Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013

Good morning Jesus... You are the King of my life.



Đức Giêsu… Ngài là vua của đời tôi?

Theo Tây lịch, chỉ còn hơn một tháng nữa, năm 2013 sẽ kết thúc. Với lịch Công Giáo, chúng ta quen gọi là lịch Phụng Vụ, có một chút khác biệt, khác biệt ở chỗ, kết thúc một năm, không được tính vào tháng mười hai nhưng vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng mười một, một Chúa Nhật, theo truyền thống, Giáo Hội dành riêng để long trọng kính Chúa Giêsu Kitô Vua.

Vì sao lịch Phụng Vụ lại có ngày lễ Chúa Giêsu Kitô Vua? Thưa, là bởi, trước trào lưu con người chủ trương tiêu diệt Thiên Chúa, hô hào trục xuất Thiên Chúa ra khỏi gia đình, ra khỏi học đường, ra khỏi xã hội, ra khỏi quốc gia, Đức Giáo Hoàng Piô XI, vào ngày 11/10/1925, đã thiết lập một ngày lễ để tôn vinh CHÚA GIÊSU KITÔ VUA. Sự tôn vinh này như một cách minh định rằng: Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, và là Thiên Chúa thật, Ngài là Vua vũ trụ, Vua muôn loài, là Vua của tất cả mọi người, của mọi dân tộc, của mọi quốc gia.

Thật ra, không chờ đợi đến hôm nay để Giáo Hội công bố với thế giới, rằng, Chúa Giêsu là vua, nhưng là ngay từ những ngày khởi đầu cho chương trình cứu độ, Thiên Chúa, qua sứ thần Gabrien, Người đã hé mở cho thế gian biết, rằng: một cô thiếu nữ tên là Maria, cô Maria “…sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu, Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacop đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 31-33)

Có một điều, một điều hết sức lạ lùng, “triều đại” Vua Giêsu đã được Ngài thiết lập, không giống như triều đại của những ông vua, những lãnh tụ trần thế.  Triều đại của Vua Giêsu không thiết lập bằng bạo lực, bằng thủ đoạn, bằng sức mạnh của họng súng, nhưng bằng chính “tình yêu thương”, một thứ tình yêu, dám “hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15,13).

Vâng, để biết sự thật, chúng ta hãy cùng nhau, ngược dòng thời gian, trở về Palestina, đến núi Oliu và tiếp đến là đồi Sọ, bên ngoài thành Giêrusalem của hơn hai ngàn năm xa trước đó, để nghe từng tiếng nói, để thấy từng hình ảnh, để chứng kiến từng sự kiện, mà Vua Giêsu đã tuyên bố và đã làm, và cuối cùng là để trả lời cho câu hỏi; “Đức Giêsu… Ngài là vua của đời tôi?”

**
Giêrusalem của hơn hai ngàn năm xa trước đó. Đang khi cư dân của thành phố hân hoan mừng lễ Vượt Qua, thì, tại một nơi gọi là núi Oliu, trong thinh lặng, Đức Giêsu cầu nguyện. Sự cầu nguyện bị phá vỡ bởi tiếng vó ngựa và tiếng va chạm binh khí đến lạnh người. Một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Phariseu xuất hiện.

Chỉ mới vài hôm trước, hôm Đức Giêsu cùng với các môn đệ lên Giêrusalem. Một rừng người đã cầm nhánh thiên tuế ra đón Người và reo hò “Hoan hô! Hoan hô!... Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel”.

Làm sao không tung hô, vạn tuế cho được. Ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, với những phép lạ chữa lành bệnh tật, cho kẻ chết sống lại, với những dấu lạ hóa bánh ra nhiều, với sự nhân từ và lòng bao dung, Đức Giêsu đã để lại nơi công chúng hình ảnh một vị quân vương  đầy quyền uy, đầy quyền uy nhưng không dùng quyền uy đó để cai trị nhưng là để  “phục vụ”, là “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19, 10).

Thật vậy, đã có lần dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua. Chính vì thế, các thủ lãnh Do Thái quyết định giết Đức Giêsu. Họ cho rằng, đó chính là nguyên nhân dẫn đến việc Roma sẽ phá hủy thành thánh. Do Thái đang bị cai trị bởi Roma. Ngoài hoàng đế Cesar … ai dám tôn xưng là vua!

Nhóm thượng tế âm mưu bắt Đức Giêsu qua sự mua chuộc một người môn đệ tên là Giuđa. Biết rõ nơi Đức Giêsu đang hiện diện. Y thông báo cho nhóm cơ binh. Và rồi, khi lực lượng tinh nhuệ của nhóm thượng tế xiết chặt vòng vây nơi núi Oliu, như con thú đói mồi, Giuđa xông đến trước mặt Đức Giêsu. Sự hung hăng trên khuôn mặt của tên phản bội không làm Đức Giêsu nao núng. Ngài cất tiếng hỏi “Các anh tìm ai?”. Họ đáp “Tìm Giêsu Nazareth”. Khi tiếng nói Đức Giêsu thốt lên “Chính tôi đây” Giuđa cùng nhóm cơ binh hốt hoảng lùi lại và ngã xuống đất.

Sau giây phút hốt hoảng, nhóm cơ binh xông vào trói Ngài. Họ điệu Ngài đến trước các ông Kha-nan và thượng tế Cai-pha, những chức sắc cao cấp của người Do Thái. Trong lúc thẩm vấn Đức Giêsu, những màn xỉ nhục và đánh đập đã diễn ra. Khuôn mặt, vầng trán, đỉnh đầu của Đức Giêsu đầy dấu tích đòn thù. Không giải quyết được gì. Họ dẫn giải Ngài đến trước tổng trấn Phi-la-tô. Ông ta hỏi Ngài “Ông có phải là vua dân Do Thái không ?”.

***
“Ông có phải là vua dân Do Thái không ?”. Đúng vậy.

Hôm đó, trước mặt quan tổng trấn Phi-la-tô đầy kiêu hãnh, Đức Giêsu lớn tiếng nói rằng “Thật như lời, ta là vua” (Mt 18, 37). Hơn bảy trăm năm trước, ngôn sứ Mikha đã tiên báo “Phần ngươi, hỡi Belem Epratha… từ nơi ngươi… sẽ xuất hiện một vị có sứ mạng thống lĩnh Israel” (Mk 5, 1).

Và hôm đó, nơi núi Sọ, lời tiên tri của ngôn sứ Mikha đã ứng ngiệm. Giêsu-Nazareth đã “nhậm chức”. Một lễ nhậm chức với cảnh chiều lộng gió, “trời đất phải làm kinh”, hòa theo là những “tiếng chày tiếng búa nện đinh”, với những tiếng hò hét “buông lời nhạo báng”, với những lời thách thức ngạo mạn “Nếu ông là Vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi”…

Hôm đó, tổng trấn Philatô đã cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: “Giêsu Nazareth, Vua dân Do Thái”.

****

Đừng ngạc nhiên về những gì đã xảy ra trong ngày “nhậm chức” của Vua Giêsu. Đúng, vai trò của Đức Giêsu đến thế gian  là để thi hành sứ-mạng-thống-lĩnh-Israel. Thống lĩnh Israel, nhưng Ngài không thống lĩnh quốc gia “thuộc về thế gian này” mà là thống lĩnh con dân Israel, đưa họ trở về với chân lý và sự thật.

Chân lý và sự thật đó đã được Vua Giêsu công bố, rằng: “Như ông Môse đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,15).

Đây không phải là lời hứa xuông, như các lãnh tụ trần gian thường hứa xuông trong mùa tranh cử để “kiếm phiếu”. Nơi núi Sọ, Vua Giêsu đã thực thi lời phán hứa của Ngài.

Chuyện được ghi lại, rằng: Cùng trên núi Sọ, có hai tên gian phi, một tên “cũng nhục mạ người”. Nhưng tên kia thì không. Người gian phi này, hôm đó, thưa với Đức Giêsu, rằng: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”.  

Nơi núi Sọ, nếu có ngạc nhiên, vâng, chúng ta hãy ngạc nhiên vì tên gian phi đã được toại nguyện.  Hôm đó, Đức Giêsu nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43).

*****
Chúng ta cùng trở lại núi Sọ. Vâng, theo lời ghi chép lại của thánh sử Luca, thì, hôm đó, “dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời chế nhạo… Lính tráng cũng chế giễu Người” (Lc 23, 35…36).

Hãy trở về trong thinh lặng và hãy tự hỏi lòng mình rằng, tôi là ai trong số những người hiện diện trên núi Sọ năm xưa?

Có lẽ không ai trong chúng ta muốn mình là “các thủ lãnh” hoặc  là những người “lính tráng” năm xưa. Nói cách khác, chẳng ai trong chúng ta  muốn buông lời chế nhạo hay chế giễu Vua Giêsu của chúng ta. 

Thế nhưng, phải coi chừng, coi chừng, rất có thể, vô tình, cách này cách khác,  chúng ta có tham dự vào phần việc ấy.

Thì đây, hãy tự hỏi lòng mình rằng, có bao giờ, chỉ vì miếng cơm manh áo, chỉ vì để tiến thân trên con đường công danh sự nghiệp, chỉ vì quyền bính, chỉ vì “đảng tịch”, chúng ta có “vô tình” phỉ báng Vua Giêsu, chế diễu Ngài, bằng cách không xưng danh Ngài trong bản sơ yếu lý lịch hay trong tờ “chứng minh nhân rân”?!

Hãy tự hỏi lòng mình rằng, có bao giờ, cũng vì những lý do nêu trên, chúng ta vô tình phỉ báng Vua Giêsu, chế giễu Ngài, bằng hình thức ủng hộ những đạo luật, thỏa hiệp những sắc lệnh, do những tên cô hồn các đảng, trên vai trò lãnh đạo đề ra, đi ngược với đức tin Kitô giáo, hủy hoại sự công bằng bác ái mà  Kitô giáo đề cao?!
Còn nhiều… còn rất nhiều điều xảy ra trong đời thường, dễ khiến chúng ta chế giễu phỉ báng, thách thức Vua Giêsu.  
*****
Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới cổ võ cho chủ nghĩa thế tục. Có chủ nghĩa thế tục nào, dù có ôn hòa hay trung lập, mà không hung hãn, mà không phỉ báng, chế diễu, thách thức Thiên Chúa? Có chủ nghĩa thế tục nào mà không hô hào “Thiên Chúa đã chết… Bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm”?

Đừng ngạc nhiên gì cả, bởi những loại chủ nghĩa đó, chính là sản phẩm của Xatan. Mà Xatan, Kinh Thánh nói, nó là “loài xảo quyệt”, là “tên chuyên mê hoặc toàn thể nhân loại” (Kh 12, 9)

Thế nên, trước chủ nghĩa thế tục, một chủ nghĩa với tham vọng sẽ xây dựng một “vương quốc thế tục”, là một Kitô hữu,  đừng quên lời Thiên Chúa đã khuyên răn: “Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi thành ấy đi, để khỏi thông đồng với tội lỗi của nó và hứng lấy những tai ương dành cho nó” (x. Kh 18, 4)

Vâng, chẳng những đừng quên, mà chúng ta còn cần ghi lại lời khuyên này, để ngay trên dầu giường mỗi chúng ta, và mỗi sớm mai, khi thức giấc, đừng vội nghĩ: hôm nay ăn gì mặc gì, hôm nay chứng khoán tăng hay giảm, hôm nay phải kiếm bao nhiêu tiền v.v…mà hãy nhìn lên thánh giá Chúa Giêsu, đọc lại lời khuyên của Người và đừng rời khỏi nhà trước khi nói với Người rằng: “Good morning JESUS. You are the King of my life – Chào GIÊSU. Ngài là Vua của đời con”.

Petrus.tran










Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.



Kính chào quý bạn hữu
Tuần này, petrus.tran xin gửi đến trang nhà bài suy tư sau.
Kính chúc quý bạn hữu cùng toàn thể gia quyến khỏe mạnh và bình an của Chúa luôn ở cùng.

*****

Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.  

Thế giới hiện chúng ta đang sống, có thể nói, là một thế giới ngày càng nhiều bất ổn và chết chóc. Bất ổn và chết chóc bởi chiến tranh, bởi thiên tai hạn hán, bởi động đất hoặc bão lụt.

Tuần vừa qua, 8.11.2013, một cơn bão với tên gọi là Haiyan, đã đổ bộ vào Samar cách thủ đô Manila 600km về phía đông nam và miền trung Philippin rồi nhanh chóng di chuyển về phía tây bắc, tấn công các tỉnh Leyte và Iloilo. Với sức gió đạt 310 km/h đã khiến cho cả thành phố Tacloban hầu như bị san bằng.

Xác người nằm ngổn ngang khắp thành phố. Có những chiếc tàu nặng cả chục tấn, thế mà vẫn bị sóng biển dâng cao hất vào đất liền như một mảnh giấy nằm chơ vơ trên đường phố. Một đoạn video ngắn trên CNN đã trình chiếu cảnh nước biển tràn vào khách sạn, lên đến lầu một. Đâu đó chúng ta có thể nghe lời than khóc của một người cha mất con vì gió mạnh đến độ nó đã kéo đứa bé ra khỏi tay ông ta.

Với những gì đã xảy ra, quả thật, bão Haiyan là một thảm họa cho đất nước Philippin.

Cứ sự thường, mỗi khi có thảm họa xảy ra, con người lại tự hỏi, phải chăng là sắp đến tận thế? Sắp tận thế! Khi nào tận thế!  Vâng, đó là câu hỏi mà nhiều người muốn có câu trả lời.

Thật ra, không phải hôm nay, nhưng là ngay từ xa xưa, các môn đệ của Chúa Giêsu cũng đã có những thắc mắc như thế, đã có lần các ông hỏi Thầy của mình rằng: “Xin Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy xảy ra, và cứ điềm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế” (x.Mt 24, 3).

Không như một số giáo phái thường “chẻ lời Kinh Thánh ra làm tư” để tiên báo về ngày tận thế. Cũng không như các nhà khoa học cho rằng, một ngày nào đó sau hàng tỷ năm, thế giới chúng ta sẽ qua đi, vì mặt trời, nguồn năng lượng của nó, sẽ cạn kiệt nhiên liệu.  Theo giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo thì, không một ai có thể “…biết được thời gian hoàn tất của trái đất và nhân loại… Chúng ta cũng chẳng biết cách thức biến đổi của vũ trụ. Chắc chắn hình ảnh của một thế gian lệch lạc vì tội lỗi sẽ qua đi, nhưng chúng ta được biết Thiên Chúa đã dọn sẵn một chỗ ở mới và một đất mới, nơi công bằng ngự trị…” (x.Hiến chế về Mục Vụ trong thế giới ngày nay, số 39)

Đúng vậy, Chúa Giêsu, trong những ngày còn tại thế, Ngài đã cho các môn đệ biết rằng, sự cần thiết để biết  “bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra” không quan trọng cho bằng “đến Ngày phán xét (mọi người) sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói (hay đã làm)” mới là điều cần quan tâm đến.

Ngày tận thế ư! Đó là điều nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Vì là chương trình của Thiên Chúa cho nên ngày đó sẽ đến, không phải theo cách hoặc thời điểm mà một số các giáo phái thường tiên báo hay các nhà khoa học tưởng là…

Nói về ngày tận thế, Đức Giêsu đã có một bài giáo huấn và bài giáo huấn đó đã được ghi chép lại trong Tin Mừng thánh Luca (21, 8-19).

**

Tin Mừng thánh Luca đã thuật lại rằng: Một hôm, nhân có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: ‘Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào’.  

Bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào ư! Sau lời tuyên bố đó, không thấy thánh Luca nói đến, nhưng rất có thể các môn đệ của Đức Giêsu không khỏi không hoang mang lo lắng.

Hành động các ông lập tức hỏi Người, rằng: “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước?”, cho thấy, các ông thật sự muốn Thầy của mình cho một lời giải đáp khả dĩ, một lời giải đáp hầu khỏa lấp nỗi hoang mang lo lắng của các ông. 

Vâng, hôm đó, thay cho lời giải đáp, Đức Giêsu đã để lại cho các ông những lời dặn dò, những lời dặn dò nhằm đem lại cho các ông  sự “bền chí” và  lòng “kiên trì”. Một sự bền chí và kiên trì vượt không gian và thời gian. Một thứ không gian và thời gian do chính Thiên Chúa là Đấng quyền năng, làm chủ. Người không chỉ lảm chủ không gian lẫn thời gian, mà còn làm chủ ngay cả: “một sợi tóc trên đầu anh em…” (Lc 21, 18). 

***
Đức Giêsu đã dặn dò những gì? Thưa, Ngài căn dặn rằng, “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘chính ta đây’, và ‘Thời kỳ đã đến gần’: anh em chớ theo họ” (Lc 21, 8).

Từng bước… từng bước… Đức Giêsu cho các môn đệ thấy những “điềm báo trước” và chính những điềm báo trước này sẽ là cơ hội để các ông “làm chứng” cho Ngài. Những điềm báo trước, đó là “chiến tranh, động đất, ôn dịch và đói kém”. Những điềm báo trước, còn là “sự bắt bớ, sự ngược đãi, bị tù đầy, sự chết chóc và thù ghét” sẽ xảy ra. (x.Lc 21, 9… 17)

Vâng, hôm đó, khép lại những lời dặn dò, Đức Giêsu không nói với các môn đệ ngày mai hay ngày mốt “các việc đó sẽ xảy ra”,  Ngài chỉ khuyên một lời khuyên duy nhất, rằng: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.” (Lc 21, 19)

****
Tất cả những gì Đức Giêsu đã nói năm xưa, nay có ứng nghiệm?! Thưa có.  

Bốn mươi năm sau, sau lời tiên báo của Đức Giêsu về Đền thờ Giêrusalem sẽ “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”, nay đã ứng nghiệm. Lịch sử đã ghi lại, vào ngày 9/8/70, hùng binh La Mã đã triệt hạ và thiêu hủy Đền Thờ. Ngày nay, dấu tích Đền Thờ chỉ còn một bức tường, người Do Thái gọi là “bức tường than khóc”.   

Lời tiên tri của Đức Giêsu không chỉ ứng nghiệm nơi Đền thờ Giêrusalem mà còn ứng nghiệm suốt chiều dài lịch sử Kitô giáo.

Xưa, Đức Giêsu đã tiên báo “Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét”.

Thì đấy, chỉ ngay sau đó, sau khi Giáo Hội công khai rao giảng Tin mừng, lời tiên báo của Ngài đã ứng nghiệm.

Khởi đầu là người anh em Têphanô. Anh Têphanô chỉ vì rao giảng một “Giêsu người Nadaret” nên đã bị những người chống đối “xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá”. Chuyện kể rằng: “Họ ném đá ông, đang lúc ông cầu xin rằng: ‘Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này’. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7, 60). Tiếp đến là người anh em Giacôbê anh ông Gioan, ông ta đã bị con cáo già Hêrôđê chém đầu.

Không chỉ có máu-tử-đạo đã đổ ra, lời tiên báo của Đức Giêsu về sự ngược đãi tù đày cũng liên tiếp xảy ra trên “một số người trong Hội Thánh” (x.Cv 12, 1). Thuyền trưởng con tàu Giáo Hội tông đồ Phêrô chính là dấu chứng điển hình cho lời tiên báo của Đức Giêsu. Chuyện kể rằng. cũng là cáo già Hêrôđê, khi thấy việc làm đó vừa lòng người Do Thái, “nhà vua lại cho bắt cả ông Phêrô nữa”.  

Còn đây, tại Việt Nam, những người môn đệ của Đức Giêsu, mà tiêu biểu là  một  trăm mười bảy vị (117) và ngày 5/3/2000 thêm một vị là Anrê Phú Yên, tử đạo ngày 26/07/1644, được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong chân phước, mà toàn thể Giáo Hội Việt Nam sẽ kính trọng thể vào Chúa Nhật ngày 17/11 năm nay, năm 2013, cũng chính là những minh chứng cho lời tiên báo của Đức Giêsu về sự “ngược đãi, bắt bớ, tù đầy, chết chóc và thù ghét” xưa kia, nay đã trở thành hiện thực.

Nhắc lại những chuyện này để làm gì?

Thưa, trước hết là để chúng ta tự hỏi lòng mình rằng, “vì danh Thầy Giêsu” chúng ta sẽ làm gì khi phải đối diện trước một thực tế hôm nay, một thức tế có một thế giới ngày càng phỉ báng Thiên Chúa và  cho rằng “Thiên Chúa đã chết”… và rằng niềm tin vào “Đức Giêsu tái lâm” chỉ là huyền thoại?

Hãy tự hỏi lòng mình rằng, “vì danh Chúa”, chúng ta sẽ xử sự ra sao khi phải đối diện trước những nhà cầm quyền áp đặt những luật lệ, như luật cho phép phá thai, cho phép hôn nhân đồng tính, nói tóm lại là những đạo luật đi ngược lại luật Thiên Chúa?

Quý vị có biết “phá thai” là gì không? Vâng, một diễn đàn trên internet định nghĩa: “Phá thai chỉ là.... làm cho một trái tim ngừng đập... cho hai mắt không còn nhìn thấy.... cho đôi môi không bao giờ nói... hai tay không chạm... hai chân không bao giờ chạy..”. Vậy, có phải phá thai chính là “giết người”?

Quý vị có biết thế nào là “hôn nhân đồng tính”? Vâng, không nói ra ai cũng biết. Dĩ nhiên, luật Thiên Chúa không hoan nghênh loại hôn nhân này. Hãy nghĩ xem, nếu Thiên Chúa khuyến khích, Người đã không mất công “lấy cái xương sườn đã rút ra từ con người, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người” (x.St 2, 22)

Và, sau cùng, nhắc lại những chuyện đã nêu trên là để khẳng định rằng, lời tiên tri của Đức Giêsu sẽ vẫn tiếp tục ứng nghiệm, ứng nghiệm cho đến “ngày ấy”, ngày mà như lời ngôn sứ Malakhi đã nói: “Ngày ấy đến, đốt cháy như hỏa lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy sẽ đến thiêu rụi chúng - ĐỨC CHÚA các đạo binh phán – không còn chừa lại cho chúng một rễ hay cành nào. Nhưng đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo tia sáng chữa lành bệnh” (Ml 3, 19-20)

(Tưởng chúng ta cũng nên biết, một số nơi trên thế giới, có những linh mục, mục sư, vì “Kính sợ Danh Chúa” họ đã có những bài giảng, dựa vào lời Chúa, phản đối những luật lệ nêu trên, họ đã bị bắt bớ tù đầy). 

“Kính sợ Danh Chúa” có thể chúng ta sẽ phải đổ “máu và nước mắt”, có thể cuộc đời chúng ta sẽ phải nhuốm màu “tang tóc”. Nhưng nước mắt, máu đào và sự tang tóc, nó lại là hành trang, một thứ hành trang chính Thầy Giêsu đã mang theo trên con đường cứu chuộc nhân loại. Chính vì thế, nó cũng phải là hành trang của chúng ta, một người môn đệ Đức Giêsu, trên con đường đến gặp Ngài trong ngày quang lâm.   

Vâng, trước một thế giới đầy mưu ma chước quỷ, với những lối “ngụy biện” đầy xảo trá, chúng ta, rất có thể, sẽ có lúc mất đi sự kiên trì trong việc chờ đợi ngày quang lâm của Đức Giêsu.

Chính vì thế, đừng bao giờ đi ngủ, trước khi chúng ta ngước lên thánh giá Chúa Kitô và cầu xin với Người, dĩ nhiên, chúng ta không cầu xin như lời các môn đệ đã cầu xin năm xưa, “cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy xảy ra, và cứ điềm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế”, nhưng là, hãy cầu xin Chúa Giêsu “Ơn Kiên Trì”.

Đừng quên, Chúa Giêsu đã nói: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.”

Petrus.tran




Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

Tôi tin… có sự sống đời sau.




********

Tôi tin… có sự sống đời sau.

Sách Giảng Viên có chép: “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời; một thời để chào đời, một thời để lìa thế…” (Gv 3, 1-2). Đúng vậy, có sinh ắt có tử, đó là quy luật muôn đời của Tạo Hóa. Tất cả mọi người, không trừ một ai, “sống làm người ai không phải chết?” (Tv 88, 49).

Nói tới cái chết, có thể nói,  đó là điều không còn phải bàn cãi. Thế nhưng, sau cái chết là gì, con người sẽ đi về đâu vẫn luôn là đề tài nóng hổi suốt chiều dài lịch sử con người.

Với Phật giáo, theo chủ  thuyết luân hồi, cho rằng, sau khi chết, con người sẽ đầu thai kiếp mới. Một số người (vô thần) cho rằng, giống như một con vật, chết là hết.

Chết là hết ư! Không có “sự sống lại ư!”. Vâng, vào thời Đức Giêsu còn tại thế, có một nhóm người cũng quan niệm như thế. Nhóm người đó được gọi là “nhóm Xa đốc”.
**
Chuyện kể rằng, một hôm, có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giêsu. Cứ sự thường, mỗi khi có một “phe nhóm” nào đến gặp Ngài, y như rằng, hôm đó sẽ có một cuộc tranh luận gay gắt.

Thế nhưng, với nhóm Xa-đốc hôm nay, họ không tranh luận, trái lại, khi gặp được Đức Giêsu, họ tỏ thái độ như một chú học trò trước mắt ông thầy giáo. 

Hôm đó, những chú-học-trò-Xađốc “théc méc” về một chuyện có liên quan đến hôn nhân gia đình và sự sống lại. Và khi đã đứng trước mặt ông thầy Giêsu, họ đã tuôn những “théc méc” đó, rằng: “Thưa Thầy, ông Môse có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dõi cho anh hay em mình…”

Ôi! tưởng chuyện gì, hóa ra là chuyện về luật “thế huynh” cũ rích từ thời Môse.  Vâng, điều luật đó, đối với Đức Giêsu, chẳng có gì là lạ, bởi đây là  luật lệ của Do Thái giáo và rất phổ biến ở Cận Đông. Đức Giêsu là người Do Thái, hẳn nhiên Ngài không lạ lẫm về luật lệ này.

Thế nhưng, hôm đó, nhóm Xa-đốc đã làm cho điều luật đó trở nên “lạ kỳ”. 

Vâng, chuyện thật lạ kỳ khi họ nói tiếp với Đức Giêsu, rằng: “Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ góa ấy. Cứ như vậy,  bảy anh em chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng người đàn bà ấy cũng chết”.

Theo bạn, đây là câu chuyện thật hay do nhóm Xa-đốc”phịa” ra! Không thấy thánh sử Luca nói đến. Thế nhưng, dù thật hay phịa thì câu chuyện này như một sự thách thức mà nhóm Xa-dốc muốn thách thức Đức Giêsu.
Họ thách thức Đức Giêsu điều gì? Thưa, họ thách thức Ngài về việc “chuyện gì sẽ xảy ra ở thế giới bên kia, thế giới của sự chết…?”
Thật vậy, sau khi kể xong câu chuyện, một câu hỏi đã được họ đặt ra, một câu hỏi khiến cho ai nghe cũng phải khó nuốt. Họ hỏi Ngài rằng: “Vậy, trong ngày sống lại, người đàn bà  sẽ là vợ ai?” (Lc 20, 33)
Đúng, quả là một câu hỏi khó nuốt. Thế nhưng, có khó nuốt thì cũng chỉ khó nuốt đối với những ai chưa biết gì về “cuộc sống đời sau”. 

Với Đức Giêsu, Đấng “từ trời mà xuống” - Đấng đã tuyên bố rằng “Ta  là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.”, thì có gì ngăn trở Ngài biết đến những gì sẽ xảy ra ở “cuộc sống đời sau”!

Hôm đó, để trả lời cho câu hỏi,  Đức Giêsu đã nói rằng, “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chống” (Lc 20, 34-35) 

Với sự sống đời sau, Đức Giêsu nói tiếp: con người sẽ “không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần” (Lc 20, 36)

***
Tưởng chúng ta nên biết, những chú-học-trò-Xađốc chỉ công nhận “ngũ kinh”, năm cuốn đầu bộ Cựu Ước. Đó là một thiếu xót lớn. 

Thật vậy, nếu họ đọc tất cả những sách trong Kinh Thánh,  chắc hẳn họ sẽ tin có sự sống đời sau và chắc chắn họ sẽ  “dựa vào Lời Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại”(2Mcb 7,14). 

Thì đây, sách Macabe có chép rằng  “Có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ”. Vua Antiokho bắt họ phải “ăn thịt heo là thức ăn luật Môse cấm”(2Mcb 7,1). 

Đối với người Do Thái, luật Môse chính là luật của Đức Chúa. Chính vì thế, bảy anh em không thi hành lệnh vua. Thế là vua ra lệnh giết họ. Một người trong bảy anh em trước khi chết đã lớn tiếng nói rằng: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, 
nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mcb 7, 9).

Thiên Chúa “Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời”. 

Đó không phải là một lời hứa xuông. Đức Giêsu, qua những phép lạ “cho con trai một bà góa thành Nain sống lại”, rồi đến “cho con gái ông Gia-ia sống lại”, kế đến sự kiện “anh Lazaro đã chôn trong mồ được bốn ngày” được sống lại, và cuối cùng là chính Ngài, chính Ngài cũng đã sống lại từ cõi chết, như là những minh chứng cho lời phán hứa nêu trên.

****

“Một thời để chào đời, một thời để lìa thế…”.  Là một tín hữu Công Giáo, với tháng mười một hàng năm, nên chăng gọi đó là tháng để chúng ta nghĩ đến “một thời để lìa thế”.!

Và khi nói đến “một thời để lìa thế”, có bao giờ chúng ta tự hỏi “Khi tôi không còn nữa. Sẽ lấy được những gì. Về bên kia thế giới”?

Phải chăng đó là sự “cực hình lửa thiêu đốt”? Hay, phải chăng đó là một tấm vé  ngồi “vào lòng ông Apraham”?

Thưa, câu trả lời phụ thuộc vào hiện thực của đời sống, đời sống của chính mỗi chúng ta, như có lời đã chép “sống sao chết vậy”.
Đúng vậy, Kinh Thánh cũng có chép rằng,  “Trong ngày mệnh chung, trả cho con người theo lối họ đã  sống, đối với Đức Chúa, là chuyện thật dễ dàng” ( Hc 11, 26).

Vì thế, hãy ghi khắc câu Kinh Thánh này vào tâm hồn chúng ta, bởi, “cái lối” mà chúng ta đã và đang sống chính là “tiêu chuẩn” chính là “thước đo” và là “câu trả lời” trước tòa phán xét, nơi Thiên Chúa sẽ chọn “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết” (Lc 20, 34-35)

Tuy nhiên, để được thỏa lòng về những lời hứa ban của Chúa, điều quan trọng, trước tiên, đó là chúng ta phải tin và tuyên xưng rằng “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”.

Petrus.tran   

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...