Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2018

Đừng ngăn cản người ta…


Chúa Nhật XXVI – TN – B

Đừng ngăn cản người ta… 

“Cáo mượn oai hùm”. Có lẽ, mỗi khi thành ngữ này được nói đến, chắc hẳn không ai trong chúng ta lại không cười thầm mà nói: Ồ! Đó là hành động của kẻ tiểu nhân, không lương thiện.

Mà, thật vậy, làm sao có thể gọi đó là việc làm của một bậc quân tử. Chuyện thời xưa kể rằng: “Tại một khu rừng nọ, có một con hổ bắt được một con cáo. Khi hổ định ăn thịt cáo, cáo liền gầm lên và nói: ‘Ngươi làm sao dám ăn thịt ta. Thượng Đế đã ra lịnh cho ta làm thủ lĩnh bách thú, thống soái muôn chim, nếu ngươi ăn ta, tất ngươi sẽ bị trời trừng phạt. Ngươi không tin sao? Vậy thì ngươi hãy ở sau lưng ta, và cùng đi với ta. Rồi ngươi sẽ thấy, chẳng con thú nào khi thấy ta mà không quay lưng bỏ chạy’. Hổ cả tin, liền đi sau cáo. Quả nhiên, muôn thú nhìn thấy cáo, liền quay đầu bỏ chạy”.(nguồn: internet)

Hổ đâu biết rằng, muôn thú bỏ chạy là sợ hổ, chứ đâu phải vì sợ cáo. Câu chuyện ngụ ngôn này cho ra đời câu “Hổ giả hổ uy”. Hay cũng được nói là “cáo mượn oai hùm”.

Theo câu chuyện nêu trên, thì, mượn oai, mượn danh, lấy danh người khác, đúng là hành động của những kẻ cơ hội, bất lương, tiểu nhân.

Các môn đệ của Đức Giê-su xưa,  cũng đâu có hoan nghênh những kẻ như thế. Đã có lần các ông phát giác có kẻ “lấy danh Thầy” mình, thế là các ông liền nộ khí xung thiên, ra sức ngăn cản.

Tuy nhiên, với Đức Giê-su, quan điểm của Ngài đối với những kẻ như thế, có phần khác. Khác như thế nào? Thưa, hãy trở về với Tin Mừng thánh Mác-cô (x.Mc 9, 38-48), chúng ta sẽ biết được quan điểm của Đức Giê-su, như thế nào.

**  Vâng, câu chuyện được kể rằng: hôm đó, có một người môn đệ tên là Gio-an, đại diện cho nhóm Mười Hai, đến với Đức Giê-su và nói với Ngài, trong tâm trạng “khó chịu… ghen tỵ”,  rằng: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ” (x.Mc 9, 38).
Tại sao các ông lại “khó chịu… ghen tỵ” về chuyện này? Phải chăng, các ông đã nghĩ rằng, chỉ những ai  được  Đức Giêsu ban cho “quyền trừ quỷ”, như chính các ông đã được “sai đi rao giảng với quyền trừ quỷ”, thì mới được “xuất chiêu” trừ quỷ?

Về chuyện này, không thấy thánh sử Mác-cô nói đến. Thế nhưng, có một chuyện, một chuyện chúng ta có thể suy đoán rằng, các ông rất bực dọc, và sự bực dọc đó đã được đổ dồn vào những lời tường trình của các ông với Đức Giê-su. Hôm ấy, các ông  đã tường trình với Ngài rằng: “Chúng con đã cố ngăn cản vì người ấy không theo chúng ta”.

Trước lời tường trình của các ông, Đức Giê-su đã phản ứng ra sao? Thưa, rất hòa nhã. Hôm ấy, Ngài đã bảo rằng: “Đừng ngăn cản người ta”.

Không cần biết những người ấy thuộc “giáo phái” nào, và cũng không quan tâm rằng những người ấy “không theo chúng ta”, Đức Giê-su từ tốn giải thích cho các môn đệ mình, rằng: “Không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. 

Vâng, cũng hợp lý thôi. Các môn đệ được Đức Giê-su ban cho quyền trừ quỷ, những người ấy “lấy danh Ngài” cũng để trừ quỷ thì có lý gì họ “chống lại chúng ta”!

Kết thúc cho việc giải thích, Đức Giê-su nói với các môn đệ, rằng: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

***  Qua lời tuyên bố (nêu trên) của Đức Giê-su, có thể nói rằng, Ngài muốn gửi đến cho các môn đệ (và cũng là cho chúng ta hôm nay) một thông điệp, thông điệp rằng: đừng để thói ghen tỵ chế ngự, vì nó chính là tác nhân cản trở công việc của Thiên Chúa.

Thánh Kinh nói rất rõ, Thiên Chúa: “…không về phe với hàng thủ lãnh, không trọng người giàu, khinh kẻ nghèo; vì tất cả đều là công trình do tay Người tạo ra” (Gióp 34, 19).

Mà, ai là công trình do Thiên Chúa sáng tạo, nếu không phải là tất cả nhân loại trên thế gian này! Thế nên, đừng ngạc nhiên khi Đức Giê-su đã không đặt nặng vấn đề về những người lấy-danh-Thầy đã “theo chúng ta”, hay chưa.

Vâng, câu chuyện tuy đã xảy ra hơn hai ngàn năm, nhưng có vẻ như nó vẫn đang xảy ra trong Giáo Hội, trong từng Giáo Xứ, trong từng cộng đoàn chúng ta, hôm nay.

Hôm nay, vẫn còn một số người giống thánh Gio-an xưa, họ cũng mang tâm trạng khó chịu… ghen tỵ… và muốn ngăn cản, khi thấy một ai đó (một giáo dân bình thường), được phép mang Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt.

Hôm nay, (chuyện này xảy ra ở ngoại quốc nhiều hơn), vẫn còn một số người giống thánh Gio-an xưa, họ cũng mang tâm trạng khó chịu… ghen tỵ… và muốn ngăn cản, khi thấy một ai đó (một giáo dân đã lập gia đình), nay được truyền chức phó tế. v.v…

Hôm nay, vẫn còn một số người khó chịu và muốn ngăn cản, khi thấy giáo dân “rước lễ bằng tay”.

Còn… còn rất nhiều trường hợp, (không tiện nêu ở đây),  chỉ vì ghen tỵ và muốn ngăn cản,  nên sứ vụ Chúa trao (qua việc sai đi của Giáo Hội) bị chậm trễ, bị lãng quên, thậm chí bị quăng vào sọt rác.

Đức Giê-su, hôm nay, nếu phải nghe những lời phàn nàn khó chịu (nêu trên), và nếu những kẻ phàn nàn đó, có thái độ muốn ngăn cản, có phần chắc, Ngài cũng sẽ nói rằng: “Đừng ngăn cản người ta”.

Đúng vậy, đừng-ngăn-cản-người-ta, bởi, như lời Lm. Charles E. Miller chia sẻ, thì: “Do nhu cầu, một ánh sáng không ngừng tỏa xuống Giáo Hội, rực rỡ hơn nhiều so với loại mà Thomas Edison đã phát minh. Đây là ánh sáng Thần Khí chiếu rọi lên sự thật để Giáo Hội nhìn thấy tường tận hơn…”

Rồi, ngài Miller kết luận: “Thay vì cau có (khó chịu, ghen tỵ) với các chức vụ mới trong phụng vụ, chúng ta nên cảm tạ Thiên Chúa và cầu xin Ngài tiếp tục đổ tràn Thần Khí của Ngài trên Giáo Hội”… và trên cả chúng ta nữa.

****  Một ngày nọ, Đức Giê-su đã tuyên bố: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”. (Lc 8, 21)

Nhắc lại lời tuyên bố của Đức Giê-su để làm gì? Thưa, để chúng ta thấy ai mới thực sự là người theo Chúa, ai mới thực sự (nói theo cách nói của các môn đệ) là người “theo chúng ta”.

Nhắc lại lời tuyên bố của Đức Giê-su để làm gì? Thưa, là để chúng ta nếu có khó chịu và muốn ngăn cản, thì hãy khó chịu và ngăn cản những ai “lấy danh Thầy” nhưng lại “làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã”.

Còn nữa, nếu muốn ngăn cản, hãy ngăn cản những gì làm cớ cho mình phạm tội. Vâng, đây là điều Đức Giê-su yêu cầu. Ngài yêu cầu rằng: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi…”. Còn nữa: “Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi…”. Cuối cùng: “Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi…”

Và rồi, Ngài đã kết luận rằng: “Thà cụt một tay… thà cụt một chân… thà chột mắt… mà được vào cõi sống… mà được vào Nước Thiên Chúa, còn hơn có đủ hai tay, có đủ hai chân, có đủ hai mắt, mà phải sa hỏa ngục, mà bị ném vào hỏa ngục”.

Đừng… đừng sợ những lời yêu câu (nêu trên) của Đức Giê-su. Phải hiểu những lời yêu cầu của Ngài là nói theo cách nói “nhấn mạnh”. Bởi, nếu không, lịch sử Giáo Hội với hơn hai ngàn năm, chắc hẳn sẽ có rất nhiều người, có thể có cả chúng ta, cụt tay, cụt chân hoặc mù mắt.

Giờ đây, chúng ta bỏ thêm một phút,  nghe lại lời tuyên bố của Đức Giê-su: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”.

Hôm nay, chúng ta sẽ thực hành điều gì đây? Nên chăng đó là hãy xem lại cách hành xử của mình đối với mọi người chung quanh? Nên chăng, cần cẩn trọng hơn, khi nào thì chúng ta nên ngăn cản hay không nên ngăn cản, một việc làm của một ai đó, mà chúng ta nhìn thấy?

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, hãy nhớ rằng, bất cứ ai lấy-danh-Thầy, lấy-danh-Đức Giê-su để làm một việc gì đó hữu ích cho Giáo Hội, cho xã hội, cho tha nhân, cho cộng đoàn… Vâng, hãy nhớ : “Đừng ngăn cản người ta”. 

Petrus.tran

Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2018

Phải làm người rốt hết…


Chúa Nhật XXV – TN – B

Phải làm người rốt hết…

Xu hướng thời đại, đó là, không ai  lại không muốn mình hơn người khác. Không ai lại không muốn mình là một nhân vật nổi danh. Chuyện phải hơn người khác, phải được nổi danh, có thể nói, nó như một căn bệnh trầm kha,  ăn sâu vào tận huyết quản của bất cứ ai. Chả thế mà, Nguyễn Công Trứ, một nhà thơ thời xưa, phải thốt lên: “Đã mang tiếng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông”.

Ước muốn “phải có danh gì”  cũng chẳng có gì là xấu, bởi ước muốn đó nêu bật vai trò và vị trí của một “con người” hiện diện trong cuộc đời, trong vũ trụ.

Tuy nhiên, theo thói đời, nhất là “đời nay” thì ước muốn “đẹp” này có phần bị lạm dụng. Không ít người, nếu không muốn nói là “nhiều người” khi có chút danh phận, quyền hành (đôi khi có được là nhờ mua quan bán tước), thì vênh vang, tự đắc, đè đầu cưỡi cổ kẻ dưới. Tất nhiên, đức tin Ki-tô giáo không hoan nghênh những con người này. 

Phải có danh gì ư! Phải hơn người khác ư! Tốt. Thế nhưng, người Ki-tô hữu khi có chút danh, chút phận, chút quyền hành, thì phải sử dụng nó để  “phục vụ mọi người”. Phải phục vụ mọi người,  bởi đó là điều chính Đức Giê-su truyền dạy.  Tin Mừng thánh Mác-cô, với phần trích đoạn ở chương 9, từ câu 30 đến câu 37 đã ghi rõ nét cho lời truyền dạy của Ngài.

** Vâng, chuyện được ghi rằng: Sau sự kiện Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor với sự chứng kiến của Phêrô, Giacôbê và Gioan, và sau khi chữa lành một người bị quỷ ám, các môn đệ đã cùng với Thầy của mình rời khỏi đó và đi băng qua miền Galilê.

Tại đây, một lần nữa, Đức Giê-su hé mở cho các môn đệ biết đến sứ vụ của Ngài, đó là: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”.  Khi Đức Giê-su nói lên sứ vụ của mình, thánh sử Mác-cô cho biết, nhóm Mười Hai “không hiểu lời đó và các ông sợ không dám hỏi lại Người” (x.Mc 9, 32)

Tại sao các ông lại “sợ không dám hỏi lại Người”? Vâng, không thấy thánh sử Mác-cô nói đến. Tuy nhiên, chúng ta có thể nghĩ rằng: các ông không dám hỏi là vì sợ “ông Thầy” mình mắng cho vài câu, như đã mắng  anh cả Phê-rô, hôm trước.

Nhớ, hôm trước, hôm Thầy và trò ở Xê-da-rê Phi-lip-phê, Đức Giê-su cũng đã loan báo cho các ông biết  về sứ vụ của Ngài, sứ vụ Ngài “phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”.

Hôm ấy, sau khi nghe Đức Giê-su tuyên bố như thế, ông Phê-rô đã “trách Người”. Thế là, ngay lập tức Đức Giê-su đã khiển trách Phê-rô: “Sa-tan, lui lại đàng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa,mà là của loài người”.

Thế đấy! Thế đấy, cho nên rút kinh nghiệm cho hôm nay, các ông nghĩ rằng “im lặng là vàng”.

Thế nhưng, im lặng không có nghĩa là không để cho tư tưởng làm việc. Chuyện được thánh sử Mác-cô cho biết: Suốt cuộc hành trình về Ca-pha-na-um, trong thinh lặng, các ông có nhiều dòng suy nghĩ khác nhau,  chính những dòng suy nghĩ khác nhau đó, đã dẫn đưa các ông đến một cuộc tranh cãi kịch liệt. 

Các ông tranh cãi điều gì? Vâng, hôm ấy, khi về tới nhà, rất tế nhị, Đức Giê-su hỏi các ông: “Dọc đường , anh em đã bàn tán điều gì vậy? Mười hai môn đệ, với mười hai đôi mắt nhìn nhau, không nói nên lời. Nói rõ hơn, sau khi nghe Thầy Giê-su hỏi: “Các ông làm thinh… ”… Sao thế nhỉ! Thưa, “…vì khi đi đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”.

*** Ai… ai sẽ là người lớn hơn cả? Thưa quý vị, chúng ta, nên chăng, thử tưởng tượng cuộc cãi nhau của các môn đệ xưa!

Phải chăng, ông Mát-thêu sẽ  phân trần “Tôi là một tay cán bộ thuế vụ. Tiền vào như nước. Thế mà tôi đã bỏ hết để theo Thầy Giê-su. Vậy, có gì ngăn cản tôi không là người lớn hơn cả”?

Phải chăng, Giacôbê và Gioan sẽ  nói: “Tại sao không là chúng tôi. Chúng tôi đã được nhìn thấy Thầy biến hình đầy uy nghi”? Phải chăng, Phê-rô sẽ lớn tiếng: “Ồ không, người lớn hơn cả chính là tôi. Tôi… tôi đã được chính Ngài Giê-su trao cho chìa khóa Nước Trời, kia mà”?

Có lẽ…  có lẽ, với câu hỏi này, tốt nhất, nên nghe câu trả lời của Đức Giê-su.

Muốn làm người lớn hơn cả ư! Muốn làm người đứng đầu ư! Vâng, hôm ấy, Đức Giêsu đã đưa ra một quan điểm hết sức bất ngờ, ngược lại với tất cả những gì mà các ông, (cũng như với người đời thời nay), nghĩ đến. 

Hôm đó,  chuyện kể tiếp rằng: Đức Giê-su ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (x. Mc 8, 35).

****  “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.

Vâng, qua  lời truyền dạy này, có thể nói,  Đức Giê-su đã làm một cuộc cách mạng, cách mạng về vai trò của một người lãnh đạo.  Người-lãnh-đạo, qua lời truyền dạy của Ngài, phải là người dùng đôi tay để phục vụ, có nghĩa là không phải là người đứng đó “chỉ tay năm ngón”.  Người-lãnh-đạo, qua lời truyền dạy của Ngài, phải là người dùng con tim để hành động, có nghĩa là phải có tình yêu thương.

Có quá khó để thực hiện lắm chăng? Thưa, khó lắm. Thế nhưng, là một Ki-tô hữu, là môn đệ của Thầy Giê-su, khó cũng phải thực hiện. Đừng quên lời Đức Giê-su đã truyền dạy: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ”. Và, nhất là những gì Ngài đã làm và đã nói trong bữa Tiệc Ly.
Hôm ấy, “Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau”.

Hôm ấy, Ngài đã nói với tông đồ Phê-rô: “Nếu thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”.

Và rồi, khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su nói: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (x.Ga 13, 13-14).

 Cuối cùng, để đóng ấn cho một dấu ấn mới về việc “ai là người lớn nhất hơn cả”,  Đức Giê-su long trọng tuyên bố: “Thật, Thầy bảo thật anh  em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi”.

Tất cả những gì  xảy ra trong đêm thứ năm của bữa Tiệc Ly, nó như là câu trả lời cho câu hỏi “ai là người lớn hơn cả”. Nói cách khác, nó chính là thông điệp mà Đức Giê-su muốn gửi đến cho các môn đệ , (và cũng là cho chúng ta hôm nay), thông điệp rằng: phục vụ chính là  quyền hành. Người-Phục-Vụ chính là “người lớn hơn cả”.

*****  Người-Phục-Vụ chính là “người lớn hơn cả”. Thật vậy, lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều này. Lịch sử Giáo Hội đã cho chúng ta biết rất nhiều tấm gương mẫu mực về “Người Phục Vụ”. Một mẫu mực gần đây nhất, đó là Mẹ Tê-rê-sa Calcutta.

Chỉ là một con người “rất nhỏ bé”, cao 1m50, cân nặng 32kg. Đã có người nói đùa rằng Mẹ nên đeo thêm vài cục đá nữa kẻo bị gió thổi bay như hạt bụi.

Vâng, một con người như thế, nhưng nhờ đã sống cả một cuộc đời trong vai trò  là “người phục vụ”, cuối cùng, khi vừa mới qua đời (ngày 05/09/1997), mẹ lại được nhiều người coi là “người lớn hơn cả”.

Theo truyền thông ghi lại: Jacques Chirac, (tổng thống Pháp), gởi điện đến Calcutta với lời như sau : “Tối nay, trên thế giới ít tình thương hơn, ít lòng trắc ẩn hơn, ít ánh sáng hơn!”

Với Thủ tướng Anh Tony Blair, ông ngậm ngùi chia sẻ : “Trong một tuần đầy bi kịch, thế giới lại càng buồn hơn, vì một trong những người phục vụ nhiều lòng nhân ái nhất đã mất!” Và, Thủ tướng Ấn Độ, ông ta đã ra lệnh tổ chức Quốc táng (dù mẹ không phải là người Ấn), mà việc này chỉ dành cho vị nguyên thủ quốc gia mà thôi! Cả nước Ấn để tang hai ngày !

Riêng ở Albani, quê hương của mẹ tổ chức ba ngày Quốc tang!Tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố: khắp nước phải treo cờ rũ! Nước Philippin tổ chức tang lễ trọng thể !

Trên một triệu người đủ mọi thành phần tôn giáo, sắc tộc trên thế giới đến viếng linh cửu và tiễn đưa mẹ đến nơi an nghỉ. Ai đến viếng cũng đều ghi hàng chữ : “Dáng vóc Tê-rê-sa nhỏ bé, nhưng tinh thần mẹ vĩ đại !” Và ngày 19-10-2003, mẹ đã được tôn phong Á thánh. (nguồn: internet)

****** Muốn trở thành như Mẹ Tê-rê-sa có quá khó? Nói cách khác, muốn trở thành “người phục vụ” có quá khó? Thưa khó, nhưng không phải là không thực hiện được.

Muốn thực hiện được, thứ nhất, đừng nuôi dưỡng tâm hồn mình “sự ghen tương, chua chát và tranh chấp”. Thứ hai, đừng có “tự cao tự đại”.

Bởi vì,  nếu trong tâm hồn ta luôn nuôi dưỡng những thói xấu (nêu trên), điều tất yếu sẽ xảy ra, vâng, thánh Gia-cô-bê khẳng định: “Ở  đâu có ghen tuông và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa”. (x.Gc 3, 16)

Theo tôi biết, không ít hội đoàn,( không tiện nêu tên ở đây), tuy chỉ có năm ba người, ấy thế mà bất hòa xáo trộn liên miên, đến nỗi cha linh hướng phải ra lệnh giải tán, cũng chỉ vì cộng đoàn đó có người luôn nuôi 
dưỡng trong tâm hồn mình sự ghen tuông, tranh chấp.

Muốn trở thành người-phục-vụ đích thực, thánh Gia-cô-bê có lời khuyên: “(hãy) hiếu hòa, khoan dung, mền dẻo, đầy từ bi… không thiên vị cũng đừng giả hình”.

Chúng ta cũng đừng quên lời khuyên bảo của thánh Phao-lô,  lời khuyên rằng: “Tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy ăn ở khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại, hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy tha thiết duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (Ep 4, 1-3)

Chẳng có lời khuyên nào tốt hơn lời khuyên này. Bởi vì, lời khuyên “ăn ở khiêm tốn” chính là tiền đề cho một lối sống khiêm nhường. Mà, một khi chúng ta có một cuộc sống khiêm nhường, có gì ngăn cản chúng ta “làm người rốt hết”, phải không, thưa quý vị!

Một lần nữa, hãy nghe lại lời truyền dạy của Đức Giê-su: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết”.

Vâng, “phải làm người rốt hết”.

Petrus.tran




Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2018

Anh em bảo Thầy là ai?


Chúa Nhật XXIV – TN – B

Anh em bảo Thầy là ai?

Bạn muốn trở thành người nổi tiếng? Điều đó là chắc rồi. Không ai trong chúng ta lại không muốn như thế. Nhưng, nói vui vậy thôi. Làm người nổi tiếng, khổ lắm…

Này nhé! Khi trở thành người nổi tiếng cũng là lúc có biết bao nhiêu sự phiền toái nảy sinh. Thật vậy, người nổi tiếng luôn là đề tài, là đích ngắm cho giới truyền thông. Từ nguồn gốc gia đình cho tới lời nói việc làm của họ luôn bị dư luận xã hội săm soi  một cách đặc biệt.

Cứ nhìn vào những nhân vật nổi tiếng thời cận đại, (công nương Diana như một điển hình),  chúng ta sẽ thấy rõ. Bà ta đã chết bởi tai nạn xe hơi cũng chỉ vì sự “săm soi” quá kỹ của những tay thợ săn ảnh paparazzi…

Vâng, nói tới việc bị dư luận xã hội săm soi, Đức Giê-su khi còn tại thế, Ngài cũng là một nhân vật trong tầm ngắm của dư luận.

Thật vậy, theo những gì Kinh Thánh cho biết, cuộc sống của Ngài là một cuộc sống luôn  phải đương đầu với rất nhiều luồng dư luận, tốt cũng như xấu.

Có những luồng dư luận phát xuất từ nơi bà con dòng họ, quê quán. Và, cũng có những luồng dư luận phát xuất giữa cuộc đời thường của Ngài.  Đức Giêsu biết, nhưng, Ngài vẫn giữ một thái độ thinh lặng. Cho đến một hôm…

** Vâng, cho đến một hôm…  hôm Đức Giê-su cùng các môn đệ của Người có một cuộc hành trình tới các làng mạc vùng Xê-da-rê Phi-lip-phê. Chuyện kể rằng: dọc đường, Người đã hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”

Người ta nói Thầy… vâng Thầy ạ! Dư luận đồn ầm lên về Thầy khắp hang cùng ngõ hẻm, từ Galilê cho đến Giêrusalem, từ Betsaiđa lan tỏa ra khắp cả Palestina… thế mà Thầy không biết gì ư!  Có lẽ… có lẽ, mười hai người môn đệ cùng một suy nghĩ như thế.

Mà thật vậy, kể từ khi theo Đức Giê-su, có thể nói, chưa có lúc nào bầu không khí trong nhóm các môn đệ lại sôi động như lúc này. Sôi động là bởi, câu hỏi của Ngài thật hợp lúc.

Vâng, dư luận trong dân chúng lúc này rất có thiện cảm với Đức Giê-su. Nhất là, sau biến cố Ngài hóa bánh ra nhiều cho năm ngàn người ăn no nê.

Hôm đó, sau một vài phút trầm ngâm, một vài tiếng nói trong nhóm các ông đã thốt lên rằng: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả… có kẻ lại bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ nào đó”.

Lời tường trình của các môn đệ hợp lý đấy chứ, phải không, thưa quý vị?

Này nhé, hãy nhớ xem Đức Giêsu đã giảng dạy những gì? Phải chăng là kêu gọi mọi người “hãy sám hối”? Thưa đúng vậy.

Vâng, nếu ta đem so sánh với lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả “hãy sám hối”, thì dư luận trong dân chúng nghĩ về Ngài là Gioan tẩy giả, nào có sai!

Rồi, ta hãy thử so sánh phép lạ Đức Giê-su đã “hóa nước thành rượu tại tiệc cưới Cana” và cải tử hoàn sinh “cho con trai của một bà góa tại thành Nain”, với phép lạ do ngôn sứ Êlia đã làm cho một bà góa ở Xarépta… Phải chăng cũng có vài điểm giống nhau!

Vâng, Kinh thánh ghi lại rằng: ngày xưa, tại nơi đó, ngài Êlia đã nhờ lời cầu nguyện với Đức Chúa mà “hũ bột và vò dầu” của một bà góa ở Xarepta “không vơi và chẳng cạn”. Con trai của bà “bệnh tình trầm trọng đến nỗi đã tắt thở” cũng đã được “Đức Chúa nghe tiếng ông kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống” (1V 14,22).  Thế nên, hỏi sao người ta không nghĩ Đức Giê-su là Ê-li-a tái thế! Hợp lý là vậy, nhưng không thấy Đức Giê-su xác nhận hay phủ nhận.

Hôm ấy, hướng ánh mắt về các môn đệ, Đức Giê-su đã gửi đến các ông một câu hỏi, hỏi rằng: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Hôm đó, sau câu hỏi của Đức Giê-su, mười hai người môn đệ với mười hai đôi mắt nhìn nhau không nói nên lời.
Rất may, có một Phê-rô, một Phêrô như là đại diện cho nhóm mười hai, nói với Đức Giêsu rằng: “Thầy là Đấng Kitô”.

***  “Thầy là Đấng Kitô”. 

Thật ra, không phải chỉ ông Si-mon Phêrô mới có lời tuyên xưng này. Tại Giêrusalem, dân chúng Israel cũng đã có những tranh luận về “Con Người” của Đức Giêsu. Có người coi Ngài như một vị ngôn sứ không hơn không kém. Nhưng cũng có người nói Ngài chính “là Đấng Kitô” (Ga 7, 41).

Tuy nhiên, giữa lời tuyên xưng của ông Si-mon Phê-rô và lời nhận định của một số người Do Thái tại Giê-su-sa-lem hoàn toàn khác. Với người Do Thái tại Giê-su-sa-lem, họ tuyên bố trong sự “nghi ngờ”. Thật vậy, chính một số người trong nhóm của họ đã tuyên bố: “Đấng Ki-tô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao?” (Ga 7, 41).

Còn với ông Phê-rô, đó là một lời tuyên xưng, một lời tuyên xưng với tất cả niềm tin, tin thật vào “Con Người thật” của Đức Giê-su, một “Con Người” mà ông và những người bạn của ông đã dám “bỏ hết mọi sự và đi theo Ngài”.

Tại sao chúng ta có thể suy nghĩ về ngài Phê-rô như thế? Thưa, đó là dựa vào lời nhận định của chính Đức Giê-su.

Đúng vậy, lời tuyên xưng của ông Phê-rô không phải là một thứ “thông tin”, không phải là dựa vào một lời “đồn đãi”, như những thông tin, những lời đồn đãi đời thường. Trái lại, lời tuyên xưng của ông đã được Đức Giêsu nhìn nhận là một lời tuyên xưng không phát xuất do “phàm nhân mặc khải” nhưng là do Cha của Ngài “Đấng ngự trên trời” đã mặc khải.  Điều này đã được thánh sử Mát-thêu ghi nhận. (x.Mt 16, 17)

****  Trở lại câu chuyện do thánh sử Mác-cô ghi lại. Hôm ấy, sau lời tuyên xưng của tông đồ Phê-rô, chuyện kể tiếp rằng: “Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người” (x.Mc 8, 30)

Tại sao Đức Giê-su lại cấm? Thưa, cấm là bởi, việc Phê-rô nhận thức Ngài là Đấng Ki-tô vào lúc đó, rất có thể là một nhận  thức theo quan niệm đời thường.

Quan điểm của đời thường cho rằng Đấng Ki-tô được nói đến là một Ki-tô thế tục, một Ki-tô sẽ làm vua Israel, một Ki-tô sẽ đứng lên chống lại đế quốc Roma, một đế quốc đang cai trị Israel, để tái lập lại đất nước Israel mới.  Có vẻ như Tông đồ Phê-rô cũng có cùng suy nghĩ như những người Do Thái thời đó…

Mà, thật vậy, hôm ấy, khi Đức Giê-su tiếp tục nói với các ông, rằng: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”, phản ứng của Phê-rô sau lời tuyên bố của Đức Giê-su là “trách Người”.

“Thầy là Đấng Ki-tô”. Đúng, một Đấng Kitô là vua, nhưng chỉ là vua, sau khi “từ cõi chết trỗi dậy”. Thế nên, hôm ấy, Đức Giê-su đã nói với ông Phêrô cùng nhóm môn đệ rằng: “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

***** Là một Ki-tô hữu, chúng ta nghĩ gì về câu hỏi mà Đức Giê-su đã hỏi các tông đồ, năm xưa? Nói rõ hơn, nếu hôm nay Đức Giê-su hiện ra và cũng hỏi chúng ta với cùng một câu hỏi: “Còn anh em, anh  em bảo Thầy là ai?” Chúng ta sẽ trả lời như thế nào?

 Phải chăng, chúng ta sẽ trả lời “y chang” như dân chúng, cũng như các môn đệ xưa? Thưa, nếu chúng ta trả lời như thế, không chừng, Đức Giê-su sẽ khen rằng: “Ồ! Anh chàng này thuộc Kinh Thánh”!

Nếu chúng ta trả lời như tông đồ Phê-rô xưa, cũng không sai, nhưng nó chỉ nói lên được một điều duy nhất, rằng, niềm tin của người trả lời chưa đủ trưởng thành, và không khéo, người trả lời sẽ bị mang tiếng là có một niềm tin của một “con vẹt”.

Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, nhưng không phải là một Ki-tô đoạt giải Oscar, không phải là một Ki-tô đoạt huy chương vàng của một Thế Vận Hội nào đó. Lại càng không phải một Ki-tô “chiến thắng bằng sức mạnh của họng súng”.

Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. Một Ki-tô “phải được giương cao”, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. Một Ki-tô  “Yêu thương kẻ thù”, một Ki-tô “cho chiên được sống và sống sung mãn”.

Câu trả lời của chúng ta , nên chăng, là như thế!

Câu trả lời của chúng ta , nên chăng, là hãy sống một  đời sống phản ảnh trung thực đúng lời truyền dạy của Đức Giêsu, lời truyền dạy rằng “không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu, người liều mạng sống vì người mình yêu”?  Câu trả lời của chúng ta, nên chăng, là dám “từ-bỏ-chính-mình, vác thập giá mình hằng ngày”, thập giá của tình yêu thương “không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù”! (1Cor 13, 4-5)

Hãy thử nghĩ xem, nếu ai trong chúng ta đều có một đời sống “không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù” thì, điều gì sẽ xảy ra?

Thưa, có phần chắc, trong gia đình sẽ không thể có chuyện  đâm-cha-chém-chú, sẽ không thể chỉ vì chút khó khăn, chút buồn phiền mà vợ hoặc chồng phải cất lên tiếng ca “Thôi là hết em đi đường em… Tình duyên mình chỉ bấy nhiêu thôi” v.v…

Trái lại, gia đình chúng ta sẽ là một gia đình “Anh em hòa thuận. Vợ chồng ý hợp tâm đầu”. Còn ngoài xã hội thì sao! Có phần chắc mọi người quanh ta sẽ là “láng giềng thân thiết”.

Có thể kết luận rằng, thực hiện những điều nêu trên, đó là câu trả lời sống động nhất, một câu trả lời mang nhãn hiệu “Mến Chúa – Yêu người”, điều mà chính Đức Giê-su mời gọi.

Nói cách khác, đó chính là câu trả lời tuyệt hảo nhất cho câu hỏi: “Còn anh  em, anh em bảo Thầy là ai?”
Vâng, là một Ki-tô hữu, tất cả chúng ta, không ai là ngoại trừ, đều được Đức Giê-su gửi đến câu hỏi nêu trên: “Anh em bảo Thầy là ai?”

Petrus.tran

Thứ Tư, 12 tháng 9, 2018

Xin Người đặt tay lên con…


Chúa Nhật XXIII – TN – B 

Xin Người đặt tay lên con…

Không gì khó chịu cho bằng khi phải xỏ chân vào một đôi giày chật, bởi nó là nguyên nhân làm cho ta khó có thể có những bước đi dễ dàng. 

Không gì bực bội cho bằng phải mặc một cái áo không đúng kích cỡ, bởi nó là nguyên nhân làm cho ta khó khăn trong việc xoay trở. 

Và, không gì đau khổ cho bằng khi vừa mới chào đời đã phải gánh chịu một căn bệnh mà y học thường gọi là “bệnh bẩm sinh” (như câm điếc, ngọng, đui mù v.v… ), bởi nó là nguyên nhân làm cho ta khó trở nên một con người bình thường, như bao con người khác.

Với những người bất hạnh này (bị bệnh bẩm sinh), tiếc thay, dưới cái nhìn thiển cận của một số người, họ bị cho là do bởi kiếp trước ăn ở ác đức, nên kiếp này (theo thuyết luân hồi), phải lãnh hậu quả xấu là lẽ đương nhiên. 

Người Do Thái xưa kia, khi nhìn những người bất hạnh (nêu trên), họ cũng có một cái nhìn khá lệch lạc. Điển hình là các môn đệ của Đức Giê-su, một lần nọ, khi thấy một người mù từ thuở mới sinh, các ông liền hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta”. 

Hôm ấy, Đức Giê-su đã trả lời rằng: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta… Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. 

Bịnh hoạn tật nguyền ư! Hãy đem đến cho Ngài. Kinh phong bại liệt ư! Ngài đã từng chữa trị.  Mà, thật vậy, Kinh Thánh đã ghi lại rất nhiều người được Ngài chữa trị. Chữa trị  không một lời lên án, kết án như thói đời vẫn thường kết án. 

Câu chuyện Ngài chữa trị một người “vừa điếc vừa ngọng”, như một điển hình. 

**  Thật vậy, chuyện được thánh sử Mác-cô ghi lại rằng: Hôm đó “Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh”.
Sự hiện diện của Ngài lập tức được loan truyền và người ta  thấy một dòng người đông đảo tuôn đến.Trong dòng người ấy, có một người “vừa điếc vừa ngọng”. Người này được mang đến trước Đức Giê-su.  

Tại sao họ lại mang đến với Ngài? Thưa, không thấy thánh sử Mác-cô cho biết, nhưng chúng ta có thể nghĩ rằng, có lẽ họ nghe đồn Đức Giê-su có thể chữa khỏi, như đã chữa khỏi một cô gái bị quỷ ám con của một người đàn bà ở Tia, hôm trước. 

Hôm ấy, đứng trước Đức Giê-su, họ “xin Người đặt tay trên anh”. Ôi trời ạ, họ đã đến đúng địa chỉ rồi. Vâng, đúng địa chỉ. Vì, như Đức Giê-su có nói: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. 

Thế nên, hôm ấy, đáp lại nguyện vọng của họ, “con chiên vừa điếc vừa ngọng”  đã được Thầy Giê-su “kéo riêng ra khỏi đám đông”. Sau đó, Ngài “đặt tay vào lỗ tai… và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi” của con chiên vừa điếc vừa ngọng đó. Tiếp đến, Đức Giê-su “ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: Ép-pha-tha, nghĩa là hãy mở ra.” 

Chỉ có thế… chỉ có thế thôi… công trình của Thiên Chúa đã được tỏ hiện. Sự tỏ hiện đó đã khiến nhiều người kinh ngạc. Vâng, kinh ngạc thay! “..Tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng”.  

Anh ta nói gì? Thưa, không thấy thánh sử Mác-cô tường thuật rõ. Nhưng… nhưng chúng ta có thể tin rằng, anh ta và những người chứng kiến phép lạ hôm đó đã cùng nhau đồng thanh cất tiếng hô vang: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” (x.Mc 7, 37).

*** Vừa điếc vừa ngọng, quả đúng là bất hạnh. Mà, sao không bất hạnh cho được nhỉ! Nghe thì không nghe được. Nói thì cứ ú ớ ngọng nghịu chẳng ra câu cú gì. Nay, tai anh ta mở ra, lưỡi như hết buộc lại, ôi! quả đúng là một hồng phúc.

Vâng, là một hồng phúc, một hồng phúc đã được ngôn sứ Isaia loan báo vào thế kỷ VII trước Công Nguyên. Hồi ấy, ngài ngôn sứ đã loan báo rằng:  “Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi kẻ câm sẽ reo hò” (x.Is 35, …4-6).

Có phần chắc, anh chàng vừa điếc vừa ngọng năm xưa đã “nhảy nhót như nai và reo hò” vang khắp Giê-ru-sa-lem.  

Tình yêu của Thiên Chúa, qua Đức Giê-su, là một tình yêu không “kỳ thị”. Tình yêu của Thiên Chúa, qua Đức Giê-su,  là một tình yêu không có cái nhìn của “những thẩm phán”. 

Nói lên điều này để làm gì? Thưa, để chúng ta đừng ngạc nhiên vì sao Đức Giê-su lại giàu lòng trắc ẩn như thế. 

Còn nếu ngạc nhiên ư! Vâng, hãy ngạc nhiên là vì chúng ta rất có thể đang bị vừa điếc vừa ngọng. Vừa điếc vừa ngọng không phải về mặt thể lý nhưng  về khía cạnh thiêng liêng. Rất có thể đấy chứ!

Nói tới điếc ngọng về khía cạnh thiêng liêng, nguyên tổ Adam và Eva  như một bài học cảnh tỉnh chúng ta.
Về mặt thể xác, khi được Thiên Chúa dựng nên,  hai ông bà đâu có “điếc và ngọng”. Nhưng chỉ vì một phút “rong chơi cuối trời quên lãng”, quên lãng những lời truyền dạy của Thiên Chúa,  xao lòng trước những lời dụ dỗ của Satan, đôi tai của ông bà hóa điếc, “điếc thiêng liêng”, vì thế,  thính giác của ông bà chỉ còn nghe được những tiếng ậm ừ của dục vọng. 

Để rồi, phản ứng phụ của căn bệnh điếc, đó là, đang nói năng lưu loát, ông bà trở  nên ngọng nghịu. Hãy nhớ lại xem, khi Thiên Chúa tìm đến gọi và hỏi “Ngươi ở đâu”.  Ôi thôi! ông bà đã ngọng nghịu thốt lên  “Con nghe tiếng Ngài… con sợ hãi … vì con trần…. ”. Tệ thật! “con…trần… truồng…” (x.St 3,10).

Điều này có thể xảy ra cho chúng ta? Thưa, rất có thể, nhất là trong một thế giới đầy dẫy những tiếng mời gọi của nhục dục, của sắc dục, của thanh dục, của hương dục, của vị dục,  của xúc dục.

Với ngũ dục này, nó  làm cho ngũ giác quan của ta đi vào mê hồn trận, một mê hồn trận làm cho thị giác ta sáng ngời trước những mỹ nữ: mày tằm mắt phượng, môi đỏ má hồng, tóc đen óng ả, sóng mũi dọc dừa, hoặc tối mặt tối mũi trước những ngọc ngà, vàng bạc, châu báu v.v… Nó làm cho thính giác ta chỉ thích nghe những lời giả dối điêu ngoa, những lời tung hô chúc tụng v.v…

Nói tắt một lời, nó làm cho ta  vừa-điếc-vừa-ngọng-thiêng-liêng. Nó làm cho vị giác và khứu giác của ta mất khả năng “nếm và biết Thiên Chúa ngọt dịu dường bao”. Nó làm cho xúc giác của ta không còn cảm xúc về một “Thiên Chúa là tình yêu”.

Có ai dám khẳng định, tôi chưa bao giờ rơi vào mê hồn trận của ngũ dục nêu trên?

**** Có thể nói, chưa bao giờ mê hồn trận của ngũ dục đang hoành hành rất mãnh liệt quanh đời sống của chúng ta, hôm nay.  

Mê hồn trận của ngũ dục hôm nay, không còn được quyến rũ bởi những tiếng “rủ rỉ rù rì” nghe êm dịu như tiếng của con rắn trong vườn Eden năm xưa, nhưng là những tiếng gào thét man rợ sát máu. 

Người ta gào thét đòi hôn nhân đồng tính. Người ta gào thét đòi tự do phá thai. Chuyện được ghi lại rằng: “Tại Argentina, vào tháng 11/2013. Trước nhà thờ chính tòa San Juan Bautistan, hàng trăm phụ nữ ủng hộ phá thai, ngực để trần, phấn khích và khoái trá dùng bình sơn xịt và nhiều hình thức khác để lăng mạ và tấn công các tín hữu đang nắm tay nhau, sốt sắng đọc kinh Mai Khôi để bảo vệ sự sống”. 

Những người phụ nữ này, buồn thay, “điếc thiêng liêng – điếc Lời Chúa”.  Cũng có thể họ không điếc, nhưng “giả điếc”, giả điếc trước lời truyền dạy của Đức Chúa Trời: “Chớ giết người”…

Vui thay! Có không ít người vẫn còn vâng lời Chúa truyền dạy. Hôm ấy, hôm những người phụ nữ “đóng phim nghèo” nêu trên, chuyện ghi lại rằng: “Phần lớn trong số những người bảo vệ sự sống này lại là đàn ông, họ nhẫn nại chịu đựng sự lăng mạ, khiêu khích từ đối phương. Thật đáng kinh ngạc”. 

Vâng, những người đàn ông này “thật đáng khích lệ”. Đáng khích lệ vì họ  đã không “xòe tay ra lấy trái cấm” của quý bà Eva thời @, hôm nay.

Làm sao để có thể phớt lờ những tiếng mời gọi ăn trái cấm của xã hội thời @, hôm nay? Thưa, hãy lắng nghe Lời Chúa và siêng năng lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể?
Thật vậy, không ai có thể phủ nhận điều này. Khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, Đức Giê-su đã “thánh hóa” môi miệng chúng ta. 

Thánh hóa môi miệng chúng ta, tất nhiên chúng ta sẽ chỉ  “… mở môi con ca ngợi tình thương của Ngài”. Tất nhiên chúng ta sẽ chẳng bao giờ mở môi miệng để thóa mạ, (như có một số người đang thóa mạ Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô), Giáo hội Mẹ chúng ta. 

Còn về việc chuyên cần nghe “Lời Chúa” ư! Vâng, chính việc nghe Lời Chúa (Thánh Kinh), chúng ta sẽ tiếp nhận được “chân lý và lẽ thật”. 

Nghe và tiếp nhận chân lý và lẽ thật từ Thiên Chúa, thì những lời gào thét, những lời phỉnh gạt, những lời dối trá của satan và  bè lũ của chúng, có giá trị gì đối với chúng ta? Chắc chắn là không rồi. 

Vâng, Thiên Chúa đã tạo dựng con người có ngũ giác. Rất tuyệt vời, rất kỳ diệu, phải không thưa quý vị!
Đúng, rất tuyệt vời. Và, sẽ tuyệt vời hơn nếu chúng ta sử dụng nó (ngũ giác) đúng mục đích, những mục đích quy hướng về Thiên Chúa.

Bởi vì, chỉ có như thế… chỉ có như thế… hồ sơ   “sức khỏe thiêng liêng” của  chúng ta mới được  ghi nhận, rằng: “Tai tôi mở, lưỡi hết bị buộc và  miệng nói được rõ ràng”. 

Thưa bạn… bạn muốn có được một bản hồ sơ “sức khỏe thiêng liêng” như thế không? Nếu muốn, chúng ta hãy đến trước Thánh Giá Đức Ki-tô, và thưa với Ngài, rằng: “Xin Người đặt tay lên con”.

Petrus.tran






Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...