Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018


Chúa Nhật – II – TN – B

Tôi đã gặp Đức Ki-tô…

Vatican – Theo hồ sơ thống kê được hãng tin Fides loan báo nhân Ngày Thế giới truyền giáo năm 2017, số tín hữu Công giáo trên thế giới năm 2015 gia tăng, chiếm khoảng 17,7% dân số thế giới, với gần 1,3 tỉ tín hữu.(nguồn: internet)

Nếu có ai hỏi, nguyên do vì đâu mà nhiều người theo Đạo (theo Chúa)? Vâng, có phần chắc chúng ta sẽ nhận được vô vàn câu trả lời.

Sẽ có người trả lời: tôi tin vào Chúa do truyền thống gia đình. Sẽ có người trả lời: tôi tin vào Chúa do một cuộc hôn nhân. Sẽ có người nói: tôi tin vào Chúa do sự giới thiệu của một người quen. Cũng sẽ có người trả lời rằng, cảm động trước những việc làm phúc đức vô vị lợi của những “ma soeur”, hoặc những gương nhân đức của người Công Giáo, hoặc những phép lạ chữa lành bệnh nhân, tôi tin vào Chúa v.v…

Theo đạo hay tin vào Chúa là một sự tự nguyện và mỗi người khi theo Chúa, nguyên do chẳng ai giống ai. Mười hai vị tông đồ xưa, là những người được Đức Giê-su tuyển chọn, cũng vậy. Mỗi người, là một trường hợp khác biệt.

Có trường hợp, chỉ một lời mời gọi của Đức Giê-su, rằng “Hãy theo Ta”. Lập tức họ “bỏ mọi sự mà theo Ngài”. Có trường hợp, qua một lời giới thiệu, họ “liền đi theo Đức Giê-su”. Vâng, đây là trường hợp của ông An-rê và ông Gio-an. Câu chuyện của hai ông được ghi lại như sau:
  • Hôm ấy, khi ông Gioan (tẩy giả) đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Đức Giêsu. (x.Ga 1, 37).
Kể cũng lạ nhỉ! Chỉ có năm chữ “Đây là Chiên Thiên Chúa”, do ông thầy mình giới thiệu, vậy mà hai vị cũng đi theo sao!

Thật ra, không có gì là lạ đối với hai ông ấy. Là người Do Thái, hai ông rất thấu hiểu khi ông thầy mình nhắc tới “chiên”. Chiên là một con vật gắn liền với đời sống Do Thái giáo. Nói tới chiên, làm sao họ quên được ngày lễ vượt qua đầu tiên, ngày mà toàn dân Israel thoát khỏi cảnh nô lệ bên Ai Cập.

Nhớ, ngày đó, cha ông họ được dạy bảo rằng, hãy giết một con chiên và lấy máu của con chiên đó bôi lên cửa nhà mình và nhờ dấu hiệu đó, thiên sứ Chúa vượt qua mà không giết hại con đầu lòng của họ.
Chính vì thế, đối với người Do Thái, “chiên” đồng nghĩa với “chết thay”, đồng nghĩa với “giải thoát” và cuối cùng đồng nghĩa với “cứu chuộc”.

Bởi vậy, khi nghe thầy Gioan nói Đức Giêsu là “Chiên con của Đức Chúa Trời” hai người môn đệ không khỏi băn khoăn về “thần tính” của Đức Giêsu cũng như sứ mạng của Ngài.

Băn khoăn thì làm được gì! Phải đi theo “Con Người” này thôi. Đi theo để xem vị này có thật là “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, đúng như lời thầy Gio-an đã tuyên bố, hay không. Hai ông đã đi theo và lòng mong ước của hai người môn đệ đã được toại nguyện.

Hôm ấy, chuyện kể rằng: Thấy hai ông đi theo mình, Đức Giê-su quay lại, và hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Đáp lại câu hỏi, hai ông trả lời: “Thưa Rappi. Thầy ở đâu?”.

Phải, phải nói rằng, đây là một câu trả lời rất độc đáo, độc đáo ở chỗ nó không phải là một câu “hỏi thăm” nhưng là một câu nói đầy “tôn kính”, tôn kính Đức Giêsu như là bậc thầy của họ.

“Thầy ở đâu ư?”. Hôm đó, để đáp lại lòng tôn kính của hai ông, Đức Giê-su đã nói với hai ông rằng “Đến mà xem”. Nghe thế, hai môn đệ “đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy”.

Có bao giờ chúng ta tự hỏi: chuyện gì đã xảy ra khi hai người môn đệ đến chỗ Chúa Giê-su ở! Liệu, khi mà “lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” là giờ của buổi chiều tà, Chúa có mời các ông dùng cơm tối không? Và nếu có, trong bữa ăn, liệu Ngài có tỏ cho các ông biết “sứ vụ” của Ngài?

Thưa, Tin Mừng không cho biết, nhưng có một chuyện, chúng ta có thể đoan chắc rằng, ông An-rê đã cảm nhận rằng Đức Giê-su đúng là “Chiên Thiên Chúa”.

Thì đây, sau khi đã “đến và xem”” về “ông Giê-su”, ông An-rê đã trở về nhà, “gặp em mình là ông Si-mon và nói: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a’. Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su”.

** “Đến mà xem”. Phải chăng, đây cũng là lời Đức Giê-su mời gọi chúng ta, hôm nay? Thưa, đúng vậy.
Và, như đã nói ở trên, nguyên do chúng ta đến với Chúa, mỗi người là một trường hợp khác nhau.

Thế nên, đừng “bận tâm” vì chúng ta đã đến với Đức Giê-su do bởi nguyên nhân nào. Điều quan trọng là chúng ta có “thành tâm” thiện chí khi đến với Ngài, hay không!

Tại sao? Thưa, bởi vì, có sự thành tâm và thiện chí, ta mới có thể nhận ra Ngài là ai, là ai trong cuộc đời của ta. Hãy nhìn cuộc hành trình “đến mà xem” của ba nhà đạo sĩ. Họ quả là rất xứng đáng là những người mẫu mực cho sự thành tâm thiệt chí.

Thì đây, hãy xem… Dù đang theo một tín ngưỡng khác, nhưng khi nhận ra “Đức Vua dân Do Thái mới sinh” qua dấu lạ “vì sao xuất hiện ở phương Đông”, các ông đã không ngần ngại lên đường tìm kiếm. Đến Giê-ru-sa-lem trong tâm trạng rối bời, các ông vẫn không nản chí. Các ông dò hỏi, các ông kiên trì, cuối cùng với sự thành tâm thiện chí, các ông đã gặp Giê-su Hài Nhi.

Vâng, sự thành tâm thiện chí rất cần thiết cho đời sống, nhất là đời sống đức tin.

Hãy nhìn vào cái xã hội, mà chúng ta đang sống. Có thể nói, đó là một xã hội đầy sự hỗn loạn, tràn ngập sự dối trá, tràn lan sự lừa bịp. Nguyên nhân vì đâu? Phải chăng là con người đánh mất sự thành tâm, thiện chí…một sự thành tâm thiện chí để nhận ra “lẽ thật”, lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã ban cho nhân loại qua “Mười Giới Răn”! Thưa, đúng vậy.

Không đón nhận “Mười điều răn Đức Chúa Trời”, con người không còn xem việc “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự” như là ưu tiên số một. Con người quay ra lớn tiếng gào thét “Thiên Chúa đã chết rồi”
Con người cổ vũ cho một lối sống mới. Một lối sống loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống của mình. Một lối sống không cần có lương tâm, bởi vì “lương tâm bán rẻ hơn lương thực”. Một lối sống phớt lờ chân lý, bởi vì “chân lý chân giò một giá thôi”. Một lối sống mà giá trị con người chỉ được nhìn nhận qua tiền bạc, chức tước, quyền lực v.v...

Là một Ki-tô hữu, chúng ta không được sống một lối sống như thế. Đó chỉ là lối sống của Satan và con cái của nó. Một lối sống chỉ dẫn chúng ta đến “thung lũng âm u, nghi ngờ và chết chóc”.

*** “Hãy đến mà xem”.  Chúng ta sẽ đến! Đến đâu để xem!

Đến với Satan để được “vinh hoa lợi lộc của thế gian” mà Satan đã hứa rằng: “Tôi sẽ cho (ông, bà) tất cả những thứ đó, nếu (ông, bà) sấp mình thờ lạy tôi” ư?
Hay, chúng ta sẽ đến với Đức Giê-su… đến với Ngài và “Bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của (tôi) và (chỉ) thờ phường một mình Người mà thôi”?

Tất nhiên, sự lựa chọn là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, Đức Giê-su đã nói: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì”. Và, hãy nhớ, Ngài đã phán rằng: “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.

Vâng, tạ ơn Chúa. Lời ông Gio-an xưa kia nói với hai môn đệ mình, nay vẫn được công bố, qua môi miệng các vị linh mục, trong phần hiệp lễ, rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa. Đấng xóa tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Tiệc Chiên Thiên Chúa, hôm nay, ở đâu? Thưa, đó chính là Bí Tích Thánh Thể.

Xưa, các môn đệ đã ở lại với Chúa Giê-su nên họ mới có thể nhận ra Ngài chính là “Đấng Mê-si-a”. Cũng vậy, với chúng ta hôm nay, chỉ khi chúng ta ở lại với Ngài qua Bí Tích Thánh Thể, chúng ta mới sống trọn vẹn “ơn cứu chuộc” – ơn “cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô” (x. 1Pr 1, 19)

Chính vì thế, hãy để một phút hồi tâm và tự hỏi mình rằng: tôi đã nghe lời Chúa mời gọi, đã đến “ngôi nhà tạm” thân yêu và đã ở lại với Ngài trong Bí Tích Thánh Thể?

Hãy lắng nghe lời mời gọi và hãy đến. Hãy đến và hãy ở lại với Ngài. Bởi nhờ đó, chúng ta mới có thể nói, như tông đồ An-rê xưa đã nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia”. Vâng, chỉ nhờ đó, chúng ta mới có thể nói: “Tôi đã gặp Đức Ki-tô”

Petrus.tran



Chủ Nhật, 28 tháng 1, 2018


Chúa Nhật  IV – TN – B

Đừng bao giờ nói: chuyện tôi can gì đến Chúa.

Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Quyền năng của Thiên Chúa luôn được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử con người.

Nếu quyền năng của Thiên Chúa vào thời Cựu Ước thường được nhìn thấy qua  sự “trừng phạt”, như sự trừng phạt thành Sô-đô-ma. Hoặc như sự trừng phạt dân Ai Cập, vào thời ông Mô-sê,   thì vào thời Tân Ước, quyền năng của Thiên Chúa luôn được thể hiện qua những phép lạ “chữa lành”. Và, Đức Giê-su chính là người thể hiện những điều đó.

Thật vậy, Kinh Thánh cho chúng ta biết: trong những ngày ra đi rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su không chỉ “giảng dạy, loan báo Tin Mừng cứu độ”, nhưng Ngài còn dùng quyền năng mình “chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (x.Mt 4, 23-25).

Nếu những lời giảng dạy của Đức Giê-su luôn làm cho nhiều người “kinh ngạc”, thì quyền năng (phép lạ hay dấu lạ) mà Đức Giê-su đã làm, đã làm cho mọi người “sửng sốt”.  Có rất… rất nhiều người chứng kiến  và họ đã đồn ra mọi nơi. Sự kiện này được ghi lại trong Tin mừng thánh Mác-cô.
**
Theo thánh sử Mác-cô, một ngày nọ: “Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phac-na-um”.  Đến Ca-phác-na-um,  Ngài cùng các môn đệ vào hội đường, bởi đó là ngày Sa-bát.

Tưởng chúng ta nên biết, ngày Sabat chính là “ngày thánh”.  ngày toàn dân Israel “kính ĐỨC CHÚA… không được làm công việc nào”. (x.Xh 20, 9). Thế nên, việc Đức Giê-su vào hội đường là điều phải đạo.

Còn “hội đường” ư! Vâng, theo lịch sử ghi chép, hội đường bắt đầu xuất hiện từ thời người Do Thái bị đi đày bên Babylon . Đó là nơi để duy trì niềm tin và hội họp cầu kinh trong lúc bị lưu đày nơi đất khách quê người. Truyền thống đó vẫn được duy trì khi người Do Thái trở về cố hương.

Trong buổi nhóm ở hội đường, ngoài việc cầu kinh còn có việc đọc Kinh Thánh. Người ta đọc Kinh Thánh bằng tiếng Do Thái và sau đó được dịch và giảng nghĩa bằng tiếng Aram . Kế tiếp là một vài lời khuyên dạy dựa theo bài Kinh Thánh được đọc hôm đó. Khách lạ trong hội đường thường được mời để thực hiện công việc danh dự này.

Trở lại câu chuyện của Đức Giêsu, theo lời thánh Mác-cô, thì : “Người vào hội đường giảng dạy”. Như vậy, Đức Giê-su, hôm ấy, Ngài chính là người thực hiện công việc danh dự này.


Không ai có thể ngờ được,  Đức Giê-su đã có một bài giảng khiến cho mọi người “phải sửng sốt”. Một sự so sánh đã được các cử tọa bàn tán xôn xao:  “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”.


Và, sửng sốt hơn nữa khi  “Đấng có thẩm quyền” đã thực hiện một phép lạ vô tiền khoáng hậu. Chuyện là, trong hội đường “có một người bị thần ô uế nhập”,  Bất ngờ thay! người này la lên, rằng: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?”.


 Chưa hết, thần ô uế, qua thân xác người nó nhập vào, đã la tiếp rằng “Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.


Ơ hay! Sao “ông thần” này lại biết rõ về Đức Giê-su thế nhỉ? Phải chăng, y chính là ma quỷ? Vâng, không thấy thánh sử Mác-cô bình luận gì, chỉ biết rằng; sau những lời la hét lung tung đó, Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!”. Chuyện kể rằng: “Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng và xuất ra khỏi anh ta” (x. Mc 1, 25-26)


Kinh ngạc… vâng, từ sửng sốt mọi người hiện diện nơi đó đã kinh ngạc và xầm xì bàn tán với nhau về Đức Giê-su, rằng: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả thần ô uế và chúng phải tuân lệnh”.


Hôm ấy, quyền năng của Đức Giê-su, không chỉ được mọi người  ở Ca-phác-na-um biết đến, nhưng còn được đồn ra khắp nơi,  khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.


***

Thật ra, Thiên Chúa của bất cứ vào thời kỳ nào cũng đều là Thiên Chúa của tình yêu. Lời Chúa qua môi miệng tiên tri Ê-dê-ki-en cho biết: “Ta lấy mạng sống Ta mà thề… Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống”.(x.Ed 33, 11)

Quyền năng của Thiên Chúa, nếu có được thể hiện, thì không phải để tiêu diệt “kẻ ác” nhưng là tiêu diệt “cái ác”. Thì đây, qua câu chuyện Đức Giê-su “chữa lành một người bị quỷ ám”, Ngài đâu có “tiêu diệt” người bị ám, nhưng là “diệt trừ” con quỷ ám người, mà thôi.

Quyền năng của Thiên Chúa, nếu có được thể hiện, cũng chỉ là để đem lại cho con người được sống, một cuộc sống đời đời.

Vua David xưa kia, rất nhiều lần bị kẻ thù hãm hại. Thê thảm nhất là một người con ruột tên là Apsalon, làm phản.Thế nhưng, ông ta đã được quyền năng của Thiên Chúa giải thoát.  Chúng ta hãy nghe lời cảm nghiệm của ông ta: “Dù tôi đi trong trũng bóng chết, tôi vẫn không sợ gì, vì Chúa ở cùng tôi”.


****

Chúng ta thường nghĩ rằng, xã hội mà chúng ta đang sống là một xã hội vô thần. Thật ra, phải nói là một xã hội “đa thần”, mới đúng. Nói đa thần là bởi, con người hôm nay đang bị mê hoặc bởi một thứ chủ nghĩa duy vật. Con người xem vật chất như là thước đo cho sự thành công của mình.

Và, khi coi vật chất như là cứu cánh cho cuộc sống. Điều chúng ta sẽ thấy, đó là rất nhiều loại “quỷ thần” xuất hiện. Đó là những loại quỷ thần, đại loại như:  “thần danh vọng… thần quyền lực… thần ma men… thần tiền bạc… thần ganh tỵ… thần bè phái… thần dâm bôn…thần tranh chấp… thần chia rẽ” v.v…


Thế nên, biết đâu chúng đang “ám” chúng ta, và tìm đủ mọi cách “nhập” vào đời sống của chúng ta?


Làm sao để những loại “quỷ thần” này không thể ám, không thể nhập vào chúng ta?  Thưa,  hãy nhìn Đức Giê-su, và hãy học theo Ngài.


Thật vậy, Xưa, trong bốn mươi ngày ở hoang địa, để chiến thắng việc bị “quỷ ám” , Đức Giê-su đã dùng một thứ vũ khí tối thượng , đó chính là “Lời Chúa”. Thì nay, cũng vậy đối với chúng ta, phải có Lời Chúa, nếu không,  chúng ta không thể thoát khỏi sự cám dỗ của Satan và thế lực của nó là thế gian này.


Đừng bao giờ xem nhẹ  Lời Chúa. Nếu chúng ta ghi khắc Lời Chúa dạy rằng:  “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân”, ai… ai dám bảo rằng, ta không thể trục xuất con “quỷ mamon-quỷ tiền bạc, quỷ quyền lực, quỷ danh vọng” ra khỏi tâm hồn ta!


Thế nên, hãy để một phút hồi tâm và tự hỏi: rằng,  tôi đã tiếp nhận Lời Chúa như thế nào và sống Lời Chúa ra sao? Tôi đã có quyển Kinh Thánh chưa?


Nếu bạn chưa có quyển Kinh Thánh, phải có ngay trong hôm nay. Bởi đó chính là “ngọn đèn soi ta bước, là ánh sáng chỉ đường ta đi”(Tv 119. 105). Bởi, đọc và sống Lời Chúa, như lời thánh Phao-lô nói, ta sẽ “được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co”, tất nhiên là không bị giằng co giữa Thiên Chúa và những lũ quỷ thần, nêu trên.


Còn… còn nếu chúng ta lỡ “sa vào chước cám dỗ” của những loại quỷ thần nêu trên! Thưa, đừng sợ. Hãy can đảm đi đến “nhà thờ”, đến nhà thờ và hãy bước vào tòa cáo giải. Nói rõ hơn, chúng ta hãy đến với Bí Tích giải tội.


Ở đó, chúng ta sẽ được Đức Giê-su, qua vị linh mục, trục những loại quỷ thần nêu trên, bằng việc ban phép giải tội, cho ta. Và, phần còn lại của chúng ta, đó là; “sám hối và tin vào sự tha thứ của Thiên Chúa”. 


Cuối cùng, đừng bao giờ để cho cuộc hành trình về Thiên Quốc của chúng ta trong trạng thái cô đơn một mình, mà hãy ở trong trạng thái “một người đi với một người”.


Đi với người nào? Tất nhiên, không phải là đi với những loại        quỷ thần nêu trên,  mà, đó là “đi cùng Đức Ki-tô”.  Nói rõ hơn, đó chính là đi cùng “Mình Thánh Chúa Ki-tô”, đó chính là đi cùng “Bí Tích Thánh Thể” - bảo chứng của sự sống đời đời.


Sống trong một xã hội tràn ngập lũ quỷ thần nêu trên, hành trang mang trên vai của chúng ta phải là “Thánh Kinh và Thánh Thể” bởi chỉ có thế, ta mới có thể nói, rằng: “Dù tôi có phải sống chung với lũ quỷ (nêu trên), tôi vẫn không sợ gì, vì có Chúa ở cùng tôi”.  


Sống trong một xã hội tràn ngập lũ quỷ thần, đâu đâu cũng thấy “quuu…uỷ”, không gì tốt hơn là chúng ta hãy cất tiếng khẩn cầu với Đức Gê-su, như lời khẩn cầu khi xưa của hai môn đệ trên đường Emmau: “Mời ông ở lại với chúng tôi”. Đừng bao giờ nói: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông..”

Vâng, đừng bao giờ nói: chuyện tôi can gì đến Chúa.


Petrus.tran





Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...