Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2022

Đừng chờ cho năm tháng qua đi…

 “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”



Chúa Nhật – XVIII – TN – C

Đừng chờ cho năm tháng qua đi…

Cuộc sống của con người là một vòng tuần hoàn sinh-lão-bệnh-tử. Với vòng tuần hoàn này, có thể nói rằng, mốc “tử” là cái mốc buồn nhất. Tại sao! Thưa, nói tới “tử” không buồn sao được, vì lúc đó: “Sẽ lấy được những gì. Về bên kia thế giới. Ngoài trống vắng mà thôi…” (trích nhạc phẩm: Khúc Thụy Du – tác giả Anh Bằng).

Vâng, sẽ (chẳng) lấy được gì, đúng như lời Kinh Thánh có dạy: “Lọt lòng mẹ, trần truồng làm sao, thì cũng ra đi như vậy. Chịu đựng bao gian lao vất vả, để rồi chẳng mang theo được gì.” (x.Gv 5, 14).

Biết là chẳng mang theo được gì, thế nhưng, vẫn không ít người tham lam, thích “thu tích của cải cho mình”. Nói theo cách nói của tác giả sách Giảng Viên, đó là, vẫn không ít người: “thích tiền bạc có bao nhiêu cũng không lấy làm đủ”. (Gv 5, 9).

Là một Ki-tô hữu, chúng ta không quá buồn khi phải chạm “mốc tử”. Đức tin của người Ki-tô hữu không khuyến khích chúng ta tham lam, thu tích của cải. Đức Giê-su, khi còn tại thế, Ngài có lời truyền dạy, rằng: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33).

Đức Giê-su đã truyền dạy như thế. Giá trị và cứu cánh của cuộc sống không phải là tiền bạc, không phải là thu tích của cải, mà là Nước Thiên Chúa. Câu chuyện có một người xin Đức Giê-su đứng ra phân xử việc chia gia tài cho mình và Đức Giê-su đã từ chối, chính là một lời cảnh tỉnh, cảnh tỉnh cho những ai “tham lam”, chỉ nghĩ đến việc “thu tích của cải cho mình”. Câu chuyện này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca. (Lc 12, 13-21).

**

Câu chuyện được thánh Luca kể như sau: “Có người trong đám đông nói với Đức Giêsu rằng: Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi.”

Xin Thầy ư! Ơ hay! sao lại xin Thầy? Người cần đến để xin phải là một ông “luật sĩ” mới đúng chứ! Vâng, vào thời Đức Giê-su, người Do Thái thường yêu cầu một luật sĩ làm người phân xử khi có tranh chấp về luật pháp.

Hôm nay, lý do gì “người này” lại xin Đức Giê-su! Phải chăng, người này từng chứng kiến mấy thầy luật sĩ đã phải “xếp re” trước sự hùng biện của Ngài! Nay, nhờ Thầy Giê-su thì chắc-như-bắp, chăng! Vâng, chỉ là một vài suy luận của cá nhân người viết.

Mà, nếu những lý do nêu trên là đúng thì lại càng thêm buồn cho người này mà thôi. Rất buồn và rất thất vọng khi người này nhận được câu trả lời của Đức Giê-su. Hôm ấy, Thầy Giê-su đã nói với người này, rằng: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện, hay người chia gia tài cho anh?” (Lc 12,14).

Chúng ta thường nói “hỏi là trả lời”. Hôm ấy, Đức Giê-su đã trả lời người này bằng một câu hỏi. Câu hỏi này, không quá khó để nghiệm ra câu trả lời.

Bảo-anh-tôi-chia ư! Anh của bạn có phải là trưởng nam? Nếu là trưởng nam, hơi phiền đấy! Vâng, Lm Đan Vinh, trong bài viết “Tiền bạc: ông chủ hay đầy tớ”, có lời chia sẻ: “Luật Mô-sê qui định: trong việc thừa kế, chỉ con trai mới được chia gia tài. Trưởng nam được hưởng trọn phần di sản về bất động sản như đất đai nhà cửa, và còn được gấp đôi phần động sản như tiền bạc, hoa màu... nữa” (nguồn: VietCatholic News).

Sách Đệ nhị luật (Đnl 21, 15-17) có nói đến quyền trưởng nam. Nếu là trưởng nam: “chia cho nó hai phần sản nghiệp”. Đấy! Sách Đệ nhị luật “bảo” như thế đấy! Bạn là em, bạn được chia ít hơn, thế nên bạn kèn cựa ư! Nếu bạn kèn cựa… đừng… đừng để lòng tham của mình trổi dậy! Này, hãy nghe Thầy Giê-su nói: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (x.Lc 12, 15).

Này, hỡi những ai đang đau khổ vì sự thua thiệt trong việc chia gia tài, hôm nay! Quý bạn có hiểu lời Đức Giê-su đã truyền dạy không? Nếu chưa hiểu, mời quý bạn nghe lời Cô-he-lét nói: “Mọi sự đều đi về một nơi, mọi sự đều đến từ bụi đất, mọi sự đều trở về bụi đất” (Gv 3, 20).

Lời Cô-he-lét nói, nghe thấy ghê ghê, nhỉ! Chưa… chưa ghê lắm đâu, lời Đức Giê-su nói mới là ghê và phải “lạnh gáy”. Vâng, rất lạnh gáy khi chúng ta nghe Ngài kể tiếp một dụ ngôn, dụ ngôn nói về “người phú hộ thu tích của cải cho mình”.

Dụ ngôn được kể rằng, “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu!”.

Phải làm gì? Xây thêm kho bãi chứ còn làm gì nữa, ông phú hộ ạ! Đúng. Ông phú hộ đã: “Phá những cái kho kia đi (vừa cũ vừa nhỏ) xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải (của ông ta) vào đó”

Vâng, đó là một sự tính toán không sai. Kinh Thánh chẳng đã khen “Người khôn ngoan biết để dành” đó sao!

Thế nhưng, có một chút sai sai nhỏ, đó là nhà phú hộ kia, trước những thành tựu đạt được, lại dương dương tự đắc coi trời bằng vung, ông ta cho rằng, “mình bây giờ của cải ê hề, dư xài nhiều năm…” Dư-xài-nhiều-năm, do đó, ông ta ngạo mạn vung vít rằng, “Hồn ta hỡi… Thôi cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” Ông ta quên… quên mất rằng, “hồn-ta” liệu có mãi mãi được ở dương thế này để mà chơi-cho-đã!

Ai… ai đã “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”! Thưa, “Đấng ngự trên trời”.

Đấng ngự trên trời còn được gọi là “Gia Nghiệp đời ta” ông có biết không? Thế mà ông không chịu cất vào “kho lẫm hồn ta” thì thật là đáng tiếc thay!

Kinh Thánh có lời chép rằng: “Sự kiêu ngạo đi trước sự bại hoại theo sau”. Và điều bại hoại đã xảy ra, xảy ra khiến ông phú hộ bị Chúa gọi là “Đồ ngốc!” Ngốc ở chỗ nào! Thưa, ở chỗ, ngộ-nhỡ-nội-đêm-nay, “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”

***

Đừng… đừng vội càm ràm trách móc Thiên Chúa rằng thì-là-mà Người là một Thiên Chúa ghét kẻ giàu có.

Không, Thiên Chúa không chúc dữ người giàu có. Trái lại, giàu có là ơn phúc Thiên Chúa ban. Sách Sáng Thế Ký kể rằng, “ông I-xa-ác đã gieo vãi trong đất ấy, và năm đó ông thu hoạch gấp trăm lần, ĐỨC CHÚA đã chúc phúc cho ông, và ông trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu vô kể… khiến cho người Phi-li-tinh phải ghen tị”. Chưa hết, còn ông Gióp nữa. Ông ta được mệnh danh là người giàu có số một trong số các con cái Phương Đông (x.G 1, 2). 

Điều Đức Giê-su muốn truyền dạy, qua dụ ngôn này, đó là: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó”.

Vâng, lời Đức Giê-su truyền dạy là như thế. Thế nên, nên chăng chúng ta hãy tự hỏi mình rằng: chúng ta có phải là một tên ngốc không? Chúng ta có phải là đang lo “thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”?

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên Kinh Thánh có lời dạy, rằng: “đừng xòe tay ra nhận, rồi nắm lại khi phải cho đi” (Hc 4,31). Nhắc đến lời Kinh Thánh này để làm gì? Thưa, để chúng ta biết rằng, nếu chúng ta giàu có, “ê hề của cải, dư xài nhiều năm” thì hãy cho đi… cho bớt đi.

Lm. Giu-se Nguyễn Tiến Lộc, trong một bài giảng tĩnh tâm, có nói: “Nếu chúng ta có một món đồ cất trong tủ 5 năm không xài đến, hãy đem cho đi. Bởi vì nếu không cho đi, ngộ nhỡ… (lại ngộ nhỡ) Chúa gọi, thì sao! Chúng ta mất đi một cơ hội thực hiện công đức”.

Nếu chúng ta giàu có, chớ… chớ có “ngày ngày yến tiệc linh đình”, hãy tìm đến những ông “Lazaro nghèo khó” mà giúp đỡ, mà cho đi. Hãy nhớ, Kinh Thánh có lời dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận”.

“Cho thì có phúc hơn là nhận”, đó chính là “công thức”, công thức tốt nhất cho việc chúng ta xây cất một “kho lẫm đức mến” cho mình.

Có được một kho-lẫm-đức-mến, chúng ta hãy “tích trữ” vào đó “hoa mầu công đức”. Sao! Làm thế nào để có hoa mầu công đức ư! Thưa, rất giản dị. Chúng ta chỉ cần thực hiện, thực hiện những gì Giáo Hội đã truyền dạy, chúng ta sẽ có hoa-mầu-công-đức.

Vâng, Giáo Hội đã dạy rằng: Thương người có mười bốn mối. Thương xác bảy mối: “Thứ nhất, cho kẻ đói ăn. Thứ hai, cho kẻ khát uống. Thứ ba, cho kẻ rách rưới ăn mặc. Thứ bốn, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Thứ năm, cho khách đỗ nhà. Thứ sáu, chuộc kẻ làm tôi. Thứ bảy, chôn xác kẻ chết.”

Chưa hết… còn nữa. Thương linh hồn bảy mối: “Thứ nhất, lấy lời lành mà khuyên người. Thứ hai, mở dậy kẻ mê muội. Thứ ba, yên ủi kẻ âu lo. Thứ bốn, răn bảo kẻ có tội. Thứ năm, tha kẻ dể ta. Thứ sáu, nhịn kẻ mất lòng ta. Thứ bảy, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.”

Một khi kho-lẫm-đức-mến của chúng ta “ê hề” hoa-màu-công-đức, hãy tin, Thiên Chúa sẽ chẳng bao giờ nói với chúng ta là “đồ ngốc”. Một khi kho-lẫm-đức-mến của chúng ta “ê hề” hoa-mầu-công-đức, không ai có thể phủ nhận rằng, chúng ta đã và đang “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”.

Thế giới hôm nay, như chúng ta đã và đang thấy, nào là dịch bệnh, nào là chiến tranh. Cả hai… cả hai đang hùng hổ đe dọa nhân loại. Nói về dịch bệnh, chúng ta thấy đó “dịch chồng dịch”. Nói về chiến tranh, “ông nội Cain-Russia” nổi cơn lên bấm nút (mà ông này đã và vẫn đe dọa bấm nút), thế giới sẽ đi về đâu!

Vâng, phó thác cho Chúa thôi, phải không thưa quý vị! Điều chúng ta sợ, đó là sợ Chúa “bấm phone” gọi chúng ta. Ngộ nhỡ “nội đêm nay!” Vâng, nhỡ đêm nay chúng ta phải đứng trước mặt “thẩm phán Giêsu”.

Đúng, lúc đó Ngài sẽ là thẩm phán. Ngài sẽ phán xét chúng ta. Chúng ta sẽ được thừa hưởng gia tài là Nước Trời, hay chúng ta lại nằm trong số “người giàu có (bị) đuổi về tay trắng!” (x.Lc 1, 53).

Do vậy, điều cần thiết chúng ta nên làm ngay hôm nay, đó là hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Đừng… “Đừng chờ đến ngày tai ương ập tới, đừng chờ cho năm tháng qua đi…” (x.Gv 12, …1).

Petrus.tran

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2022

Hãy vui sống lời Kinh Lạy Cha…

 Vâng, có khác gì lời cầu nguyện Đức Giê-su đã dạy: “xin tha tội cho chúng con…”



Chúa Nhật – XVII – TN – C

Hãy vui sống lời Kinh Lạy Cha…

Như chúng ta được biết, để có người tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su đã tuyển chọn Mười Hai vị môn đệ. Tuyển chọn Mười Hai vị môn đệ, Đức Giê-su sai họ ra đi loan báo Tin Mừng. Sự ra đi của Nhóm Mười Hai đã đạt được thành quả nhất định. Những thành quả đó là: “Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm, và chữa họ khỏi bệnh” (x.Mc 6, 13).

Tuy nhiên, những thành quả (nêu trên) của các ông, không phải lúc nào cũng đạt được kết quả mỹ mãn. Chuyện được kể rằng: một lần nọ, một người kia có đứa con trai “bị quỷ ám”. Ông ta đã đem cháu bé đó đến gặp các môn đệ của Đức Giê-su “để (nhờ) họ trừ tên quỷ ấy”, thế nhưng, các môn đệ “không làm nổi”.

Các môn đệ không-làm-nổi, nhưng Đức Giê-su đã làm nổi. Hôm ấy, Ngài đã “quát mắng tên quỷ: ‘Thần câm điếc kia, Ta truyền cho ngươi: ra khỏi đứa bé và không được nhập vào nó nữa’ Quỷ thét lên, lay nó thật mạnh, rồi ra khỏi.”

Thế là, khi Thầy và trò về nhà, các ông mới hỏi riêng Ngài: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Tại sao ư! Thưa, hôm đó, Đức Giê-su trả lời rằng: “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi.”

Chỉ-có-cầu-nguyện... Vâng, đó là điều Đức Giê-su đã nói với các môn đệ của mình. Đức Giê-su không chỉ khuyến cáo các môn đệ phải cầu nguyện, mà có lần Ngài còn dạy các ông “cách cầu nguyện”. Sự kiện này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca. (x.Lc 11, 1-4).

**

Theo Tin Mừng thánh Luca ghi lại: “Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện (và khi) Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: Thưa Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông”.

Ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông. Mà, “chúng con…”, chẳng phải là trong chúng con cũng có người là môn đệ ông Gio-an! Thế thì, sao không cầu nguyện như ông Gio-an đã dạy, mà lại xin-Thầy-dạy! (Vâng, đây là một chút thắc mắc của người viết.)

Mà, không thắc mắc sao được! “Người trong nhóm môn đệ này” hẳn phải là người Do Thái. Và, đã là người Do Thái, hẳn anh ta phải được dạy cách cầu nguyện ngay từ thuở nhỏ theo đúng truyền thống chứ!

Với truyền thống Do Thái: “Cha mẹ Do Thái phải dạy con cái của họ về một số kinh cầu nguyện cơ bản. Phụ huynh Do Thái còn phải dạy những gì mà Kinh Torah cấm, khi con của họ còn trong tuổi thơ”, kia mà!

Hầu hết các tín hữu Do Thái đều biết cầu nguyện. Theo truyền thống, họ cầu nguyện ba lần mỗi ngày và bốn lần trong ngày lễ Sabát hoặc các ngày lễ quan trọng khác. Ngoài các buổi cầu nguyện chung, người tín hữu Do Thái còn cầu nguyện riêng và đọc kinh tạ ơn cho những sinh hoạt khác, trong ngày.

Thế thì, cớ gì người môn đệ này lại xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện? Thưa, thánh Luca không nói rõ lý do. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu cặn kẽ cách cầu nguyện của người Do Thái thời đó, chúng ta sẽ hiểu “vì cớ gì”.

Vâng, Do Thái giáo có nhiều hệ phái khác nhau và tùy theo mỗi hệ phái, cách thức cầu nguyện cũng khác nhau. Các khác biệt có thể kể đến như: “kinh đọc, mức độ thường xuyên của các buổi cầu nguyện, số lượng kinh cầu trong các buổi phụng vụ, cách sử dụng nhạc cụ và thánh ca, các lời kinh cầu theo ngôn ngữ tế lễ truyền thống hoặc tiếng địa phương” (nguồn: internet).

Và, Nhóm Mười Hai môn đệ là một tập hợp của nhiều vùng miền khác nhau, rất có thể, giữa các ông, với sự bảo thủ theo hệ phái, đã không có một sự thống nhất trong việc cầu nguyện.

Lại còn chuyện, sau nhiều lần chứng kiến hình ảnh Thầy-của-mình cầu nguyện với một tâm hồn ngây ngất hướng lòng lên Chúa Cha… Vâng, rất có thể hình ảnh linh thiêng đó đã in đậm vào tâm trí các ông với những câu hỏi “vì sao”?

Vì sao! Vì sao mỗi lần Thầy Giêsu cầu nguyện, trời và đất như có sự tâm giao? Vì sao chỉ một lời Thầy Giêsu cầu nguyện “thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người…” (Lc 3, 22).

Vì sao cứ hỏi vì sao! Vì sao cứ hỏi “vì sao trên trời”, hay sao! Thế nên, gộp hết tất cả lý do nêu trên, hôm ấy có một-người-trong-nhóm-môn-đệ đã đến với Thầy Giê-su ngỏ lời thỉnh cầu với tất cả lòng mong ước: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con… cầu nguyện.”, thì cũng không có gì phải thắc mắc.

Mà, thật vậy. Hôm ấy, Đức Giê-su đã chăm chú lắng nghe lời thỉnh cầu của người môn đệ, và Ngài không một chút thắc mắc. Ngài đã bảo với người môn đệ đó rằng: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển. Triều đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con xa chước cám dỗ” (x.Lc 11, 2-4).

***

“Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển… và xin đừng để chúng con xa chước cám dỗ”. Vâng, đó là nội dung lời kinh cầu nguyện Đức Giê-su đã dạy cho các môn đệ của mình. 

Thế còn lời kinh cầu nguyện do ông “Gio-an tu rừng” đã dạy cho các môn đệ của ông nội dung như thế nào, nhỉ! Thưa, chúng ta không biết vì không có một ai ghi lại. Không ai ghi lại, nhưng rất có thể những lời kinh nguyện đó đã được ngài Gio-an Tẩy Giả lấy nguồn cảm hứng từ sách Thánh Vịnh chăng!

Tưởng chúng ta nên biết, đối với Do Thái giáo “Một trăm năm mươi (150) Thánh Vịnh là các tuyển tập thánh ca của Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Các Thánh Vịnh đã từng nuôi dưỡng lòng đạo của người Do Thái, đã từng là lời cầu nguyện của Chúa Giê-su.”

Chưa hết, ngày nay “Thánh Vịnh còn là thành phần căn bản của ‘Các Giờ Kinh Phụng Vụ’ mà biết bao tu sĩ nam sữ, linh mục và phó tế, và cả người giáo dân nữa, đang cầu nguyện hằng ngày. Chúng ta sẽ ngỡ ngàng khi đọc Thánh Vịnh và khám phá ra những khát vọng sâu thẳm của lòng mình nơi những lời kinh này.” (nguồn: internet).

Thì đây, chúng ta hãy nghe, hãy đọc Thánh Vịnh 51 (50). Hãy nghe và hãy đọc để thấy rằng đây là những lời cầu nguyện không thể không có trong đời sống đức tin của mình. “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm… tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.” (c. 3-4)

Vâng, có khác gì lời cầu nguyện Đức Giê-su đã dạy: “xin tha tội cho chúng con…”

Thế nên, nghĩ rằng bài cầu nguyện mà ngài Gio-an Tẩy Giả “đã dạy môn đệ của ông” lấy nguồn cảm hứng từ Thánh Vịnh, có gì là sai trái, nhỉ!

Một ngày nọ, Đức Giê-su có nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5, 17).

Kiện toàn như thế nào? Thưa, chúng ta cùng xem Đức Giê-su kiện toàn qua lời tuyên phán: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (x.Mt 5, 43-45).

Không chỉ kiện toàn lề Luật, Đức Giê-su còn kiện toàn lời cầu nguyện. Qua bài cầu nguyện (kinh Lạy Cha), Đức Giêsu đã cho các môn đệ biết rằng, Thiên Chúa không phải là một “ông thần” xa lạ và ngăn cách, nhưng là một Thiên Chúa rất gần gũi với con người, một Thiên Chúa là “Cha”, một người Cha không còn bị ngăn cách bởi “các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe”, nhưng là một người Cha sẵn sàng ban cho những ai đến “cầu xin”, sẵn sàng tiếp đón những ai đến “tìm” và sẵn sàng tiếp nhận những ai đến “gõ cửa”.

Thật vậy, Đức Giê-su đã có lời tuyên phán: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9-10).

Và, như một cách nhấn mạnh cho lời tuyên phán, Đức Giê-su đã làm một so sánh rất thực tế vẫn xảy ra trong đời thường. Hôm ấy, Ngài nói: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11, 11-13).

Vâng, một bài cầu nguyện với lời khấn nguyện “tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”… ai… ai dám phủ nhận đây là một bài cầu nguyện kiện toàn, từ trước tới giờ và từ giờ về sau, không thể có được!

****

“Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Vâng, hôm nay chúng ta cũng được Đức Giê-su, qua Giáo Hội, dạy lời kinh nguyện mẫu mực này.

Sẽ không thể là một người Kitô hữu đúng nghĩa, nếu một ai đó trong chúng ta không biết, không thuộc bài kinh cầu nguyện này. Vâng, có hạnh phúc không khi đọc bài kinh cầu nguyện này, chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Abba – Cha ơi”!

Nói về hạnh phúc được gọi Thiên Chúa là “Abba – Cha ơi”, Lm. Charles E.Miller có lời chia sẻ: “Anh chị em hãy nghĩ đến sự khác biệt giữa lời cầu xin của ông Apraham và Đức Giê-su. Với tư cách là tổ phụ dân được tuyển chọn và là tổ phụ của chúng ta trong đức tin, ông đánh bạo đến gần ĐỨC CHÚA và nài xin Người dung thứ cho dân hai thành sa đọa là Sô-đôm và Gô-mô-ra. Ông cả gan mặc cả với ĐỨC CHÚA, song vẫn không dám xưng hô với Người theo cách Đức Giê-su (đã xưng hô). Có lẽ ông cho là phạm thượng nếu mở miệng nói với Thiên Chúa: ‘Thôi nào, bố! Xin bố thông cảm mà nhẹ tay cho Sô-đôm và Gô-mô-ra’. Không ai dám gọi Thiên Chúa “’là Abba, là bố’, ngoại trừ một Đấng: Đức Giê-su”.

Cũng liên quan đến việc gọi Thiên Chúa là “Abba – Cha ơi”, thánh Phao-lô có lời truyền dạy: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi! Vậy anh em không còn là nô lệ nữa, mà là con…” (Cl 4, 6-7).

Là con. Là con cái của Thiên Chúa, và đó là lý do chúng ta hãy “ghi khắc” bài kinh cầu nguyện này (kinh Lạy Cha) vào trong con tim của mình. Đừng quên rằng, khi đọc Kinh Lạy Cha dù là ở “tư thế đứng, có lúc dang tay ra, có lúc ngước mắt lên trời, có lúc nắm tay người bên cạnh… bất luận tư thế hay cử chỉ của chúng ta là thế nào trong lúc đọc kinh Lạy Cha, anh em phải nhận ra mình được diễm phúc biết bao khi xưng hô với Thiên Chúa, theo cách của Chúa Giêsu (đã xưng hô trong vườn cây dầu) khi gọi Thiên Chúa là “Abba, Lạy Cha”. (trích lời giảng của Lm Charles E. Miller).

“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen”.

Hãy nhớ, mỗi khi đọc bài kinh cầu nguyện này, đừng đọc như một “con vẹt”, như là để “trả bài” trước mặt Thiên Chúa. Đọc như thế, có thể nói rằng, chúng ta đang biến mình thành “cái máy cassette tụng kinh”, đọc như thế có khác nào “lải nhải như dân ngoại, họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời”.

Đức Giêsu nói: “Đừng bắt chước họ”. (Mt 6, 8). Đúng, đừng đọc kinh như thế. Đọc như thế, dù chúng ta đọc hàng triệu lần, thì cũng chỉ như: “Dã tràng se cát biển đông. Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Nói, theo cách nói nhà đạo, “chẳng sinh ơn ích gì”.

Khi đọc kinh, những bài kinh mẫu, Giáo Hội dạy rằng: “miệng đọc lòng suy”. Cũng đừng quên lời thánh Phaolô dặn dò rằng, hãy đem tất cả tâm tình của một người con trải-lòng-ra “cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều (chúng ta) thỉnh nguyện” (Pl 4, 6).

Một khi chúng ta đọc kinh nguyện với một tâm tình như thế, hãy tin, không có lý do gì Cha-chúng-ta-là-Đấng-ở-trên-trời, lại không nhậm lời, và như lời Đức Giêsu đã nói: “Lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”

Đức Giê-su đã có lời phán hứa như thế. Tuy nhiên, muốn lời phán hứa này trở thành hiện thực, ngoài việc phải đọc trong tâm tình sốt mến, chúng ta còn phải sống một đời sống trọn vẹn lời kinh Lạy Cha. 

Sống trọn lời kinh Lạy Cha, Lm Antôn Nguyễn Trường Thăng, đã chia sẻ niềm tin của ngài về lối sống này, rằng: “Họ đã bước một chân vào Thiên Đàng, không phải sau khi lâm tử mà ngay ngày hôm nay, trên cõi hồng trần này.” Cuối cùng, ngài Lm An-tôn có lời kết luận: “Phúc cho ai tin vào Thiên Chúa và vui sống lời kinh Lạy Cha. Amen”.

Đúng. Đúng là phúc. Vì vui sống lời kinh Lạy Cha, cũng lời Lm. An-tôn Trường Thăng nói: “chính là chúng ta sống trọn vẹn tám mối phúc thật”. Mà, sống trọn vẹn tám-mối-phúc-thật thì sao nhỉ! Thưa, Đức Giê-su nói: “Nước Trời là của họ”.

Nước Trời là của tôi, của anh, của chị, của chúng ta. Thế thì, thì sao nhỉ! Thưa, hãy đến bên Thánh Giá Đức Giê-su, và xin Ngài dạy, không phải là dạy Kinh Lạy Cha, nhưng là dạy… là truyền dạy chúng ta: “Hãy vui sống lời Kinh Lạy Cha”.

Vâng, hôm nay, chúng ta không chỉ đọc Kinh Lạy Cha, nhưng còn phải “Hãy vui sống lời Kinh Lạy Cha”.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2022

Hãy đặt Chúa lên trên hết mọi sự

 Hôm ấy, Đức Giêsu nói với cô Mác-ta rằng, Maria – cô em gái của nàng, “đã chọn phần tốt nhất”. Phần-tốt-nhất “và sẽ không bị lấy đi” (x.Lc 10, 42).



Chúa Nhật – XVI – TN – C

Hãy đặt Chúa lên trên hết mọi sự

Hiếu khách là gì? Thưa, theo định nghĩa thông thường, hiếu khách có nghĩa là chào đón một cách thân thiện với một người bạn hoặc một người khách dù thân hay sơ, khi gặp nhau. Và, nói tới việc chào đón thân thiện, thì cứ sự thường, đó là chúng ta sẽ nghĩ đến một bữa ăn thịnh soạn, được chuẩn bị một cách chu đáo mỗi khi có khách đến nhà mình.

Mà, thật vậy. Đối với người Việt Nam, lòng hiếu khách được thể hiệu rất nhiệt tình, “khách đến nhà không gà cũng vịt”. Có khách đến nhà, quen hay lạ, thân hay sơ, chủ nhà dù nghèo khó cũng tiếp đón chu đáo và tiếp đãi một cách thịnh tình, với quan niệm, đói năm chứ không đói bữa.

Cô Sato Kumi, một chuyên gia giảng dạy về Service Mindset, nói: “Lòng hiếu khách là nhất kỳ nhất hội - đời người chỉ gặp một lần. Điều hạnh phúc là bản thân làm cho ai việc gì đó và mong muốn sẽ lan tỏa được cảm giác hạnh phúc ấy. Mọi khoảnh khắc, mọi cuộc gặp gỡ của chúng ta với một ai đó đều chỉ có một lần, đều đáng quý, bởi nó không bao giờ lặp lại. Vì vậy, chúng ta nên trân trọng cuộc gặp gỡ ấy, đối xử với người đó bằng tấm lòng chân thành để về sau không phải tiếc nuối.” (nguồn: internet).

Kinh Thánh cũng có lời khuyên: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13, 2).

Thế nên, là một Ki-tô hữu, chúng ta cần phải tỏ lòng hiếu khách. Vâng, đừng ngần ngại. Đừng ngần ngại vì phải chuẩn bị những bữa ăn công phu, hoặc việc không quen nấu nướng, v.v… Đừng ngần ngại, bởi đôi khi, việc tiếp đón khách đến nhà không nhất thiết phải là một bữa ăn, một mâm cỗ thịnh soạn, mà chỉ cần… chỉ cần “ta với ta”.

Vâng, chỉ cần ta-với-ta như lời nhà thơ Nguyễn Khuyến đã tâm sự, tâm sự trong một dịp “Bạn đến chơi nhà”. Trong một dịp bạn đến nhà chơi, ông ta đã tâm sự, rằng: “Đã bấy lâu nay bác tới nhà, Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Ao sâu nước cả, khôn chài cá; Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà. Cải chửa ra cây, cà mới nụ; Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Đầu trò tiếp khách, trầu không có, Bác đến chơi đây, ta với ta”.

Chỉ là ta-với-ta, đâu cần “lòng gà xào mướp”, ấy thế mà lòng hiếu khách của cụ Tam nguyên Yên Đỗ lại được biết bao người đời sau, trân trọng.

Đức Giê-su, trong những ngày còn tại thế, Ngài cũng đã hơn một lần khen ngợi cung cách hiếu khách theo kiểu ta-với-ta của cụ Nguyễn Khuyến. Và, Ngài đã gọi đó là cách thể hiện lòng hiếu khách “tốt nhất”. Sự kiện này xảy ra trong một lần Đức Giê-su được cô Mác-ta mời Ngài đến nhà cô ấy, và câu chuyện đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca.

**

Theo lời thánh Luca kể: Hôm ấy, trong khi Đức Giêsu cùng các môn đệ đang chuẩn bị “vào làng kia”, thì bỗng nhiên, có một người phụ nữ tên là Mác-ta tiến đến. Cô ta ngỏ ý mời “Người vào nhà”.

Cô Mác-ta… Vâng, cô ta là chị của cô Maria và ông Lagiarô, cư ngụ ở Bêtania. Và hôm nay, việc cô Mác-ta mời Đức Giêsu vào nhà mình cứ tưởng rằng sẽ đem lại cho cô ta niềm vui và hạnh phúc.

Thế nhưng, thực tế lại không phải là như thế. Niềm vui Đức Giê-su đến và hạnh phúc được phục vụ Ngài đã biến cô Mác-ta cứ như một con rối.

Cô Mác-ta đã “rối” lên vì việc chỉ một mình cô “tất bật lo việc phục vụ”. Nào có phải chỉ một Thầy Giêsu đâu! Còn đó là cả những người môn đệ của Ngài nữa, mười hai người… chứ ít gì đâu! Vâng, quả là một gánh quá nặng, thế mà cái con bé Maria lại cứ thản nhiên “ngồi bên chân Chúa…”

Mệt, chắc hẳn là thế, thế nên cô Mác-ta đến bên Đức Giêsu than thở: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao?”. Đáng tiếc thay! Lời cầu cứu của Mác-ta không được đáp ứng. Trái lại, nó bộc lộ nơi cô nàng một sự mệt mỏi, nản lòng, nếu không muốn nói là hờn dỗi.

Vâng, chúng ta có thể tưởng tượng, cô Mác-ta khi đó đã hờn dỗi cất tiếng ca, ca rằng: “Ta còn biết làm gì khi thân ta mệt nhoài. Mong sao trời đừng sớm nắng chiều mưa…” (trích nhạc phẩm: hờn dỗi).

“Mác-ta! Mác-ta ơi!” Ừ, cô cứ hờn dỗi đi… Sự thăm viếng của Thầy Giê-su trở thành gánh nặng cho cô sao! Để tỏ lòng hiếu khách, hà tất phải mân cao cỗ đầy!

Nhìn kìa! hãy nhìn ông Dakêu, khi được Đức Giêsu thổ lộ rằng “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”, đâu thấy ông ta “tất bật” lo việc cơm nước cho Đức Giêsu! Trái lại, Dakêu vẫn có thể tỏ lòng hiếu khách của mình thật chân tình chỉ bằng những giây phút “ta với ta” bên Ngài.

Ấy vậy mà, qua những giây phút tâm tình đó, Đức Giêsu không chút phàn nàn về ông ta, trái lại, Ngài nói với Dakêu rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (x. Lc 19, 9).

“Mác-ta! Mác-ta ơi!” Không phải Thầy không thấy Mác-ta “đầu tắt mặt tối”. Không phải Thầy muốn “đì” Mác-ta nên không quan tâm đến lời yêu cầu của cô. Bảo em Maria giúp một tay ư! Ai lại làm thế! Em nó đang “ngồi bên chân Chúa”, em nó cũng đang tỏ lòng hiếu khách với Thầy bằng cách ngồi bên Thầy tâm tình “ta với ta”, kia mà!

Hôm ấy, Đức Giêsu nói với cô Mác-ta rằng, Maria – cô em gái của nàng, “đã chọn phần tốt nhất”. Phần-tốt-nhất “và sẽ không bị lấy đi” (x.Lc 10, 42).

***

Câu chuyện đã xảy ra hơn hai ngàn năm. Thế nhưng, dường như ở đâu đó, trong gia đình, trong giáo xứ, v.v… vẫn còn xảy ra hiện tượng Mác-ta. Vẫn còn đó trong cộng đoàn một số cô Mác-ta “đầu tắt mặt tối” quét dọn nhà thờ, trong khi đó một số quý cô khác, tay cầm chổi nhưng miệng lại “tám chín” lung tung… Đây là chuyện “có thật”. Và, một số cô Mác-ta đã nản lòng, không tham gia vào việc quét dọn nhà thờ nữa.

Vâng, nếu chúng ta là một Mác-ta, đừng nghĩ rằng Đức Giê-su coi thường sự phục vụ. Chính Ngài đã nói “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 43).

Nếu chúng ta là một Mác-ta ư! Hãy “tiếp đón nhau mà không lẩm bẩm kêu ca” (x.1Pr 4, 9), thì mới thực sự là “đầy tớ mọi người”, đúng như lời truyền dạy của Đức Giê-su, được nêu trên.

Nếu chúng ta là một Mác-ta ư! Tốt, bởi vì xã hội hôm nay vẫn cần rất nhiều Mác-ta. Nói rõ hơn, cần rất nhiều người phục vụ. Nếu người viết không lầm, cô Mác-ta đã được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu bếp.

Nếu chúng ta là một Mác-ta ư! Đừng để bị quá tải. Bởi nếu bị quá tải, thánh Bênêđictô, (không phải ĐTC Bênêđictô XVI nha!), có lời chia sẻ rằng: “bị quá tải thường dẫn đến sự chai đá của con tim, tinh thần bị thương tổn, trí khôn bị mất và ơn Chúa bị phân tán.” (nguồn: internet).

Quý bà, quý chị em và những ai xung phong là người phục vụ nhớ kỹ lời khuyên này nhé! Ơn-Chúa-bị-phân-tán sẽ dẫn đến nổi cáu, bực tức, càm ràm, v.v… và như thế sẽ làm cho sự phục vụ của mình mất đi ý nghĩa, phải không, thưa quý vị!

Nói về cô Mác-ta rồi. Bây giờ chúng ta trở lại với cô Maria. Thánh sử Luca cho biết, “Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”.

Đức Giê-su đã dạy điều gì cho cô Maria? Thưa, thánh Luca không ghi lại. Tuy nhiên, qua cách diễn tả tư thế “ngồi bên chân Chúa” của cô Maria, thánh sử muốn nói với mọi người rằng, cô ta đang ngồi trong tư thế của một người môn đệ lắng nghe lời dạy dỗ và sẵn sàng đón nhận lệnh truyền của Thầy mình.

Khởi đầu cho sứ vụ loan báo Tin Mừng, trải qua bốn mươi ngày trong hoang địa, bị Satan cám dỗ về miếng ăn, Đức Giê-su nói “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”.

Chưa hết. Vào một lần nọ, Đức Giê-su có lời phán truyền: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người…”

Vâng, dựa vào hai lời phán truyền nêu trên, chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Giê-su, nhân cơ hội này, đã “dạy” cô Maria biết đến tầm quan trọng của việc "sống bằng lời Thiên Chúa phán" và về những gì có liên quan đến Nước Trời.

Mà, nói đến Nước Trời thì sao nhỉ! Thưa, Đức Giê-su có nói, đó là nơi con người “được ngang hàng với các thiên thần”. (x.Lc 20, 36). Được ngang-hàng-với-các-thiên-thần thì còn cần gì phải nghĩ đến việc ăn, việc uống v.v… cần gì phải “băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá” như cô Mác-ta! Thế nên, nói cô Maria đã “chọn phần tốt nhất” đúng thôi.

****

Hai chị em cô Mác-ta và Maria đã có một sự lựa chọn. Một người phục vụ và một người ngồi bên chân Chúa. Với chúng ta hôm nay, chúng ta cũng có một lựa chọn! Có khó quá không?

Vâng, trước khi lựa chọn, tưởng chúng ta cũng nên biết “ngồi bên chân Chúa”, theo ý nghĩa của hôm nay nghĩa là gì.

Ngồi-bên-chân-Chúa nghĩa là gì? Thưa, Lm Charles E. Miller chia sẻ rằng: “Theo một ý nghĩa thẳm sâu, anh chị em phải hiểu rằng, trong thánh lễ, chúng ta cũng ngồi bên chân Chúa Giêsu ở phần phụng vụ Lời Chúa. Công Đồng Vatican II đã dạy rằng: Chúa Kitô hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong nhà thờ” (Hiến chế về Phụng vụ Thánh, số 7).

Đó là sự khác biệt về việc “ngồi bên chân Chúa” giữa cô Maria xưa và chúng ta hôm nay. Một sự khác biệt nữa, của hôm nay, đó là Chúa Giê-su là người phục vụ chúng ta, chứ không phải chúng ta là người phục vụ Chúa.

Thật vậy, tiếp tục lời chia sẻ, Lm Charles E. Miller cho biết “nơi bàn tiệc Thánh Thể, Chúa Giêsu phục vụ chúng ta ‘Mình và Máu Đức Kitô’, không phải do Macta dọn ra mà do chính Người dọn ra”.

Và đó là lý do, chúng ta chẳng có gì để lựa chọn. Chẳng có gì lựa chọn giữa việc làm của cô Mác-ta và việc làm của cô Maria. Nói như thế để chúng ta hiểu rằng, đó là chúng ta phải làm cả hai công việc: Phải quân bình giữa sự phục vụ cũng như việc ngồi bên chân Chúa.

Về điều này, một nhà truyền giáo có lời chia sẻ, rằng: “Đức Giê-su dạy chúng ta cần quân bình giữa thời gian phục vụ và thời gian thờ phượng (đi nhà thờ, lắng nghe tiếng Chúa - học Lời Chúa, và cầu nguyện). Nếu không thờ phượng, sự phục vụ của chúng ta sẽ trở nên khô cứng, vô quyền.”

Đúng, nhiều tổ chức xã hội (xin miễn nêu tên, nha!) phục vụ người dân trong dịch Covid 19 vừa qua, đã bị rất nhiều lời than vãn, thậm chí rủa xả trên cộng đồng mạng cũng chỉ vì “khô cứng… vô nhân”.

Trở lại với nhà truyền giáo. Ông ta chia sẻ tiếp: “Nếu chỉ thờ phượng mà không phục vụ Đức Chúa Trời và đi ra để phục vụ người khác, đức tin chúng ta trở thành đức tin chết (x.Gc 2, 17)”.

Cuối cùng nhà truyền giáo kết luận: “Tuy nhiên, cần nhớ rằng Lời Chúa phải luôn là nền tảng của chúng ta trong sự thờ phượng và phục vụ.”

Lời chia sẻ của nhà truyền giáo rất hợp với lời Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã khuyên, ngài khuyên rằng: “Hãy đặt Chúa lên trên việc-của-Chúa.”

“Mác-ta ơi! Mác-ta ơi! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.” Đức Giê-su cũng sẽ nói với chúng ta như thế? Đúng, Ngài sẽ nói, nhưng sẽ nói khác hơn một chút, đó là: “Con ơi! Con ơi! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Hãy đặt Chúa lên trên hết mọi sự.”

Vâng, với chúng ta hôm nay, chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, đó là: “Hãy đặt Chúa lên trên hết mọi sự.”

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...