Chúa Nhật III - MC – C
Chỉ là “năm nay nữa”, mà thôi…
Chúng
ta vừa mới trải qua một cái Tết an lành. Bên cạnh niềm vui xuân của
nhiều gia đình, vẫn còn có niềm u buồn của nhiều gia đình khác. Họ buồn
cái gì? Thưa, nhiều lắm. Có người buồn vì “Ông Trời ơi! Sao ông lại để
gia cảnh tôi nghèo khó, không có tiền sắm tết!” Có người buồn vì “ông
Trời ơi! Sao mới mùng một tết mà chồng tôi lại đột ngột về bên kia thế
giới!” Người khác buồn vì “Ông Trời có mắt không? Sao vợ chồng người em
của tôi hiền lành như thế, lại bị một tên say sỉn đụng chết ngay đêm ba
mươi!” v.v…
Có
thể nói, dưới con mắt người đời, những gì là bất hạnh, là khổ đau, con
người luôn lớn tiếng nói “tại Trời xui khiến”. Thì đây, có biết bao bạn
trẻ đã nói: “Không phải tại anh, cũng không phải tại em. Tại Trời xui
khiến nên chúng mình yêu nhau”!!!
Đối
với người Do Thái xưa, cũng với những sự kiện nêu trên, họ có cái nhìn
còn cực đoan hơn. Với những người gặp tai ương như bệnh tật, tai nạn,
tàn tật, họ cho rằng, những người đó bị như thế là do chính tội lỗi của
họ gây ra.
Ơ
hay! những bất hạnh, những đau khổ là tại ông Trời, là tại tội lỗi ư?
Thưa, với Đức Giê-su thì không phải vậy, trong những ngày còn tại thế,
trước quan niệm đầy cực đoan của người Do Thái, Ngài đã dạy cho họ (và
cũng là cho chúng ta hôm nay), một bài học đích đáng, rằng: “Chúa là
Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương. Người
không xử với ta như ta đáng tội. Và không trả cho ta theo lỗi của ta”.
Bài học đó được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca (13, 1-9)
**
Tin
Mừng thánh Luca ghi rằng, hôm đó, trong lúc Đức Giê-su đang nói chuyện
với đám đông về những kẻ không biết tự xét mình xem cái gì là phải, thì
bỗng nhiên “có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những
người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu
tế vật họ đang dâng” (Lc 13, 1).
Những
người Galilê kia phạm tội gì, khiến Philato giết, không thấy thánh sử
Luca nói đến. Thế nhưng, có phần chắc, mấy “ông tám” nghĩ rằng bọn họ
“tội lỗi” lắm nên mới bị thảm sát như thế.
Tại
sao ta có thể nghĩ như vậy? Thưa, bởi, đó là quan niệm của người Do
Thái xưa. Nhớ, hôm Đức Giê-su chữa một người mù từ thuở mới sinh, chính
các môn đệ đã chất vấn Thầy mình, rằng; “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến
người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta” (x.Ga 9, 2)
Ai
đã phạm tội ư! Có lẽ, mấy người đó không biết đến những lời vàng ngọc
của Thiên Chúa, qua môi miệng David, nói rằng: “lúc chào đời con đã
vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (x.Tv 51, 7)
Ai
cũng mang tội “khi mẹ mới hoài thai” vậy, cớ gì lại hỏi: Anh ta hay cha
mẹ anh ta! Vâng, hôm đó, để trả lời cho đám đông dân chúng, cũng như
mấy ông Do Thái cực đoan, Đức Giêsu dõng dạc tuyên bố “Không phải thế
đâu…”.
Nói
xong, Ngài đưa ra thêm một trường hợp đầy thương tâm khác, đó là chuyện
“mười tám người bị tháp Si-lô-ác đè chết” và hỏi với họ rằng: Ai! ai là
“người mắc tội nặng hơn”? Mười tám người đó hay “tất cả mọi người trong
thành Giêrusalem”?
Hôm
đó, trước sự thinh lặng của mọi người, một lần nữa, Đức Giêsu thẳng
thắn phán quyết “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu” Và Ngài
nhấn mạnh rằng: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ
chết hết y như vậy”.
***
Tai
ương, bất hạnh, khổ đau xảy đến với con người, như lời Đức Giê-su nói:
“…là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện”, chứ
không phải là vì người đó “tội lỗi”. Nói theo ngôn ngữ Thánh Kinh, đó là
một sự huyền nhiệm.
Thật
vậy, chúng ta hãy nghe lại câu chuyện ông Gióp, một câu chuyện cho ta
thấy, đau khổ, là một sự huyền nhiệm. Vâng, theo như Kinh Thánh ghi lại:
“Ông (Gióp) là một con người vẹn toàn và ngay thẳng”. Ông còn “kính sợ
Thiên Chúa và lánh xa điều ác” (x.G 1, 1).
Một người như thế, ai dám bảo ông là một kẻ tội lỗi! Ai dám bảo ông là ác nhân!
Ấy
thế mà, tai ương, bất hạnh, khổ đau lại ập xuống gia đình ông ta. Chưa
đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ, bò lừa, lạc đà bị cướp hết, chiên dê bị
lửa thiêu rụi hết.
Chưa
hết, bảy người con trai và ba người con gái, khi “đang ăn tiệc trong
nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi
thốc vào bốn góc nhà, nhà sập xuống đè trên đám trẻ, họ chết hết”. Thảm
thương là vậy, thế nhưng, ông ta vẫn không hề “buông lời trách móc phạm
đến Thiên Chúa”.
Còn
nữa, ngay chính bản thân ông, dù bị “ung nhọt ác tính từ bàn chân cho
tới đỉnh đầu”, ông vẫn không một lời than van. Trước lời nhạo báng, chế
diễu, xúi giục của bà vợ, rằng “Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho
rồi”. Ông lớn tiếng đáp rằng: “Cả bà cũng nói như một mụ điên. Chúng ta
đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận
sao!” (x.G 2, 10)
Tuy
nói “nói cứng” như vậy, thế nhưng, môi miệng ông Gióp cũng không thể
không thốt ra những lời thở than. Vâng, trước những đau khổ “quá lớn”
như thế, ông than rằng: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi chào đời, cũng
như đêm đã báo: Đứa con trong bụng mẹ là một nam nhi… Sao tôi không
chết đi lúc vừa mới chào đời, không tắt thở ngay khi lọt lòng mẹ”.
Tuy
nhiên, cái hay của ông Gióp, đó là, than thở nhưng không tuyệt vọng.
Ông tìm đến Chúa với lời nỉ non: “Tôi sẽ thưa với Chúa: Xin đừng kết án
con, xin cho con biết tại sao…?” Và rồi, Thiên Chúa, qua môi miệng ông
Ê-li-hu, nói với ông rằng: “Kiên nhẫn thêm chút nữa… Thiên Chúa dùng cái
nghèo để giải thoát người nghèo, dùng khổ đau mà mở mắt họ” (x.G 36, 1…
15).
Thưa bạn, nếu là bạn, bạn có “kiên nhẫn thêm chút nữa”, sống trong sự đau khổ của nghèo đói và bệnh tật, như Gióp không?
Vâng,
Gióp đã kiên nhẫn, và rồi, trước mặt Thiên Chúa, ông thú tội mình: “Con
biết rằng, việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước
mà không thành tựu”. Rồi ông thú nhận rằng: “Trước kia, con chỉ được
biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng giờ đây, chính mắt con chứng
kiến”. Cuối cùng, ông làm điều, điều mà mọi Ki-tô hữu đều làm vào ngày
thứ tư Lễ Tro, đó là: “trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn” (G
42, 6).
****
Qua
câu chuyện, quả thật, ông Gióp đã kiên nhẫn thêm chút nữa. Thế nhưng,
với Thiên Chúa, Người không chỉ kiên nhẫn mà còn có lòng thương xót.
Thật vậy, qua câu chuyện của một dụ ngôn, hôm đó, Đức Giê-su đã cho mọi
người biết Thiên Chúa nhẫn nại và giàu lòng thương xót, như thế nào.
Dụ
ngôn được kể như sau “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho
mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: Anh
coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy…”. (x.Lc
13, 6)
Vâng, chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ để nhận ra sự kiên nhẫn của “ông chủ vườn nho”, tức là Thiên Chúa.
Này
nhé, theo luật Lêvi, người Do Thái được dạy, khi “trồng bất cứ một cây
ăn trái nào, thì các ngươi sẽ kể trái nó là chưa cắt bì; trong ba năm
các ngươi phải coi trái nó là chưa cắt bì, không được ăn. Năm thứ tư,
mọi trái nó sẽ được thánh hiến trong một buổi lễ mừng ĐỨC CHÚA. Năm thứ
năm, các người được ăn trái nó” (x.Lv 19, 23)
Như
vậy, theo lời ông chủ nói “đã ba năm nay tôi ra cây vả này”, thì giá
chót, cây vả này cũng đã được trồng sáu năm, sáu năm kiên nhẫn đợi chờ.
Theo
bạn, bạn có kiên nhẫn đợi chờ sáu năm? Với ông chủ vườn nho, sáu năm là
một giới hạn vừa đủ, thế nên, ông đã ra lệnh “chặt nó đi, để làm gì cho
hại đất”. (x.Lc 13, 7)
Tuy
nhiên, nếu câu chuyện đến đây được chấm hết, thì sự kiên nhẫn của “ông
chủ vườn nho”, tức là Thiên Chúa, có gì để đáng nhớ đến!
Hôm
đó, người làm vườn nho, ông ta đã hướng đến tương lai với rất nhiều hy
vọng, nên đã không ngần ngại xin ông chủ “Cứ để nó lại năm nay nữa… May
ra sang năm nó có trái…” (x.Lc 13, 8).
Câu
chuyện kết thúc, không thấy tác giả nói đến phản ứng của ông chủ vườn
nho. Vâng, điều này gợi cho ta nhớ đến lời Thánh Phao-lô, sau này, có
nói: “Trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua các tội lỗi người
ta phạm” (Rm 3, …25).
*****
“Nếu không sám hối… Nếu không sinh trái”, phải chăng, đó cũng là lời cảnh cáo Đức Giê-su gửi đến mỗi chúng ta hôm nay?
Thưa, đúng vậy. Dưới gầm trời này, có ai là người không có tội!
Thánh Kinh chép “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (x.Rm 3, 23)
Chúng
ta phạm tội không chỉ vì chúng ta làm những điều không nên làm, mà còn
là vì không làm những điều chúng ta nên làm. Tông đồ Gia-cô-bê có nói:
“Cho nên, kẻ nào biết làm điều lành mà không chịu làm, thì mắc tội”
(x.Gc 4, 17).
Thế
nên, hãy để một phút thinh lặng, trong tâm tình sám hối, và hãy tự hỏi
lòng mình rằng, sau bao nhiêu năm, từ một “cây vả trần gian”, qua Bí
Tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên “cây-vả-Kitô-hữu”, mỗi Chúa Nhật
chúng ta có đến vườn-nho-nhà-thờ để các linh-mục-làm-vườn “vun xới và
bón phân” bằng Thánh Thể và Thánh Kinh?
Và
sau bao nhiêu năm được vun xới và bón phân bằng Thánh Thể và Thánh
Kinh, tôi có sinh ra hoa quả “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân
hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ”?
Hay
chúng ta lại đến “địa đàng trần gian” để được nuôi dưỡng bằng những thứ
lương thực hay hư mất, những thứ lương thực chỉ sinh ra hoa trái “dâm
bôn, ô uế, phóng đãng, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh
chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa chè chén”?
Câu
trả lời là của mỗi chúng ta. Nhưng đừng quên, thời giờ “ông chủ vườn
nho” gia hạn để “vun xới và bón phân” chỉ là “năm nay nữa”, mà thôi.
Petrus.tran