Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2022

Giê-su Nazaret – CHÚA ĐÓ

 Chuyện kể rằng: “các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá”.



Chúa Nhật III – PS – C

Giê-su Nazaret – CHÚA ĐÓ

Ước mong được gặp Thầy Giê-su “ngày thứ ba sẽ sống lại”, là ước mong chung của các vị tông đồ. Và, sau bốn mươi tám tiếng đồng hồ, tính từ ngày thứ sáu, ngày Thầy Giê-su bị bắt và bị giết chết trên thập giá, ước mong đó đã thành sự thật. Đó là vào “chiều… ngày thứ nhất trong tuần”. Chiều ngày ấy, Thầy Giê-su đã “đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em”.

Thầy Giê-su không chỉ đến-đứng-giữa-các-ông một lần, mà là những hai lần. Hai lần đến, Thầy Giê-su chỉ để lại “Bình An” cho các ông.

Hai lần đến… đến rồi lại đi. Thế nên, mọi sinh hoạt thường nhật của nhóm, vào những ngày Thầy Giê-su còn sống, bây giờ như bị “đóng băng”. 

Thầy Giê-su sẽ lại là người dẫn dắt các ông? Hay người dẫn dắt các ông sẽ là một ai đó trong Nhóm Mười Một! Đó là một câu hỏi, một câu hỏi chỉ có Thầy Giê-su mới có thể trả lời.

Mang tâm trạng đó, Phê-rô và các bạn đồng môn chắc hẳn rất mong muốn, mong muốn làm thế nào để có thể gặp Thầy mình. Trở về Ga-li-lê chăng! Nên chăng là trở về Ga-li-lê như lời bà Maria Mác-đa-la nói hôm trước rằng, bà và mấy người bạn của bà có ra mộ, và đã gặp Thầy Giê-su. Thầy Giê-su nói với bà rằng: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.” (x.Mt 28, 10).

Thầy Giê-su đã nói như thế. Thế nên, ông Phê-rô và một số người môn đệ đã lên đường đi Ga-li-lê. Sự kiện này đã được ghi lại trong Tin mừng Thánh Gio-an. (x.Ga 21, 1-19).

**

Vâng, chuyện được kể rằng: Sau sự kiện Đức Giê-su hiện ra để chứng thực cho sự Phục Sinh của Ngài với tông đồ Tô-ma. Một số các môn đệ cùng nhau trở về Ga-li-lê. Nhóm môn đệ đó gồm có: “ông Simon Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-dy-mô, ông Na-tha-na-en người Cana miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa…”

Về đến Ga-li-lê, tất cả các ông quây quần bên nhau tại Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Thầy Giê-su đâu! Các ông vẫn chưa thấy. Có thấy, có chăng là các ông chỉ thấy: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Nước còn cau mặt với tang thương. Ngàn năm gương cũ soi kim cổ. Cảnh đấy người đây luống đoạn trường” (Thơ: Bà Huyện Thanh Quan).

Và để xua tan hình ảnh “nước còn cau mặt với tang thương”, ông Si-mon Phê-rô nói với các bạn đồng môn: “Tôi đi đánh cá đây.” Đánh cá ư! Những người môn đệ còn lại nghe thế, họ đồng thanh nói: “Chúng tôi cùng đi với anh.”

Thế là con thuyền lướt sóng ra khơi. Hơn bán tiểu đội, kẻ lái người chèo, người thả lưới… Nhưng, hỡi ơi! quả đúng là một đêm dài đầy tang thương và đoạn trường. Các ông “không bắt được gì cả”. (Ga 21,…3).

Không thấy thánh sử Gio-an, là người cũng hiện diện trong chuyến hải hành, nói gì. Nhưng chúng ta có thể nghĩ rằng, có lẽ… có lẽ đêm đó, đứng trước nỗi thất vọng của mọi người, anh cả Phê-rô nhìn bầu trời đầy sao cất tiếng thở than não nề, rằng: “Ai đã từng đêm thức đêm mới biết đêm dài. Mới nghe lòng mình chợt buồn vì thương nhớ ai”.

Anh cả Phê-rô buồn vì thương nhớ Thầy Giê-su chăng! Ừ! Phải chi Thầy Giêsu đến-và-đứng-trên-thuyền các ông, nhỉ! Biết đâu… biết đâu sự hiện diện của Thầy sẽ đem lại cho các ông “một chiếc thuyền đầy cá đến gần chìm”, như trước kia!

Trở lại Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Đức Giê-su có đến, nhưng không đứng trên thuyền. Thánh sử Gio-an cho biết: “Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển…”

Thế nhưng, “các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su”. Khi Ngài hỏi: “Này các chú, không có gì ăn ư!” Các ông đã trả lời như thể trả lời với một vị khách lạ không quen: “Thưa không”. Một đêm thức trắng không bắt được một con cá lấy đâu để “có gì ăn”.

Không có gì ăn ư! Đức Giê-su Phục Sinh đã làm cho các ông “có cá ăn”. Hôm ấy, cũng giống như lần trước, Đức Giê-su khuyên các ông tiếp tục ra khơi với lời dặn dò: “Cứ thả lưới bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”.

Cứ-thả-lưới-bên-phải… Vâng, các vị môn đệ đã làm đúng như vị “khách lạ” truyền bảo. Chuyện kể rằng: “các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá”.

Thấy chưa! Dạ thấy… Các ông không chỉ thấy mẻ-lưới-đầy-những-cá, nhưng còn “thấy Chúa”. Và người đầu tiên thấy, chính là: “người môn đệ được Chúa thương mến”. Người này nói với Phê-rô: “Chúa đó!”.

Chúa đó ư! Bằng động tác thuần thục của một ngư phủ, ông Phê-rô “vội khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển”. Kình ngư Phê-rô sải hai cánh tay rắn chắc bơi vào bờ. Còn các môn đệ khác thì, “chèo thuyền vào bờ, kéo theo lưới đầy cá”.

Thật kinh ngạc, “lưới đầy những cá lớn đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không rách”. Hôm ấy, Thầy Giê-su đã “cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy.”

***

Vâng, tại Bờ Hồ Ti-bê-ri-a, các môn đệ đã gặp Thầy Giê-su Phục Sinh. Lần gặp gỡ này, Đức Giê-su không đơn thuần chỉ là để “tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết”, nhưng Ngài còn “bàn giao” đoàn chiên của mình cho các vị tông đồ và người thủ lĩnh chính là ông Phê-rô.

Bằng những lời gửi gắm đầy trách nhiệm, Đức Giê-su đã nói với ông Phê-rô, rằng: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy… Hãy chăn dắt chiên của Thầy… Hãy chăm sóc chiên của Thầy”.

Ba lần nhắn nhủ như ba lần khẳng định, là anh… là anh và chỉ là anh Phê-rô. Anh Phê-rô, anh phải như là một thủ lãnh của các thủ lãnh, để tiếp tục lèo lái con thuyền, không phải con thuyền mà anh đang sở hữu để lưới cá, nhưng là “Con Thuyền Giáo Hội”, để “lưới người”.

Hôm đó, mặc dù có sự hiện diện hai anh em nhà Dê-bê-đê (là hai người muốn được ngồi bên tả và bên hữu Thầy”, nhưng không thấy họ phản đối điều gì cả. (Vậy mà hôm nay, thật đáng buồn khi có một số “hậu duệ của Nhóm Mười Một” phản đối).

Mà, có gì để phản đối kia chứ! Hãy nhìn xem! một tông đồ Phê-rô, sau khi đã lãnh nhận trách nhiệm, người ta phải kinh ngạc vì ông đã “làm cho Giêrusalem ngập đầy giáo lý của các ông” (x.Cv 5, 28).

****

Xưa, Vua David đã tự hỏi: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến từ nơi nao?” Và, ông ta đã cho chúng ta câu trả lời, rằng: “Ơn phù hộ tôi đến từ ĐỨC CHÚA, là Đấng dựng nên cả đất trời”.

Rồi, đến các vị môn đệ. Các ông đã “ngước mắt” nhìn về một Giê-su đang đứng nơi bãi biển. Và các ông đã nhận được “ơn phù hộ” từ một Đức Giê-su Phục Sinh.

Hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh vẫn đứng đó. Tất nhiên, chỗ đứng của Ngài không phải ở một bờ biển xa xăm nào đó trên thế giới này, nhưng là trong những ngôi nhà thờ, những ngôi nhà thờ nằm giữa lòng “Con Thuyền Giáo Hội” và được tông đồ Phê-rô, mà hôm nay, đại diện là ngài đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô, lèo lái.

Thế nên, để có thể “ngước mắt nhìn Đức Giê-su Phục Sinh”, không có phương cách nào tốt hơn là hãy bước lên “Con Thuyền Giáo Hội”.

Trên Con Thuyền Giáo Hội, Đức Giê-su Phục Sinh vẫn đứng đó. Ngài đứng trong thánh lễ, qua các vị linh mục, Ngài tiếp tục nói với chúng ta: “Bình An của Chúa ở cùng anh chị em”.

Trên Con Thuyền Giáo Hội, Đức Giê-su Phục Sinh vẫn đứng đó, Ngài đứng đó trong thánh lễ, qua các vị linh mục, Ngài tiếp tục: “Cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho (chúng ta) và nói: Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy”.

Đức Giê-su Phục Sinh vẫn đứng đó, vẫn đứng nơi tâm hồn mỗi chúng ta, và nói với chúng ta, rằng: “Này con, con có yêu mến Thầy hơn những cám dỗ của thế gian, những cám dỗ của một nền văn hóa sự chết, của một nền văn hóa phá thai, của một nền văn hóa đồng tính luyến ái, của những nền văn hóa hỗn độn v.v…”, hay không?

Cuối cùng, trên Con Thuyền Giáo Hội, Đức Giê-su Phục Sinh vẫn luôn đứng đó, đứng nơi tòa “Hòa Giải” (Bí Tích Giải Tội), và chờ chúng ta “ngước nhìn”.

Xưa, các môn đệ không nhận ra người đứng trên bãi biển là Đức Giê-su. Nhưng, sau khi được Đức Giê-su gọi “anh em đến mà ăn”… Vâng, sau lời mời gọi đó, các môn đệ “không ai trong các ông dám hỏi ‘Đức Giê-su là ai’ vì các ông biết rằng đó là Chúa”.

Hôm nay, cũng vậy đối với chúng ta. Đức Giê-su cũng đang “gọi” mỗi chúng ta. Ngài đang “đứng trước cửa (tâm hồn) chúng ta và gõ. Ai nghe tiếng Ngài và mở cửa, thì Ngài sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy và người ấy sẽ dùng bữa với với Ngài” (x.Kh 3, 20).

Tại sao phải cần “dùng bữa với Ngài”? Thưa, vì nhờ đó, chúng ta sẽ nhận ra Ngài chính là Chúa, như xưa kia hai môn đệ trên làng Emmau đã nhận ra vị khách cùng đồng hành với mình chính là “Đức Giê-su”, sau khi cùng đồng bàn với Ngài.

Chúng ta tuyên xưng Chúa Giê-su đã Phục Sinh. Thế thì đừng bao giờ vắng mặt vào Thánh Lễ Chúa Nhật. Bởi vì trong Thánh Lễ chúng ta được “dùng bữa với Ngài”. Được dùng bữa với Ngài, chúng ta mới có thể nhận ra Ngài chính là Chúa.

Nói cách khác, đừng rời bỏ Con Thuyền Giáo Hội, bởi vì nơi đây chúng ta được chăm sóc bởi một tông đồ Phê-rô và bây giờ là một Giáo Hoàng Phan-xi-cô. Hơn thế nữa, chúng ta nhận ra được một Giê-su Nazaret chính là Chúa đó.

Vâng, Giê-su Nazaret – CHÚA ĐÓ.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2022

Đừng vắng mặt Thánh Lễ Chúa Nhật

 Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27).

Đừng vắng mặt Thánh Lễ Chúa Nhật

Chúa Nhật II – PS – C


Đừng vắng mặt Thánh Lễ Chúa Nhật


Shalom – Shalom. Vâng, đây là tiếng chào được người Do Thái dùng để chào hỏi mỗi khi gặp nhau, và nó có nghĩa là bình an. Chắc hẳn không ai trong chúng ta lại không muốn có được sự bình an trong cuộc sống của mình.


Trong Kinh Thánh có nhắc đến chữ shalom và nó được hiểu với ý nghĩa là hòa bình, là mong muốn hạnh phúc giữa mọi người, giữa các quốc gia, giữa Thiên Chúa và con người.


“Shalom aleichem” là lời chào đã được Đức Giê-su sử dụng, và nó có ý nghĩa là “bình an cho bạn – bình an cho anh em”.


Đức Giê-su từ trong cõi chết Ngài đã phục sinh. Ngài đã phục sinh và đã hiện ra với các môn đệ của mình. Đến với các môn đệ của mình, lời đầu tiên Đức Giê-su nói với họ, đó là: “Bình An Cho Anh Em”.


Sự kiện này có thể được ví như “một tia sáng ấm áp trong bóng tối tiêu điều” và nó đã đem đến cho các môn đệ “niềm vui mừng vì được thấy Thầy”. Thánh Gio-an, người môn đệ Đức Giê-su thương mến, đã ghi lại sự kiện này rất chi tiết.



**

Theo thánh sử Gio-an kể lại, thì, sự kiện này xảy ra vào “chiều ngày thứ nhất trong tuần”. Chiều hôm đó, các môn đệ của Đức Giêsu tụ họp trong một ngôi nhà. Các ông vẫn chưa thoát khỏi sự bàng hoàng về cái chết của Thầy mình. Các ông vẫn chìm trong sự sợ hãi và hoang mang…


Rất sợ hãi khi nhóm thượng tế và các kỳ mục đã nham hiểm cho lính một số tiền lớn và bảo họ tung tin đồn rằng, vào ban đêm “các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác” (Mt 28, 13).


Theo luật pháp thời đó, lấy trộm xác là một tội rất nặng. Cho nên, hôm đó, “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”.


Còn hoang mang ư! Vâng, hãy nghĩ mà xem, nếu được tính từ hôm “thứ sáu sầu thảm”, là ngày Đức Giêsu bị đóng đinh trên cây thập tự tại núi Sọ, nay đã quá bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Sắp hết ba ngày rồi… Thế mà, lời phán hứa của Thầy rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” Ôi! Sao vẫn chưa thấy ứng nghiệm!


Trong sự tĩnh lặng với nỗi sợ hãi và hoang mang, thì… không ai có thể tin được, “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em”.


Thầy Giêsu ư! Lời Thầy đã ứng nghiệm rồi sao! Thưa, đúng vậy. Chính Đức Giêsu, chứ không là ai khác, “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Bàn tay và cạnh sườn in đậm dấu tích của vết đinh và mũi đòng. Sự hoang mang và ngờ vực, sự sợ hãi và lo lắng của các ông được nhường chỗ cho: “niềm vui mừng vì được thấy Chúa”.


Chiều hôm đó, đáng tiếc thay! thiếu vắng tông đồ Tôma. Chính sự vắng mặt của ông đã khiến ông không tin sự kiện Đức Giêsu hiện đến với các bạn đồng môn của mình. Dù đã được các bạn đồng môn quả quyết “Chúng tôi đã được thấy Chúa”, ông vẫn không tin. 


Ông Tô-ma quan niệm, rằng: “Bách văn bất như nhất kiến - Trăm nghe không bằng một thấy”. Thế nên, ông lớn tiếng nói rằng “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).


Tám ngày sau, “các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông.” Vẫn chưa hết sợ hãi sao đó, nơi các ông tụ họp “các cửa đều đóng kín”.


Và rồi, Đức Giêsu đến, “đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em”. Rồi Ngài bảo với ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27).

Nghe thế, Tôma đứng sững như hình hài pho tượng, nghĩ đến những chữ “nếu… nếu tôi… nếu tôi…”, có lẽ lúc đó ông ta lẩm bẩm “nếu tuần trước mình đừng không tin, thì hôm nay có đâu buồn đau, có đâu buồn đau”!


Nhìn Thầy Giê-su, một Giê-su bằng xương bằng thịt, với tất cả dấu tích của cuộc khổ hình, sự hồ nghi đã biến khỏi tâm hồn của ông, hình ảnh một Đức Giê-su Phục Sinh rõ mồn một trước đôi mắt ông.


Không còn gì để nghi ngờ nữa, Tôma nghẹn ngào cất tiếng nói: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28). Đáp lại, Đức Giêsu phán rằng “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29).


***

“Phúc thay những người không thấy mà tin”. Phải chăng đây là lời Đức Giêsu trách ông Tô-ma? Thưa không. Mà, nếu đúng thì đâu chỉ mình ông Tô-ma “cứng lòng tin”! Còn đó là cả nhóm mười người trong họ, dù đã nghe bà Maria Mác-đa-la nói “(Chúa) đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin” (x.Mc 16, 11).


Vâng, nếu trách thì trách cả “Nhóm Mười Một”. Đức Giê-su, trong một lần tỏ mình ra cho các ông, khi các ông đang dùng bữa, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người trỗi dậy” (x.Mc 16, 14).


Dẫu sao, sự cứng lòng tin của Tô-ma, sự chậm tin của những môn đệ khác, đã chứng minh rằng: họ không hề là những người có một đức tin “mù quáng, tin đại”, trái lại, họ là những người có một niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh, đích thực. Nói cách khác, các vị tông đồ đã thật sự gặp được Đức Giê-su Phục Sinh.


****

Đức Giê-su thật sự đã Phục Sinh. Điều này không cần tranh luận. Điều cần tranh luận đó là: Tôi đã thật sự gặp Đức Giê-su Phục Sinh?


Nếu ta chưa gặp, phải chăng là vì ta tìm “người sống ở giữa kẻ chết”? Nói cách khác, phải chăng là vì ta lo mải mê tìm những thú vui trần gian, tìm những hư danh chóng qua, là những thứ nay còn mai mất v.v…!


Nếu ta chưa gặp, phải chăng là vì ta không lắng nghe tiếng Chúa Phục Sinh gọi tên mình, như xưa kia Chúa Phục Sinh đã gọi tên bà Maria Mác-đa-la rằng: “Maria”! Nói rõ hơn, phải chăng là vì ta để đôi tai của mình nghe những tiếng gọi của quyền lực, của danh vọng, của tiền bạc, là những thứ “chỉ đưa ta tới cõi thung lũng âm u, nghi ngờ, chết chóc”!


Nếu ta chưa gặp Đức Giê-su Phục Sinh, ngay hôm nay hãy tìm đến Người. Không quá khó để chúng ta có thể gặp được Đức Giê-su Phục Sinh.


Vâng, nơi gặp đó chính là ngôi nhà thờ. Đó chính là trong Thánh Lễ. Trong Thánh Lễ, qua vị linh mục, Đức Giê-su Phục Sinh tiếp tục chúc bình an cho chúng ta, như xưa Ngài đã chúc cho các vị tông đồ. Lời chúc rằng: “Bình An của Chúa ở cùng anh chị em.”


Trong Thánh Lễ, qua vị linh mục, Đức Giê-su tiếp tục nói với chúng ta như xưa Ngài đã nói với Tô-ma. Vâng, hôm nay Ngài sẽ nói rằng: “Đây là Mầu Nhiệm Đức Tin - Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.


Xưa, tại ngôi nhà “tiệc ly” Đức Giê-su Phục Sinh đã ban cho các vị tông đồ “đức tin và sự bình an”. Nay, trong ngôi thánh đường, tại bàn Tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su Phục Sinh ban cho chúng ta “sự bình an và sự sống đời đời”.


Vâng, xưa kia chính Ngài đã phán hứa rằng: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” và rằng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (x.Ga14, 27).


Đức Giê-su đã hứa ban. Thế thì, cớ gì chúng ta không đón nhận, nhỉ!


Tại sao chúng ta không đón nhận khi mà thế giới của hôm nay, là một thế giới mỗi ngày một bất an, tràn lan những bất ổn, lộn xộn bởi những bất mãn, bất bình, nhan nhản những sự bất công, bất nhân, bất nghĩa!


Thế giới hôm nay là thế đó, là một màu xám, là một màu đen. Là con người đã “cất đi” niềm tin vào một Giê-su Phục Sinh. Là con người đã “vất đi” sự bình an mà Đức Giê-su Phục Sinh đã ban cho.


Đó là sự thật. Và, sự thật này phải là tiếng chuông cảnh báo cho mỗi chúng ta. Cảnh báo chúng ta đừng trở thành một Cain… một Cain “mất niềm tin vào một Thiên Chúa là tình yêu”. Sự thật này phải là tiếng chuông cảnh tỉnh chúng ta. Cảnh tỉnh chúng ta đừng trở thành một Cain… một Cain cướp đi “sự bình an” của Abel, người em của mình.


Vâng, thật mỉa mai khi vụ án Cain và Abel xưa, ngày nay lại tái diễn. Nó tái diễn với một Cain-Russia vs Abel-Ukraine.


Đức Giê-su Phục Sinh, có phần chắc, Ngài không muốn thảm cảnh Cain và Abel tái diễn một lần nữa. Đức Giê-su Phục Sinh, có phần chắc, Ngài vẫn hiện diện ở Russia, ở Ukraine, ở khắp nơi trên thế giới và chờ… chờ tất cả những ai đang đóng vai “Cain”, mở rộng tâm hồn mình, đón nhận “Bình An của Ngài”, đón nhận để trở thành “khí cụ bình an của Ngài”. 


Đức Giê-su Phục Sinh, có phần chắc, Ngài vẫn chờ… chờ chúng ta trong nhà thờ, nơi thánh lễ, để tiếp tục ban Bình An cho chúng ta. Vâng, chỉ cần làm một điều thôi, đó là chúng ta “đừng vắng mặt” như Tô-ma đã (lỡ) vắng mặt. Đừng... đừng bao giờ vắng mặt “ngày thứ nhất trong tuần”. Nói, theo cách nói ngày nay, đừng vắng mặt Thánh Lễ Chúa Nhật, mỗi tuần.


Petrus.tran

Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2022

Thánh Kinh - Thánh Thể: nơi gặp Giê-su


“Nếu Đức Giê-su không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin anh em cũng trỗng rỗng” (1Cor 15, 14).

Thánh Kinh - Thánh Thể: nơi gặp Giê-su

Chúa Nhật Lễ Phục Sinh

Thánh Kinh - Thánh Thể: nơi gặp Giê-su

Trong Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng rằng, Đức Giê-su: “Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh”.

Đức Giê-su đã sống lại thật, và đó là lý do hôm nay toàn thể Giáo Hội mừng kính trọng thể Lễ Phục Sinh.

Thánh Phao-lô, người đã từng bách hại những người tin vào sự sống lại của Đức Giê-su, sau khi trở lại đã có lời, rằng: “Nếu Đức Giê-su không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin anh em cũng trỗng rỗng” (1Cor 15, 14).

Ngài Phao-lô cũng đã khẳng định với cộng đoàn Corinto rằng: “Trước hết, tôi đã truyền cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai… sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào đã sinh non”.

Trong lời khẳng định này, thánh Phao-lô có nhắc đến “ông Kê-pha”. Kê-pha tức là Phê-rô, một cái tên Đức Giê-su đã đặt cho “ông Simon, con ông Gio-an”.

Ông Kê-pha và người bạn đồng môn là tông đồ Gio-an chính là những người đầu tiên trong nhóm Mười Hai hiện diện tại ngôi mộ táng xác Đức Giê-su. Và, điều các ông thấy, chỉ là một “ngôi mộ trống”. Chỉ là một ngôi mộ trống và tông đồ Gio-an đã xem đó như là dấu chỉ về việc Thầy Giê-su Phục Sinh. Sự kiện này được tông đồ Gio-an ghi lại chi tiết, và như lời ngài nói: “là để anh em tin”.

**

Vâng, sự kiện thánh thiêng này xảy ra vào “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối”. Hôm ấy, lúc trời còn tối thì “bà Maria Mác-đa-la đi đến mộ”.

Bà Maria Mác-đa-la là ai? Thưa, bà ta chính là người đã được Đức Giê-su trừ quỷ và chữa bệnh. Vào hôm Đức Giê-su bị bắt và bị giết, bà ta đã theo chân Người suốt con đường từ dinh Philato đến tận đồi Golgotha. Chính mắt bà chứng kiến cảnh hành hình và cái chết của Ngài.

Và, cũng ngày hôm đó, lúc ông Giosep, người Arimathe, được tổng trấn Phi-la-tô cho phép nhận thi hài Đức Giê-su để chôn, “bà và một bà khác cũng tên là Maria…” có mặt ở đó.

Bà thấy ông ta ôm xác Đức Giê-su “lấy tấm vải gai sạch mà liệm và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá…”. Sau đó, ông ta “lăn tảng đá to lấp cửa mồ, rồi ra về” (x. Mt 27, 59-61).

Thế mà hôm nay, lạ chưa! Hôm nay, bà ta thấy “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”. Sau một phút bàng hoàng, bà ta chạy về. Người đầu tiên bà gặp, chính là “ông Simon Phêrô và một người môn đệ Đức Giê-su thương mến”. Đứng trước mặt hai ông, bà lắp ba lắp bắp, nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” (Ga 20, 2).

Sau khi nghe xong lời tường trình của bà Maria Mác-đa-la, mặc dù chưa biết thực hư thế nào, nhưng nguồn tin đã đem lại cho ông Phê-rô và Gio-an niềm hy vọng về điều Đức Giêsu đã nói với các ông khi Ngài còn sống, rằng, “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”.

Hôm nay, tính từ hôm thứ sáu, ngày Thầy Giêsu bị đóng đinh trên thập giá tại Golgotha, đã là ngày thứ ba…

Đã là ngày thứ ba! Vậy, phải đi ra mộ ngay thôi. Nghĩ như thế, tông đồ Phêrô và môn đệ kia vội vàng đi ra mộ.

Câu chuyện được kể tiếp rằng: “Cả hai ông cùng chạy”. Khi tới ngôi mộ, nơi Thầy Giêsu đã được mai táng. Một cảnh tượng khác thường đã xảy ra. Hai ông không thấy xác Thầy Giêsu, hai ông chỉ thấy “những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20,…7).

Có một sự kiện thật khó hiểu. Vâng, thật khó hiểu khi những “băng vải tẩm thuốc thơm quấn thi hài Đức Giêsu” hôm mai táng Ngài, nay đã được “xếp riêng ra một nơi…”, xếp rất ngay ngắn.

Đức Giê-su đâu? Các ông không thấy. Ai đã tạo ra sự kiện khác thường này! Các ông không biết. Nhưng, khi đã thấy những sự khác thường này, tông đồ Gio-an đã tin. Kinh Thánh ghi lại rằng: “Ông đã thấy và đã tin”. Mang niềm tin đó, “Các môn đệ lại trở về nhà”. (x.Ga 20, 10).

***

Các ông “đã thấy” gì, để rồi các ông “đã tin”! Xin thưa, các ông chẳng thấy gì cả. Chẳng thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Có chăng, các ông chỉ thấy khăn liệm, băng vải đã được xếp ngay ngắn và “ngôi mộ trống”.

Vâng, chính ngôi-mộ-trống, như là nguồn “ánh sáng Phục Sinh”, một nguồn ánh sáng sẽ giúp các ông “hiểu rõ hơn” về những điều Kinh Thánh đã chép, rằng “Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết”. (Ga 20, 9).

Mà, thật vậy, khi “chưa hiểu” những điều Kinh Thánh đã chép về sự Phục Sinh của Đức Giê-su, đã có lần khi Ngài hiện ra: “đứng giữa các ông… (thế mà) các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24, 36-37).

Các môn đệ, chỉ thật sự tin và (sau này) công bố niềm tin của mình trước bàn dân thiên hạ là nhờ Đức Giê-su. Nhờ Đức Giê-su trong bốn mươi ngày sau khi Phục Sinh, đã hiện ra nhiều lần để củng cố đức tin các ông và “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”.

Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ có cho biết, rằng Đức Giêsu, “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong suốt bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (x.Cv 1,3) .

Và, khi đã được mở trí để hiểu Kinh Thánh, niềm tin về một Giê-su Phục Sinh, đối với các ông, không hề lay chuyển.

Chuyện kể rằng: dù phải đối mặt với các tư tế, các kỳ mục, các kinh sư, ông Phêrô và Gioan vẫn không sợ hãi mà tuyên xưng: “Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết” (Cv 4,10).

****

“Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết” (Cv 4,10). Vâng, đó cũng là niềm tin của chúng ta hôm nay, một niềm tin chúng ta quen gọi là “tông truyền”.

Niềm tin tông truyền có đáng để chúng ta “tin”? Thưa, có. Có là bởi niềm tin này không chỉ được nói đến bằng “lời”, nhưng còn bằng “cái chết” chết cho lời chứng của mình. Người đầu tiên đã chết cho lời chứng của mình chính là tông đồ Gia-cô-bê.  

Sách Công Vụ Tông Đồ có kể rằng: Hồi ấy có rất nhiều người tin vào Đức Giê-su. Những người này đã bị “Vua Hê-rô-đê ra tay ngược đãi…” Ông vua này, không chỉ ra tay ngược đãi, mà còn “đã cho chém đầu ông Gia-cô-bê là anh ông Gio-an.” (x.Cv 12, 2).

Không chỉ tông đồ Gia-cô-bê, hơn hai ngàn năm trôi qua, có rất nhiều… nhiều người, đã chấp nhận hy sinh thân mình cho niềm tin Đức Giê-su: “Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh”.

Đó là những chứng nhân sống động. Thế nên, đừng để niềm tin này chao đảo trước những thủ đoạn, như thủ đoạn của các thượng tế và kỳ mục ngày xưa, đạp đổ niềm tin Đức Giêsu Phục Sinh bằng cách hối lộ “cho lính một số tiền lớn” để họ vu khống lên rằng, “các môn đệ của (Giêsu) đã đến lấy trộm xác”.

Đừng vì vài cuốn cuốn sách, dăm ba bài báo phản bác sự Phục Sinh của Đức Giê-su, mà mất đi niềm tin Đức Giê-su đã sống lại từ cõi chết.

Thật ra, “đi tìm chứng cứ Đức Giê-su sống lại dễ hơn tìm chứng cứ phản bác sự sống lại của Ngài”

Đây, chúng ta cùng nghe Chuck Colson, khi ông ta “mượn” scandal Watergate trong thời Tổng thống Nixon, để minh chứng về sự Phục Sinh của Đức Giê-su.

Chuck Colson nói: “Tôi biết rằng sự sống lại là sự thật, và Watergate đã chứng minh cho tôi thấy điều đó. Bằng cách nào ư? Vì 12 người đã làm chứng rằng họ đã nhìn thấy Chúa Giê-su từ kẻ chết sống lại, và sau đó họ công bố lẽ thật đó trong 40 năm, không một lần chối bỏ nó. Từng người đều bị đánh đập, tra tấn, ném đá, bỏ tù và chết. Họ sẽ không cam chịu vậy nếu đó không là sự thật. Watergate có liên quan đến 12 người có quyền lực nhất thế giới - và họ không thể giữ nổi lời nói dối đó trong ba tuần. Bạn muốn nói 12 môn đồ giữ vững lời một lời nói dối trong suốt 40 năm sao? Hoàn toàn không thể.” (nguồn: internet).

Frank Morison là một luật sư người Anh, ông đã nghi ngờ về sự phục sinh của Đức Giê-su. Vì thế, ông đã bỏ ra nhiều năm tháng để tìm bằng chứng sự phục sinh của Đức Giê-su, hoặc là một huyền thoại hoặc là một vụ lừa đảo, và ông bắt đầu nghiên cứu để viết một cuốn sách hầu bác bỏ nó.

Thế nhưng, càng tìm kiếm bằng chứng để phủ nhận, ông lại càng tìm ra nhiều bằng chứng đáng tin cậy để nói lên rằng: Chúa Giê-su thực sự phục sinh. Năm 1970, ông cho ra đời tác phẩm: “Who moved the stone – Ai đã lăn hòn đá”. Ai-đã-lăn-hòn-đá, như để xác tín, rằng: “Đức Giê-su Ki-tô thực đã sống lại”.

Nói tắt một lời, có phần chắc chắn, nếu không có sự Phục Sinh của Đức Giê-su, Ki-tô giáo không thể có đến ngày nay. Trái lại, nó đã chết ngay bên thềm thập tự giá cùng với Đức Giê-su tại Golgotha, trong khi các người môn đệ của Ngài trốn chạy để giữ lấy mạng sống. Nhưng các môn đệ vẫn tiếp tục sứ mạng rao truyền về một Giê-su: “Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh” và phát triển một Hội Thánh: “Duy Nhất - Thánh Thiện - Công Giáo - Tông Truyền”.

Ngày xưa, ngôi-mộ-trống chính là dấu chỉ Đức Giê-su đã sống lại. Nhưng hôm nay, dấu chỉ sống động nhất đó chính là Thánh Kinh và Thánh Thể.

Vâng, Thánh Kinh và Thánh Thể chính là phương cách để chúng ta nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh.  

Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau như là một điển hình và là mẫu mực để chúng ta noi theo. (x. Lc 24, 12-32).

Chuyện là thế này: Buồn đời vì Thầy đã chết. Hai người môn đệ này về quê. Về quê với tâm trạng thất vọng não nề. Cho tới khi gặp Đức Giê-su, nghe Ngài giải thích Thánh Kinh, một sự giải thích khiến lòng hai vị “bừng cháy lên”, rồi sau đó, cùng Ngài ăn bữa tối, và khi nhìn thấy Ngài “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ” (Thánh Thể), hai vị mới “nhận ra Người”.

Họ đã được biến đổi. Thánh Kinh và Thánh Thể đã biển đổi con người họ. Thánh Kinh và Thánh Thể đã cho họ nhận ra một Giê-su… một Giê-su Phục Sinh.

Thế nên, hôm nay, để nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh, sẽ không còn là chuyện dựa vào hình ảnh một ngôi-mộ-trống, với “những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi”, nhưng phải là dựa vào Thánh Kinh và Thánh Thể.

Thánh Kinh và Thánh Thể phải được xếp ngay ngắn trong ngôi-mộ-tâm-hồn của mỗi chúng ta. Bởi, chỉ có như thế, chúng ta mới có thể được chạm, được thấy, được nghe chính Đức Giê-su Phục Sinh.

Thánh Kinh và Thánh Thể chính là nơi chúng ta gặp Giê-su Phục Sinh.

Petrus.tran



Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2022

Hãy dậy và cầu nguyện…

ễ Lá là thánh lễ tưởng nhớ lại ngày Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem và đã được đông đảo dân chúng đón rước tung hô chúc tụng.



Chúa Nhật Lễ Lá

Hãy dậy và cầu nguyện…

Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, coi như sắp kết thúc. Và, khi mùa chay kết thúc, một tuần lễ tiếp theo, được gọi là “tuần thánh”. Tuần thánh bắt đầu là Chúa Nhật Lễ Lá.

Lễ Lá là thánh lễ tưởng nhớ lại ngày Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem và đã được đông đảo dân chúng đón rước tung hô chúc tụng. Tin Mừng thánh Mác-cô ghi lại sự kiện này như sau: “Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa!” (x.Mc 11, 9).

Với thánh sử Luca, ngài đã tường thuật lại rằng: “Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường”. Và “Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!”

Trong ngày Lễ Lá, Phụng Vụ Lời Chúa còn nhắc đến biến cố Đức Giê-su bị bắt cùng với việc xử án Ngài. Sự kiện này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca.

**

Theo thánh Luca ghi lại, thì nơi xảy ra thảm kịch là núi Oliu. Hôm ấy, như thường lệ, Đức Giê-su cùng với các môn đệ ra đó. Đến nơi, Ngài bảo các ông: “Anh em hãy cầu nguyện. Rồi người đi xa các ông một quãng… và quỳ gối cầu nguyện, rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha”.

Vâng, đây là một lời cầu nguyện đã khiến biết bao con tim phải rung động, phải rung động khi chính mình đối diện với đau buồn, đối diện với cô đơn, đối diện với phản bội.

Lm. Ân Đức khi nghe lời cầu nguyện này, ngài đã để cho con tim mình hòa theo con tim của Đức Giê-su, qua bài thánh ca “chén đắng”.

Chúng ta cùng nghe: “Cha ơi! Cha ơi! Bây giờ con buồn lắm, linh hồn con buồn lắm, nhưng sao Cha nỡ bỏ con. Cha ơi! Cha ơi! Bây giờ con sợ lắm, linh hồn con chìm đắm trong xao xuyến với cô đơn. 

Chén đắng! Nếu được con khỏi uống, nếu được con khỏi uống hồn con xiết bao ưu phiền. Chén đắng! Lẽ nào con chẳng uống lẽ nào con chẳng uống xin vâng ý Cha mà thôi.”

Vâng, chén rất đắng… rất đắng.

Đắng… vì có một người trong nhóm mười hai phản bội Ngài. Và tệ thật, bàn tay kẻ phản bội Ngài lại cùng đặt trên bàn với Ngài. Người đó chính là Giuđa Iscariot.

Đắng… vì một người môn đệ khác là Phê-rô “gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần chối là không biết Đức Giê-su”.

Đắng… đắng đến nỗi “mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất.”

Trở lại với Giu-đa.Vài hôm trước, tên phản bội đã âm thầm đi gặp các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ. Gặp để thảo luận về cách thức nộp Đức Giêsu cho họ và thương lượng về tiền thưởng cho y.

Cuộc thương lượng rất nhanh chóng. Các thượng tế đã viết một “bản hợp đồng” có điều khoản “cho hắn ba mươi đồng bạc”. Thế là “từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.”

Và khi được Giuđa cho biết dịp thuận tiện đã đến, một toán người liền được các thượng tế và kỳ mục phái đi truy bắt Đức Giêsu.

Tại núi Oliu, nơi Giu-đa biết chắc Đức Giêsu cùng các môn đệ đang hiện diện, bỗng náo động bởi tiếng vó ngựa cùng với tiếng binh khí khua vang.

Sự thinh lặng và trang nghiêm của nguyện cầu bị phá vỡ bởi những tiếng hò hét. Và khi kẻ dẫn đầu là Giuđa Iscariot xuất hiện. Y lại gần Đức Giêsu để hôn Người.

Why kiss? Sao lại là hôn? Vâng, nhìn thấy tên phản bội xông đến, Đức Giê-su bảo hắn: “Giu-đa ơi! Anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao!” Thật đúng vậy. Đó là một ám hiệu mà y đã nói với đồng bọn: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy.” Ôi! “nụ hôn của thần chết”.

Ba năm công khai rao giảng Tin Mừng. Đây không phải lần đầu tiên người ta tìm bắt Đức Giêsu. Đã nhiều lần người ta tìm cách giết Ngài, đe dọa và ném đá Ngài. Đức Giêsu đều tìm cách lánh đi. (Ga 8,59).

Nhưng hôm nay, tại Oliu, Giêsu người Nazaret không lánh đi, Ngài vẫn đứng đó: “lòng xao xuyến bởi địch thù gào thét, bởi ác nhân hà hiếp”. Trước những kẻ đến bắt mình, Đức Giê-su lớn tiếng chất vấn họ, rằng: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến? Ngày ngày tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ mà các ông không tra tay bắt. Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm”.

Đúng, đã đến lúc “là giờ… là thời của quyền lực tối tăm”. Thế nhưng, các người môn đệ của Ngài không hiểu. Thế nên họ đã sử dụng vũ lực. Họ đã “chém tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai bên phải”. Họ quên lời Thầy Giê-su tuyên phán, rằng: “Ta đến là để cho chiên được sống”.

Vâng, hôm ấy, lời tuyên phán đó đã được Đức Giê-su hiện thực hóa. Tên đầy tớ của thượng tế đã được Ngài “sờ vào tai mà chữa lành”. Tưởng rằng, một phép lạ nhãn tiền như thế, lẽ ra nhóm thượng tế và lãnh binh phải chùn tay. Nhưng không, họ vẫn bắt Đức Giê-su.

***

Toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ người Do Thái ập đến bắt Đức Giêsu. Họ bắt Ngài chỉ vì Ngài đã dám tuyên bố rằng “Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại”. Họ bắt Ngài chỉ vì Ngài nhìn nhận mình chính là “Đấng Kitô Con Thiên Chúa”.

Họ trói Ngài rồi điệu đến dinh thượng tế Caipha. Tại đây, toàn thể những thành viên Hội Đồng Công Tọa quá đỗi bất ngờ trước chiến tích của tên “phản thùng” Giuđa Iscariot.

Trong khi đó, những kẻ canh giữ Đức Giê-su thì ra sức nhạo báng và đánh đập Ngài. Rất dã man, họ “bịt mắt Ngài lại, rồi hỏi rằng: ‘nói tiên tri xem: ai đánh ông đó? Chúng còn thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Ngài” (x.Lc 22, 63-65).

Rồi, khi trời tảng sáng, màn luận tội Đức Giêsu bắt đầu. Bắt đầu với những lời kết tội vô lý, bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, điều đó cũng chưa làm họ mãn nguyện. Họ muốn tìm một đồng minh, đó là quan tổng trấn. Thế là, họ điệu Đức Giê-su đến ông Phi-la-tô.

Khi đến dinh quan tổng trấn, ông Phi-la-tô chết lặng trước thân thể của Đức Giêsu, một thân thể đầy dấu tích của việc bị đánh đòn. Hình hài của Đức Giê-su, thật đúng như những gì ngôn sứ Isaia đã mô tả về Ngài: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi người ta phỉ nhổ” (Is 50, 6).

Chỉ qua vài lời thẩm vấn, Phi-la-tô cho rằng, Đức Giê-su “chẳng can tội gì đáng chết” (Lc 23,14). Thế nhưng, dù có thẩm quyền, ông ta vẫn không đủ can đảm trả tự do cho Ngài, vì ông ta sợ, sợ trước những tiếng gào thét đầy phẫn nộ của đám đông dân Do Thái đang ném về Đức Giê-su: “Giết! Giết nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá”.

Sau một chút suy nghĩ, Philato vui mừng trước một phương án có thể Đức Giê-su sẽ được tha. Đó là, như một thông lệ, vào những ngày lễ lớn, quan Tổng Trấn đại diện cho Rôma, có thói quen ân xá cho một phạm nhân.

Năm đó, một người tù tên là Baraba, “tên này bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người”, đã được Philatô mang ra để dân chúng lựa chọn tha ai: Đức Giê-su hay Baraba.

Thật đáng tiếc, kế hoạch của quan tổng trấn đã không xảy ra như ông ta dự tính. Hôm đó, toàn dân đã la lớn: tha Baraba và đóng đinh Giêsu.

Những tiếng hô vang đó đã làm Phi-la-tô bối rối. Qua việc “rửa tay”, Philatô phủi bỏ trách nhiệm của mình. Và rồi, mệt mỏi vì những tiếng gào thét cuồng nộ của đám đông, quan tổng trấn ngượng ngùng “trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá”.

Via Dolorosa – Con đường đau khổ bắt đầu… bắt đầu với một Giê-su “ôm vết thương rỉ máu” từng bước tiến về Golgotha.

Có một nhóm phụ nữ “vừa đấm ngực vừa than khóc Người”, thế nhưng, Đức Giêsu đã quay lại và cho họ một lời khuyên chân tình: “Đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu.” (Lc 23,28).

Các bà quên rằng, Đức Giêsu, nếu muốn, Ngài đã có thể cầu xin Thiên Chúa Cha “cấp ngay cho (Ngài) hơn mười hai đạo binh thiên thần” để giải thoát Ngài. Nhưng! “như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được?”.

****

Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta nghe lại sự kiện Đức Giê-su bị bắt và cuộc xử án của Ngài. Những bài đọc trong Phụng Vụ có vẻ khá dài, dài như mười bốn chặng đàng Thánh Giá mà chúng ta sẽ nguyện ngắm vào thứ sáu Tuần Thánh.

Chúng ta là ai… là ai trong số những người hiện diện trước Hội Đồng Công Tọa và trước dinh quan tổng trấn Philato?

Chúng ta là ai? Vâng, về câu hỏi này, ngài Ron Rolheiser, OMI, trong bài “Viết lại cuộc xử án của chúng ta”, đã nhận xét: “Thánh Kinh tập trung rất nhiều vào cuộc xử án Ngài, mô tả dài và chi tiết. Và mô tả đó thật vô cùng sâu cay. Chúa Giêsu bị xử án, nhưng lại được viết ra như thể, tất cả mọi người đang bị xử án, chứ không phải Ngài”.

Vâng, không phải tự nhiên mà ngài Ron Rolheiser nhận định như thế. Tất cả mọi người (thời Đức Giê-su cũng như thời nay) đang bị xử án vì sự “lựa chọn” của mình.

Chúng ta hãy tự hỏi, người Do Thái khi lựa chọn tha Baraba là một kẻ giết người, sự lựa chọn đó có chính đáng không? Có chính đáng không?

Vâng, có lẽ câu trả lời của chúng ta nên là một câu hỏi. Hỏi rằng làm thế nào để mình không nằm trong danh sách “những người đang bị xử án”? Thưa, thật dễ dàng, chúng ta cần xem lại những “lựa chọn” trong cuộc đời mình.

Chúng ta hãy tự hỏi, trước một lựa chọn công bằng và bất công, lòng khoan dung và thói hung bạo, v.v… ta chọn điều gì? Chúng ta sẽ chọn “công bằng và khoan dung” hay chúng ta chọn “Baraba - biểu tượng của bất công và hung bạo”?

Chúng ta hãy tự hỏi, trước một lựa chọn “tổn thất kinh tế” và “tội ác chiến tranh” chúng ta chọn điều gì? Chúng ta sẽ chọn tổn thất kinh tế hay chúng ta chọn “Baraba - biểu tượng của tội ác chiến tranh”?

Rất buồn, khi ngày nay nhiều lãnh đạo trên thế giới, đặc biệt là một số lãnh đạo tại các nước Châu Âu, (một Châu Âu thờ phượng Chúa), họ lại “sợ tổn thất kinh tế hơn sợ tội ác chiến tranh”.

Vâng, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đã phát biểu như thế với các người đồng cấp ở Liên Minh Châu Âu, khi nghị viện Châu Âu không đồng thuận việc cấm vận khí đốt (vì sợ tổn thất kinh tế) đối với Nga Sô, là nước đã gây ra tội ác chiến tranh ở Bucha, một thành phố thuộc nước Ukraine.

Chúa Giêsu bị kết án tử hình. Vâng, chuyện đã xảy ra hơn hai ngàn năm. Và, thật đau lòng khi ngài Ron Rolheiser, nhận xét: “nhưng chẳng có nhiều thay đổi đâu. Chọn lựa của những người trong cuộc xử án và kết án Chúa Giêsu, cũng chính là những chọn lựa mà chúng ta đưa ra ngày hôm nay. Và gần như mọi ngày, chúng ta chẳng làm gì tốt đẹp hơn họ, vì, với sự mù quáng và tư lợi, chúng ta vẫn và quá thường xuyên, nói rằng: Dẫn hắn đi. Đóng đinh hắn vào thập giá! Thế đó”.

Ngài Ron Rolheiser có quyền nhận xét như thế. Nhưng ai cấm chúng ta thay đổi lời nhận xét này.

Chúng ta sẽ thay đổi, khi chúng ta chọn Thiên Chúa và không chọn tiền bạc, không chọn danh vọng, không chọn địa vị, không chọn quyền hành, không chọn quyền lực. Chúng ta sẽ thay đổi, khi chúng ta chọn sự thật và không chọn dối trá.

Nhớ! Đừng bao giờ “đu dây”. Đừng bao giờ “miệng nam mô bồ tát, bụng một bồ dao găm”.

Trong một xã hội ngày một tục hóa như hôm nay, để không bị “sa vào” những lựa chọn, những lựa chọn khiến chúng ta “bán Chúa… dẫn Chúa đi, đóng đinh Chúa vào thập giá”, không gì tốt hơn là chúng ta hãy ghi khắc trong con tim mình lời truyền dạy của Đức Giê-su, lời truyền dạy rằng: “Anh em hãy cầu nguyện… Dậy mà cầu nguyện” (x.Lc 22, …46).

Vâng, đừng bị mê hoặc trước những quyến rũ của trần gian. Đừng mê ngủ… Hãy “dậy mà cầu nguyện”.

Petrus.tran

Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...