nơi nào mình có mặt.

Tất nhiên, không nhất thiết chúng ta phải có mặt ở Phi Châu, ở Trung Đông hay một xó xỉnh nào đó trên thế giới này. Nói… theo cách nói của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đó là: chúng ta chẳng cần phải “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”.

Cũng chẳng cần phải “đi lên non cao đi về biển rộng”. Mà… mà hãy để cho con-tim-yêu-thương (của mình) luôn luôn mở rộng. “(Để) thấy trong ta hiện bóng con người.”

Vâng, hãy là chứng nhân của Chúa bằng một con tim yêu thương luôn luôn mở rộng. Để thấy trong ta một vườn hoa quả của Chúa Thánh Thần. Hầu cho chúng ta có thể phủ bóng: bác ái, nhẫn nhục, hiền hòa, nhân hậu, từ tâm, trung tín v.v... ở bất cứ nơi nào mình có mặt. Lên bất cứ bóng người nào đi qua đời ta.

Có như thế… có như thế… chúng ta mới được xem là người đã thực thi đại mệnh lệnh Chúa đã trao phó: Hãy là chứng nhân của Chúa.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 25 tháng 5, 2025

Chúa Giê-su: nguồn bình an của tôi...

 Chúa Giê-su: nguồn bình an của tôi...

snTM 250525a


Ngày 08/05/2025 vừa qua, toàn thể Giáo Hội Công Giáo vui mừng khi mật nghị Hồng Y đã bầu ra một vị giáo hoàng mới. Tân giáo hoàng tên là Robert Francis Prevost, và ngài đã chọn tước hiệu là Lêô XIV.

Lời chào đầu tiên của Đức Tân Giáo Hoàng Lêô XIV gửi đến toàn thể các tín hữu là lời chúc “Bình an ở cùng tất cả anh chị em”.

Hôm ấy, Đức Tân Giáo Hoàng Lêô XIV đã lớn tiếng nói, rất rõ ràng, rằng: “Anh chị em thân mến, đây là lời chào đầu tiên của Đức Kitô Phục Sinh, vị Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống vì đoàn chiên của Thiên Chúa. Tôi cũng mong muốn lời chào bình an này thấm sâu vào lòng anh chị em, lan tỏa đến gia đình của mỗi người, đến mọi người, ở bất cứ nơi đâu, đến mọi dân tộc, đến khắp mặt đất. Bình an ở cùng anh chị em!” (nguồn: vaticannews).

Trước hàng ngàn người đứng chật kín quảng trường thánh Phê-rô, Đức Tân Giáo Hoàng Lêô XIV nói tiếp: “Đây là bình an của Đức Kitô Phục Sinh... Bình an này đến từ Thiên Chúa…”

Đúng vậy. Theo Tin Mừng thánh Gio-an ghi lại, lời chào đầu tiên của Đức Giê-su, sau khi Phục Sinh, gửi đến các môn đệ, đó là: “Bình an cho anh em”.

Và, khi nói đến “Đây là bình an của Đức Kitô Phục Sinh”, chúng ta không thể không liên tưởng đến bài huấn từ đã được Đức Giê-su trao đổi với các môn đệ của mình vào những giây phút sinh ly tử biệt, năm xưa.

Trong bài huấn từ đó, Ngài đã nói với các ông rằng: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.”

**
Vâng, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ rằng: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.”

Nói ban-cho-anh-em-bình-an-của-Thầy, vì hôm ấy, các vị môn đệ rất xao xuyến. Rất xao xuyến là bởi, Đức Giê-su đã loan báo cho các ông biết, rằng: “Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi.

Suốt bao nhiêu năm Thầy và trò ở bên nhau, hôm nay chỉ còn một-ít-lâu-nữa-thôi, Thầy sẽ ra đi… hỏi sao các ông không buồn rầu xao xuyến, cho được!

Thấu suốt tâm trạng của các môn đệ, Đức Giê-su đã nói với các ông rằng: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 2-3).

Nghe thế, các môn đệ rất bối rối và đã đặt ra nhiều câu hỏi với Đức Giê-su. Vâng, rất nhiều câu hỏi, và Ngài đã trả lời không xót câu hỏi nào.

Rồi, cuối cùng Đức Giê-su nói: “lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”.

Nói xong, Ngài nhấn mạnh: “Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.”

Nghe thế, các môn đệ có hết buồn rầu xao xuyến! Vâng, chúng ta không thấy thánh sử Gio-an nói gì. Chỉ thấy Đức Giê-su tuyên phán: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14, 27).

Một hồng ân… Có thể nói như thế.

***
Xưa, Chúa Giê-su đã “để lại” bình an cho các môn đệ. Và đã ban cho các môn đệ bình an của Ngài.

Nay, đối với chúng ta, cũng không là ngoại lệ. Chúa Giê-su cũng đã “để lại” và “ban cho” chúng ta bình-an-của-Ngài.

Để có thể có được bình an của Chúa ư! Không, không gì tốt hơn là hãy tham dự thánh lễ, mỗi ngày… mỗi tuần.

Trong mỗi thánh lễ, Chúa Giê-su, qua các vị linh mục chủ tế, Ngài vẫn tiếp tục nói với chúng ta, rằng: “Bình An của Chúa ở cùng anh chị em.”

Tham dự thánh lễ, mỗi ngày… mỗi tuần, chúng ta còn có cơ hội “nhớ lại mọi điều (Chúa) đã nói” qua phần phụng vụ Lời Chúa.

Nhớ lại mọi điều Chúa đã nói rất quan trọng. Rất quan trọng là bởi, điều này chứng minh rằng, chúng ta yêu-mến-Chúa. Khi chúng ta yêu-mến-Chúa, điều tất yếu sẽ xảy ra, đó là chúng ta không ngần ngại “giữ lời Chúa”.

Với những ai yêu mến Chúa và giữ lời Chúa… Chúa Giê-su có nói: “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”.

Cha-Thầy-và-Thầy-sẽ-đến-và-ở-lại-với-người-ấy. Vâng, đó… đó chính là dấu hiệu bình-an-của-Chúa-đang-ở-cùng-người-ấy.

****
Giờ đây, mỗi chúng ta hãy để một phút thinh lặng và tự hỏi mình rằng: đã bao nhiêu năm là Ki-tô hữu: Bình an của Chúa có luôn ở cùng chúng ta? Bình an của Chúa có luôn ở cùng tôi?

Nếu chưa? Hãy tự hỏi điều gì khiến tôi không có sự bình an trong Chúa? Hãy tự hỏi, phải chăng “tội lỗi” chính là nguyên nhân khiến chúng ta không thể có sự bình an của Chúa?

Đó, đó là một câu hỏi rất chính đáng. Thế nên, chúng ta hãy nghe lại câu chuyện nguyên tổ Adam và Eva.

Chưa phạm tội hai ông bà có một cuộc sống rất bình an. Sau khi phạm tội, hai ông bà mất bình an. Thế là, khi “nghe thấy tiếng Đức Chúa… (hai ông bà) trốn vào giữa cây cối trong vườn để khỏi giáp mặt Đức Chúa”. Khỏi-giáp-mặt-Đức-Chúa chẳng phải là bình-an-của-Chúa không ở cùng, sao!

Vâng, phải tránh xa tội lỗi, chúng ta mới có được sự bình an… bình-an-của-Chúa ở cùng.

David… vua David là một con người đã từng trải nhiều sự bất an trong cuộc đời mình. Bị vua Sao-lê truy sát, sau này bị chính con ruột mình là Apsalon, phản nghịch. Thiên Chúa đã cứu ông. Đó là lý do ông đã để lại cho hậu thế một lời khuyên, lời khuyên rằng: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi. Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn”.

Cảm nghiệm này, không chỉ có ở vua David, nhưng còn có ở các vị ngôn sứ xưa kia. Ngôn sứ Isaia như một ví dụ. Ông ta cũng đã khẳng định, rằng: Thiên Chúa… “Người là Đấng Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn đời, là Chúa Bình An.” (Is 9, 5).

Thiên Chúa… là Chúa Bình An… là “Đấng yêu thương tất cả chúng ta vô điều kiện.” Đức Tân Giáo Hoàng Lêô XIV đã tái xác tín điều này, hôm 08/05/2025, trước khi ban phép lành toàn xá Urbi et Orbi, cho Roma và toàn thế giới.

Chúng ta cũng tái-xác-tín như ngài! Vâng, nên làm như thế. Nên làm như thế bằng việc ghi khắc trong con tim mình, rằng: Chúa Giê-su: nguồn bình an của tôi.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2025

Điều răn mới - Kỷ vật Chúa ban…

 Điều răn mới - Kỷ vật Chúa ban…

snTM 180525a


Theo Tin Mừng thánh Luca ghi lại, chúng ta được biết: Đức Giê-su khởi sự ra đi rao giảng Tin Mừng khi “Người trạc ba mươi tuổi.” (Lc 3, 23). Chỉ là một chàng trai ba mươi tuổi, thế nhưng, bất cứ nơi nào Đức Giê-su xuất hiện, ngay lập tức “dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người”.

Dân chúng đi theo Đức Giê-su không chỉ vì Ngài đã “chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền” trong dân chúng, mà còn vì “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”.

Rất nhiều người đã kinh ngạc và bàn tán với nhau rằng: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền.”

Vâng, đúng là vậy. Giáo lý Đức Giê-su giảng dạy rất… rất mới mẻ. Đây, chúng ta hãy nghe Ngài đã có những lời dạy dỗ, rằng: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”.

Và, nếu người xưa dạy rằng, “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác”, thì giáo lý Chúa Giêsu dạy rằng “tất cả những gì chúng con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con cũng hãy làm cho người ta.” (x.Mt 7,12).

Chúng ta có thể nói tắt một lời, những gì Đức Giê-su giảng dạy đều gói gọn trong hai chữ “tình yêu”, một thứ tình yêu “tự nguyện, hy sinh, có ý mong muốn điều tốt đẹp nhất cho người khác”, nói theo ngôn ngữ Hy Lạp đó là “Agape”.

Chúng ta không thể biết được, đã có bao nhiêu người ghi khắc trong con tim mình điều Đức Giê-su dạy bảo. Nhưng có một điều chúng ta biết chắc rằng, các môn đệ đã có lúc không thực hiện bài học yêu thương mà Thầy của mình đã dạy.

Là bạn đồng môn, thế nhưng không ai có thể hiểu được vì sao các môn đệ lại tranh cãi nhau, một dấu hiệu không yêu thương, xem ai là người lớn hơn cả và tại sao hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan lại “muốn Thầy thực hiện cho hai anh em một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”!

Để các môn đệ không “tái diễn” cảnh cãi vả nhau xem ai là người lớn hơn cả, ai là người được ngồi bên hữu, ai là người được ngồi bên tả Thầy, Đức Giê-su đã có thêm một lời dạy dỗ về tình yêu thương và Ngài gọi là “điều răn mới”. Vâng, lời dạy dỗ này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an. (Ga 13, 31-33a.34-35).

**
Câu chuyện được ghi lại như sau: Hôm đó, trong khung cảnh của một buổi tiệc mừng lễ Vượt Qua, và trong lúc các môn đệ còn đang băn khoăn về một kẻ trong nhóm họ phản bội, Đức Giêsu lên tiếng “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy...”.

Gọi các ông là-những-người-con-bé-nhỏ, phải chăng là Đức Giê-su ám chỉ đến sự “nhỏ mọn” của các ông trước việc thể hiện tình yêu thương! Vâng, có thể là như vậy. Là như vậy vì có vài lần các ông đã tranh cãi nhau ai sẽ là người lớn hơn cả.

Cuộc cãi vã của các ông đã làm cho tình đồng môn hoen mờ. Và hồi ấy Đức Giêsu đã dạy cho các ông một bài học, bài học rằng: “...Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người...” (Mt 20, 17-28).

Lời dạy này, đã được Đức Giê-su thực hiện, qua việc rửa chân cho các người môn đệ của mình, ngay hôm ấy, hôm Ngài và các ông cùng tham dự bữa tiệc Vượt Qua.

Hôm đó, sau khi rửa chân cho các ông, Ngài đã nói với họ bằng những lời thiết tha: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

***
Như đã nói ở trên, Đức Giê-su gọi lời Ngài dạy bảo là “điều răn mới”.

Mới, mới ở chỗ nếu luật xưa dạy rằng “Mắt đền mắt, răng đền răng”, thì Đức Giê-su lại dạy rằng: “Đừng chống cự kẻ ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả mà bên trái ra nữa.”

Và mới ở chỗ là người dạy đã thực hiện lời mình dạy một cách tuyệt đối. Cái chết của Đức Giêsu, trên đồi Golgotha chứng minh cho điều Ngài đã giảng dạy: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu, người liều mạng sống vì người mình yêu”.

Đừng quên, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Đức Giê-su đã thể hiện tình yêu của Ngài với kẻ thù, qua lời nguyện rằng: “Lạy Cha! Xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23, 34).

Xưa, Đức Giê-su dạy bảo cho các môn đệ, rằng: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Thì nay, chúng ta cũng phải yêu thương nhau như thế.

Một cách cụ thể, đó là chúng ta hãy phục vụ tha nhân như Chúa đã phục vụ các môn đệ, qua việc rửa chân các ông trong bữa tiệc Vượt Qua. Đó là chúng ta hãy có lòng bao dung với những ai xúc phạm chúng ta, như Chúa đã có lòng bao dung đối với người phụ nữ ngoại tình, rằng: “Tôi không lên án chị đâu!” Đó là chúng ta hãy có lòng tha thứ như Chúa đã tha thứ cho những kẻ nhạo báng sỉ vả mình tại Golgotha, qua lời nguyện nêu trên.

Vâng, sẽ không quá khó để thực hiện những điều nêu trên. Không khó, nếu chúng ta cất đi khỏi tâm hồn mình “tính ích kỷ và sự ganh tỵ”. Và, sẽ rất dễ dàng thực hiện, nếu chúng ta luôn có được một tâm hồn nhân hậu, bác ái, một đức tính hiền hòa, nhẫn nhục v.v... Nói rõ hơn, nếu ngôi vườn tâm hồn chúng ta tràn ngập “hoa trái của Thánh Linh”. (x.Gl 5, 22-23).

Hãy nhớ rằng, khi Chúa “truyền dạy” điều gì cho con người, thì Người cũng sẽ ban ơn đủ để thực thi. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được điều này, nên đã có lời chia sẻ: “Ơn Chúa đủ cho ta”.

Thế nên chúng ta không thể không thực hiện điều-răn-mới Đức Giê-su đã truyền dạy. Hơn nữa, chỉ khi thực hiện, chúng ta mới được gọi là môn-đệ-của-Chúa. Vâng, hôm ấy Chúa Giê-su có nói: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”.

Trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, có rất nhiều người-môn-đệ-của-Chúa, đã thực hiện điều răn mới Chúa truyền dạy, một cách tuyệt đối. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, như một điển hình (1928-2002).

“Không có đức ái thì vẫn có thể có đức tin, nhưng không ích lợi gì.” Thánh Augustinô đã có lời khuyên dạy như thế. Thế nên, qua tấm gương ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, chúng ta hãy khơi dậy trong tâm hồn mình nguồn cảm hứng, một nguồn cảm hứng để “Đem yêu thương vào nơi oán thù. Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục. Ðem an hòa vào nơi tranh chấp. Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm.”
Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta “đem yêu thương, thứ tha, an hòa” đến với tha nhân! Thưa, có phần chắc, chúng ta sẽ có được những người “láng giềng thân thiết, anh em hòa thuận” và sẽ không thể không vui mừng vì gia đình chúng ta sẽ là một gia đình “vợ chồng ý hợp tâm đầu.”

Đừng quên, cả ba điều này, Kinh Thánh nói: “cả ba đều đẹp lòng Chúa và người ta” (x. Hc 25, 1). Mà, khi đã làm đẹp lòng Chúa, chẳng phải là chúng ta đã “yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng ta”, sao!

Thế nên, thật phải đạo khi chúng ta, đã là một Ki-tô hữu, thì đừng quên ghi khắc “điều răn mới” trong con tim mình và hãy xem đó như là “Kỷ vật Chúa ban”.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2025

Chúa khoan nhân là mục tử tôi…

 Chúa Nhật IV Phục Sinh

Chúa khoan nhân là mục tử tôi…

snTM 100525a


Như chúng ta được biết, trong ba năm ra đi rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã “đi khắp miền Ga-li-lê giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân.” Và đó là lý do “danh tiếng Người đồn ra khắp xứ Xy-ri”.

Khi danh tiếng Đức Giê-su đồn ra khắp nơi, rất… rất nhiều ánh mắt đổ dồn vào Ngài, kèm theo đó là những lời nhận định, về con người thật của Đức Giê-su.

Tiểu vương Hê-rô-đê (khi) “nghe danh tiếng Đức Giê-su, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.” (Mt 14, 1-2).

Tiếp theo là ai! Thưa, là bàn dân thiên hạ. Tại Xê-ra-rê Phi-lip-phê, khi Đức Giê-su hỏi các môn đệ “Người ta nói Con Người là ai? Các ông thưa: Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.”

Nghe các môn đệ “tường trình” xong, Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Ông Si-môn Phê-rô thưa: Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.”

Vâng, tất cả những lời nhận định về Đức Giê-su, là như thế. Có những nhận định sai, cũng có nhận định đúng. Về nhận định đúng (của ông Phê-rô), Đức Giê-su gọi đó là “mặc khải” đến từ “Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” Hôm ấy, “Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.”

Cấm ngặt không được nói Người là Đấng Ki-tô. Thế nhưng, Đức Giê-su lại không ngăn cản các môn đệ nói lên một điều được coi như là “chân lý ngàn đời”… Ngài là “Vị Mục Tử nhân lành”. Vâng, Đức Giê-su đã tuyên bố: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành”.

**
Thế nào là một vị mục tử nhân lành? Thưa, Đức Giê-su đã nói, rất rõ ràng, rằng: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” Dùng ngôi thứ nhất, Đức Giê-su lập lại: “Tôi chính là người Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”

Và rồi, như người họa sĩ “điểm nhãn” cho một bức tranh, bức tranh người Mục Tử nhân lành do Đức Giê-su phác họa, đã được Ngài “điểm nhãn” bằng những lời tuyên bố toát lên tình yêu thương vô bờ bến: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 27-30).

***
Là một Ki-tô hữu, chúng ta được gọi bằng một cái tên, hết sức lạ lẫm, đó là: “con chiên của Chúa”. Vâng, đúng là lạ lẫm đối với người đời. Nhưng, đối với chúng ta, điều này không có gì là lạ cả.

Kinh Thánh thường dùng hình ảnh con chiên để nói về con người. Sách Thánh Vịnh có lời chép rằng: “Chính Người đã dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta thuộc dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt” (Tv 103, 3).

Với dân Do Thái xưa, tiêu biểu là vua David, được là một thành phần trong đoàn-chiên-Chúa-dẫn-dắt là một hồng phúc. Chính ông ta đã cảm nhận được điều đó, nên đã thốt lên: “CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ”.

Vua David, từng là người chăn chiên, ông ta biết cuộc sống của chiên sẽ như thế nào là do người chăn như thế nào. Mà, người chăn, là một Thiên Chúa giàu tình thương, thì sao lại không là hồng phúc!

Hôm nay, được mệnh danh là con-chiên-của-Chúa, chúng ta cũng cùng quan điểm với vua David, xưa! Chúng ta cũng sẵn sàng thốt lên: “Chúa chiên lành người thương dắt tôi đi. Tôi không sợ chi, tôi không thiếu gì. Trên đồng cỏ xanh Người cho tôi được nghỉ ngơi. Bên dòng suối mát Người tăng sức cho tâm hồn”!?

Mà tại sao lại không, nhỉ! Tại sao lại không, khi người thương-dắt-tôi-đi, chính là Mục Tử Giê-su, một người Mục Tử nhân lành, ban cho chúng sự sống đời đời, một cách nhưng không!

Do vậy, thật phải đạo khi chúng ta để tâm hồn mình một phút trong thinh lặng và tự hỏi: Tôi có thuộc về đàn chiên của Chúa! Và Chúa có phải là mục tử chăn dắt tôi!

Tôi có “nghe tiếng Chúa gọi!” Hay tôi đang bị bao vây bởi rất nhiều tiếng mời gọi khác, của thế gian này!

Thế gian hôm nay, hỗn loạn với rất nhiều tiếng mời gọi. Những tiếng mời gọi đầy hấp lực, đầy quyến rũ, qua những phương tiện truyền thông ngày càng hiện đại và tinh vi.

Về nan đề này, Ron Rolheiser, OMI, có lời chia sẻ: “Chúng ta bị bao vây bởi rất nhiều tiếng gọi. Hiếm có giây phút nào trong đời sống mà chúng ta không có ai hay không có cái gì đang gọi tới, ngay cả trong giấc ngủ, những giấc mơ và những cơn ác mộng cũng bắt chúng ta phải chú ý.

Mỗi một tiếng gọi đều có nhịp điệu và thông điệp riêng của nó. Một số giọng mời gọi chúng ta bước vào, hứa hẹn một cuộc sống tươi đẹp nếu chúng ta làm cái này hay cái nọ, mua sản phẩm này hay ý tưởng kia; một số giọng đe dọa chúng ta. Một số giọng dẫn dắt chúng ta đến gần với thù hận, cay đắng và tức giận v.v…”

Có nguy hiểm không! Thưa, có. Thế nên, điều quan trọng hơn cả, đó là làm cách nào để chúng ta nhận ra, đâu là tiếng Chúa gọi ta… và đâu là tiếng satan cùng thế gian gọi ta!

Làm thế nào để chúng ta nhận ra đâu là tiếng gọi “dẫn dắt chúng ta đến gần với thù hận, cay đắng và tức giận”, và đâu là “những giọng khác đòi hỏi chúng ta cố gắng hướng tới thương yêu, lòng biết ơn và tha thứ”!

“Có nhiều nguyên tắc…” Thánh Kinh là nguyên tác căn bản để chúng ta “nhận ra tiếng nói của Chúa” Bởi vì, Thánh Kinh chẳng phải là lời Chúa nói, đó sao!

Nguyên tắc kế tiếp là “từ những mạch nguồn sâu thẳm của truyền thống Ki-tô của chúng ta vốn có thể giúp ích cho chúng ta”, ngài Ron Rolheiser, đã có lời khuyên dạy, như thế. Nói cách khác, đó là Thánh Truyền.

Chúng ta còn có thể nghe tiếng Chúa gọi trong thinh lặng, qua những lời thì thầm. Trường hợp Samuel như một điển hình. Kinh Thánh kể rằng, đã có lần Đức Chúa thì thầm gọi Samuel trong đêm thanh vắng. Lần đầu tiên, Samuel không nhận ra. Sau, nhờ lời chỉ dẫn của Thầy Ê-li, Samuel đã nhận ra, nghe lời thầy dạy, Samuel cất tiếng nói với Chúa: “Lạy Đức Chúa... tôi tớ Ngài đang lắng nghe”.

Thật ra, tiếng Chúa gọi qua những lời thì thầm, ngày hôm nay chúng ta gọi là “mặc khải tư”, không phải lúc nào Ngài cũng thực hiện. Tại sao! Thưa, bởi ngày nay, như đã nói ở trên, đã được Chúa nói rất to và rất rõ ràng qua Thánh Kinh.

Thánh Kinh, chính là nơi có rất nhiều “tiếng gọi” của Chúa mà chúng ta sẽ được nghe, nếu chúng ta tiếp cận. Từ Thánh Kinh, chúng ta được biết, rằng: có một người Mục Tử Nhân Lành, người đó chính là Đức Giê-su, một Giê-su Phục Sinh, đã hy sinh chính mạng sống mình vì “đàn chiên”, một Giê-su Phục Sinh, vẫn đứng đó, nơi bàn Tiệc Thánh Thể và cất tiếng mời gọi những “con chiên” yêu dấu của mình, rằng: hãy đến để nhận lấy một thứ cỏ, không phải là thứ cỏ dại, nhưng là thứ cỏ đem lại sự sống đời đời, thứ cỏ mang tên “Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô”.

Chúng ta có bị “chia rẽ” sau khi nghe những lời này, như người Do Thái xưa đã bị chia rẽ? Chúng ta có như người Do Thái xưa, sau khi nghe những lời này, đã nói về Đức Giê-su rằng: “Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi!” (x.Ga 10, 19-20).

Vâng, có… có phần chắc là chẳng ai trong chúng ta lại có hành động như thế! Thế thì, ngay hôm nay, bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau cất tiếng thưa với Chúa, thưa rằng: “Lạy Chúa khoan nhân - Ngài là mục tử tôi”.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2025

Chúa ơi! con đây…

 Chúa Nhật III Phục Sinh

Chúa ơi! con đây…

tbd 030525a


Trong những ngày ra đi loan báo Tin Mừng, một ngày nọ, Đức Giê-su nói với ông Si-môn con ông Giô-na rằng: “Thầy, Thầy bảo cho anh biết, anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.”

Điều Đức Giê-su nói, quả thật đã được Ngài thực hiện. Ngài đã thực hiện vào ngày thứ nhất trong tuần, ngay sau khi từ cõi chết trỗi dậy. Hôm ấy, trước mặt đông đủ các môn đệ, Đức Giê-su nói: “Như Chúa Cha sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.

Còn về việc trao cho ông Phê-rô chìa-khóa-Nước-Trời ư! Vâng, Đức Giê-su cũng đã trao cho ông. Tại Biển Hồ Ti-bê-ri-a, Ngài đã ba lần phán truyền với ông Phê-rô rằng: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy”.

Sự việc này, được ghi lại chi tiết trong Tin Mừng thánh Gio-an. (Ga 21, 1-19).

**
Chuyện được kể rằng: Sau khi các môn đệ đã được nhìn thấy Đức Giê-su Phục Sinh tại Giê-ru-sa-lem, một số các ông trở về Ga-li-lê. Thánh sử Gio-an cho biết số người về Ga-li-lê gồm có: “ông Simon Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-dy-mô, ông Na-tha-na-en người Cana miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa.”

Tổng cộng là bảy người. Bảy người về Ga-li-lê và họ cùng ở bên nhau. Có lẽ… có lẽ lúc đó các ông vẫn mang tâm trạng “buồn hiu hắt buồn”.

Vâng, buồn lắm chứ! Làm sao quên được lời bà Maria Mác-đa-la nói hôm trước rằng, bà và mấy người bạn của bà có ra mộ, và đã gặp Thầy Giê-su. Thầy Giê-su nói với bà rằng: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.”

Ga-li-lê là đây… Biển Hồ Ti-bê-ri-a là đây… Thầy đâu không thấy! Chẳng lẽ cứ ngồi nhìn mây nhìn trời “nhớ nhớ buồn buồn với chán chường” sao!

Để xua tan nỗi buồn, ông Si-mon Phê-rô nói với các bạn đồng môn: “Tôi đi đánh cá đây.” Nghe thế, các bạn đồng môn đồng thanh đáp: Chúng tôi cùng đi với anh”.

Thế là con thuyền lướt sóng ra khơi. Bảy ông ngư phủ lực lưỡng, kẻ lái người chèo, người thả lưới… Nhưng, than ôi! Sau một đêm vật lộn với sóng biển “Họ không bắt được gì cả”.

Không đánh bắt được gì, các ông đành phải đem thuyền về neo bến cũ. Rồi “khi trời đã sáng”, chuyện kể tiếp rằng: “Đức Giê-su đứng trên bãi biển…” Thế nhưng, “các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su”.

Phần Đức Giê-su, Ngài hỏi: “Này các chú, không có gì ăn ư!” Các ông đã trả lời như thể trả lời với một vị khách lạ không quen: “Thưa không”. Một đêm thức trắng không bắt được một con cá nào cả thì lấy gì để “có gì ăn”!

Không để cho các môn đệ tiếp tục gặm nhấm nỗi buồn, Đức Giê-su bảo các ông: “Cứ thả lưới bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”. Cứ-thả-lưới-bên-phải ư! Vâng, các vị môn đệ đã làm đúng như vị “khách lạ” truyền bảo. Chuyện tiếp rằng: “các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá”.

Trong khi những người bạn đồng môn tỏ ra vui mừng thì “người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nhận ra người khách lạ chính là Đức Giê-su. Người môn đệ này nói với ông Phê-rô: “Chúa đó!” Vậy là lời bà Maria Mác-đa-la nói “Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” quả không sai chút nào, sao! Thưa, đúng vậy.

Trở lại “ngư trường”, sau khi nghe bạn mình nói, ông Phê-rô “vội khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển”. Nhảy-xuống-biển bơi vào bờ cho nhanh để gặp Thầy mình chăng! Vâng, có thể là vậy. Bởi vì, con thuyền lúc đó, kéo theo một mẻ lưới đầy cá, thì làm sao lướt nhanh được!

Rồi khi bước lên bờ, các ông không khỏi ngạc nhiên khi “nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.”

Như một cách để các môn đệ nhìn thấy rõ “kết quả” mình đã làm, Đức Giê-su bảo các ông: “Đem ít cá mới bắt được tới đây!” Ông Phê-rô, “ông Si-môn Phê-rô (lại) lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không rách.”

Sau đó, Đức Giê-su nói với các ông: “Anh em đến mà ăn”. Bấy giờ các môn đệ đã biết rằng “đó là Chúa”. Và rồi, những giây phút… “phút linh thiêng” đến. Đức Giê-su “cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy.”

Thánh sử Gio-an cho biết: “Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết”.

Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Phê-rô rằng: “Này anh Si-môn con ông Gio-an anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Vâng, Đức Giê-su đã hỏi ông Phê-rô tới ba lần, cả ba lần ông Phê-rô đều trả lời rằng: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”.

Đáp lại những câu trả lời của ông Phê-rô, Đức Giê-su đã nói với ông Phê-rô, ba lần rằng: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy… Hãy chăn dắt chiên của Thầy… Hãy chăm sóc chiên của Thầy”.

Ba lần nhắn nhủ như ba lần khẳng định, là anh… là anh và chỉ là anh Phê-rô. Anh Phê-rô, anh phải như là một thủ lãnh của các thủ lãnh, để tiếp tục lèo lái con thuyền, không phải con thuyền mà anh đang sở hữu để lưới cá, nhưng là “Con Thuyền Giáo Hội”, để “lưới người”.

Đừng “săm soi” ba câu hỏi Chúa hỏi ông Phê-rô mà nghĩ đến ba lần chối Chúa của ông. Nhưng hãy… hãy tự hỏi mình rằng: tôi có yêu mến Chúa như ông Phê-rô đã yêu mến Chúa! Hãy tự hỏi mình rằng, khi tôi nhận lãnh trách nhiệm “chăm sóc chiên con của Chúa” tôi có như ngài Phê-rô “làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông”!? (x.Cv 5, 28). Nói rõ hơn, tôi có “làm cho Huế, Saigon, Hà Nội ngập đầy giáo lý của Chúa!”

***
Chúa Giê-su Phục Sinh đã đến Ga-li-lê. Ngài đã giao phó sứ vụ cho Si-môn Phê-rô “chăm sóc chiên con của Ngài”. Và, hôm nay, Giáo Hội tiếp tục sứ vụ này. Giáo Hội vẫn tiếp tục “truyền bá Phúc Âm”. Qua Thánh Lễ, Giáo Hội “chăm sóc con chiên của Chúa” bằng Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể.

Xưa, có lần Chúa Giê-su nói với satan: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”, thì nay, qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, con-chiên-của-Chúa sẽ nhận được thức ăn dinh dưỡng Lời Chúa, một thứ dinh dưỡng làm cho sự sống thiêng liêng “không nguội lạnh – không chết đi”.

Cũng như thế đối với phần Phụng Vụ Thánh Thể. Thức ăn dinh dưỡng Thánh Thể, nói rõ hơn, Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô, Chúa Giê-su nói: “Ai ăn… sẽ được sống muôn đời” (x.Ga 6, …58).

“Anh chị em đừng bao giờ phạm sai lầm là chối bỏ Đức Ki-tô, hoặc không đánh giá đúng và không lãnh nhận thức ăn dinh dường Người ban cho chúng ta thông qua Giáo Hội, trong cuộc cử hành thánh lễ Chúa Nhật.”

Những lời được viết trên đây, là lời khuyên chân tình của cha Charles E.Miller. Vấn đề còn lại, đó là chúng ta có muốn “lãnh nhận” hay không! Nếu muốn, hãy đến… đến nhà thờ mỗi Chúa Nhật. Tại nơi đây, chúng ta sẽ được các vị linh mục, là những người “chăm sóc chiên con của Chúa” phân phát thức ăn dinh dưỡng mà Chúa ban cho, cho chúng ta, một cách nhưng không.

Chúa Giê-su Phục Sinh hôm nay, không đứng nơi Biển Hồ Ti-be-ri-a, Ngài đứng nơi Bàn Tiệc Thánh Thể, chờ chúng ta đến lãnh nhận. Hãy đến và nói với Ngài “Chúa ơi! con đây”.

Petrus.tran

 

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2025

Chúa Giê-su… Đấng giàu lòng thương xót

 Chúa Nhật II Phục Sinh – C

Chúa Giê-su… Đấng giàu lòng thương xót

tbd 260425a


Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái có lời dạy rằng: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (x.Dt 11, 1).

Lời dạy nêu trên, theo một số nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng “chưa xác định được chính xác ai là tác giả”. Ai… ai là tác giả, không ai biết! Nhưng có phần chắc rằng, tác giả phải là một người trong Nhóm Mười Một, là những môn đệ đã được Đức Giê-su tuyển chọn.

Vâng, một người trong Nhóm Mười Một đã có lời truyền dạy như thế. Thế nhưng, ngày xưa, khi đối diện với sự kiện Đức Giê-su Phục Sinh, các vị tông đồ đã không dễ dàng nói “tôi tin”, đúng như tinh thần của lời dạy nêu trên. Đã có một vị tuyên bố, rằng: “Nếu tôi không thấy… tôi chẳng có tin”. Người đó chính là tông đồ Tô-ma.

Câu chuyện của tông đồ Tô-ma được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an. (Ga 20, 19-31).

**
Theo Tin Mừng thánh Gio-an ghi lại: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”.

Phải nói rằng, các ông rất sợ hãi. Bởi vì, sau khi nhóm thượng tế và các kỳ mục được “mấy người lính trong đội canh mồ” báo cho biết sự việc Đức Giê-su đã trỗi dậy, họ cho lính một số tiền lớn và bảo họ tung tin đồn rằng, “ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác” (Mt 28, 13).

Tưởng chúng ta nên biết, vào thời đó, trộm xác là một tội rất nặng. Do vậy, trước những tin đồn ác ý đó, chuyện các môn đệ “tránh voi” cũng chẳng có gì “xấu mặt”.

Ngoài chuyện “tránh voi”, các môn đệ còn rất âu lo. Vâng, nếu tính từ hôm “thứ sáu”, là ngày Đức Giêsu bị đóng đinh trên cây thập tự tại núi Sọ, và hôm nay đã là “chiều ngày thứ nhất trong tuần”, nay đã quá bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Sắp hết ba ngày rồi! Thế mà, lời phán hứa của Thầy rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9, 31)… Ôi! Sao vẫn chưa thấy ứng nghiệm! Không âu lo sao được!

Đang lúc tâm hồn các môn đệ “…như lá úa trong cơn mê chiều, nhiều cơn gió cuốn xoáy xoay trong hồn và cơn đau này vẫn còn đây”, thì… không ai có thể tin được, “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em”.

“Nói xong…” chuyện kể tiếp rằng: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Vâng, các môn đệ đã xem. Chúng ta có thể nghĩ rằng: các ông đã thấy rất rõ bàn tay và cạnh sườn in đậm dấu tích của vết đinh và mũi đòng, chứng tích của cuộc khổ nạn mà Ngài đã phải trải qua.

Kể từ đó, những giờ phút của âu lo, nơi các môn đệ, không còn nữa. Thánh sử Gio-an mô tả ngắn gọn, rằng: “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa”.

Các môn đệ đã thấy Chúa, một Chúa Giê-su Phục Sinh, một Chúa Giê-su “chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi” về những điều tồi tệ mà các ông đã thể hiện hôm Ngài bị bắt tại núi Oliu.

Hôm ấy, nhìn các môn đệ với ánh mắt thứ tha, Chúa Giê-su Phục Sinh đã ban cho các ông ơn tái sinh và quyền năng tha tội. Ngài nói: “Như Chúa Cha sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.

Tất cả các môn đệ đều được nhận lấy Thánh Thần, ngoại trừ tông đồ Tô-ma. Theo lời thánh sử Gio-an ghi lại: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-dy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến.”

Và, đó là lý do khi các môn đệ nói với ông: “chúng tôi đã được thấy Chúa”, ông Tô-ma đã không tin. Ông ta quan niệm rằng: “Bách văn bất như nhất kiến - Trăm nghe không bằng một thấy”.

Thế nên, rất lạnh lùng, ông Tô-ma đáp lời rằng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).

Tám ngày sau, “các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà”. Lần này, “có cả ông Tô-ma ở đó với các ông.” Vẫn mang tâm trạng “sợ người Do Thái”, nên các ông đóng kín các cửa ra vào ngôi nhà của mình.

Thế rồi, cũng như lần trước “Đức Giê-su đến đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em.” Nói xong, Đức Giê-su nhìn lần lượt từng người môn đệ, thấy không thiếu một ai, Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”

Ngước nhìn Đức Giêsu, ông Tô-ma nghẹn ngào thưa với Ngài: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28). Đáp lại, Đức Giêsu phán rằng “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,…29).

***
Thật ra, không chỉ có ông Tô-ma “cứng lòng tin”, các môn đệ khác cũng “cứng lòng tin” không kém gì ông Tô-ma.

Bằng chứng thứ nhất, đó là các môn đệ, những người được thánh sử Mác-cô mô tả “từng sống với Đức Giê-su”, dù đã nghe bà Maria Mác-đa-la nói “Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin” (x.Mc 16, 11).

Rồi tiếp đến là “(Chúa) tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường về quê. Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này” (Mc 16, 12-13).

Cuối cùng, Đức Giê-su, trong một lần tỏ mình ra cho “chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người trỗi dậy” (x.Mc 16, 14).

Dẫu sao, sự cứng lòng tin của Tô-ma, cũng như của những môn đệ khác, đã chứng minh rằng: các ông không hề là những người có một đức tin “mù quáng”. Chưa hết, sự cứng lòng tin của các môn đệ giúp chúng ta (hôm nay) có thêm được một mối phúc nữa, đó là: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.

Thế nên, hôm nay, điều chúng ta cần quan tâm đến, không phải là quan tâm đến lòng tin của các môn đệ xưa, nhưng là quan tâm đến lòng tin của chính mỗi chúng ta. Hãy tự hỏi mình rằng: Tôi có tuân theo lời Chúa Giê-su truyền dạy: không-thấy-mà-tin!

Trước khi về trời, Đức Giê-su đã có lời phán truyền rằng: “Và đây, Thầy ở lại cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, …20) Ở-lại-cùng-anh-em-mọi-ngày (trong đó có chúng ta), rất rõ ràng nhé! Vậy, dù không thấy Chúa-ở-cùng, chúng ta có tin không?

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, nếu có lòng tin, chúng ta sẽ thấy Chúa đang ở cùng chúng ta. Ngài vẫn đang ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế nơi Bàn Tiệc Thánh Thể.

Nơi Bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta không chỉ nhận được lời chúc “Bình an cho anh em” qua vị linh mục chủ tế, mà còn được “đưa tay ra đặt vào Thân Thể Đức Ki-tô Phục Sinh”.

Chỉ cần một cử động, cử động của đôi chân bước lên “Bàn Tiệc Thánh Thể”, đón nhận “Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô”, là chúng ta có thể “thấy Chúa – gặp Chúa”.

Chúa Giê-su Phục Sinh là một vị Chúa giàu lòng tha thứ. Ngay hôm ấy, hôm chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giê-su còn ban cho các môn đệ (và hôm nay Giáo Hội được thừa hưởng) một món quà Phục Sinh đó là “quyền tha tội”, “một dấu chỉ tình yêu độc nhất của Thiên Chúa mà ta gọi là lòng thương xót của Ngài”.

Cha Charles E.Miller, kèm theo lời chia sẻ nêu trên, ngài còn thêm lời khuyên rằng: “Hôm nay, tốt hơn hết là anh chị em nên nhớ lại những phương tiện Chúa đã dùng để bày tỏ tình yêu đối với chúng ta, nhất là qua lòng thương xót và khoan dung của Ngài.”

Nên… nên-nhớ-lại. Và, cũng nên-tự-hỏi, rằng tôi có muốn có được “lòng thương xót và khoan dung của Chúa!” Vâng, tại sao lại không nhỉ!

Có ai trong chúng ta lại không là “tội nhân” trước mặt Thiên Chúa! Có ai trong chúng ta lại không có lúc “khích bác kẻ khác”! Có ai trong chúng ta lại không có lúc “đối xử với nhau lạnh nhạt”! Có ai trong chúng ta lại không có lúc “gây bất hòa, chia rẽ”!

Còn gì nữa không! Còn… còn đó là những điều khi “mắc phải” khiến chúng ta “không còn kính trọng Thiên Chúa – Cha Trên Trời của chúng ta”.

Thế nên, Chúa Nhật hôm nay (27/04/2025) Chúa Nhật “KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT (của) CHÚA”, thật phải đạo khi chúng ta cùng nhau cất tiếng cầu xin Chúa Giê-su Phục Sinh rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những Linh Hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.”

Vâng, chúng ta rất cần đến lòng-Chúa-thương-xót. Do vậy, hãy cầu xin và hãy tin, tin rằng: Chúa Giê-su là Đấng giàu lòng thương xót.

Petrus.tran

Ngài ơi! Xin Ngài hãy đến!

  Ngài ơi! Xin Ngài hãy đến! “Thánh Thần, khấn xin ngự đến! Hồn con đang mong chờ Ngài. Suối nguồn thánh ân hiện xuống! Này dương gian, xin ...