Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2024

Giêsu - nhựa sống đời ta.

 “Thầy là cây nho thật. Và Cha Thầy là người trồng nho.”

CN – V – PS – B
Giêsu - nhựa sống đời ta

tbd 270424a


Như chúng ta được biết, vào sáng thứ Tư 4/10/2023, Hội Thánh Công Giáo đã khai mạc Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ 16, tại Vatican. Chủ đề của Thượng Hội đồng là “Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ”.

“Hiệp hành là gì?” Thưa, theo lời giải thích của Đức TGM Giuse Nguyễn Năng, thì: “Hiệp hành có nghĩa là cùng nhau bước đi. Cùng nhau bước đi trên một con đường.”

Sau lời giải thích này, ngài TGM Giu-se nói tiếp: “Đức Thánh Cha Phan-xi-cô mời gọi chúng ta xây dựng một Hội Thánh cùng nhau dấn bước… Trước hết là trong nội bộ Hội Thánh của chúng ta. Tất cả chúng ta, từ linh mục, tu sĩ, giáo dân cùng đi trên con đường, cùng hiệp thông với nhau, cùng tích cực chu toàn sứ vụ trong Hội Thánh. Đừng an phận lo lắng việc đời mà hãy tỉnh thức cầu nguyện và dấn thân. Đó là một Hội Thánh hiệp hành.

Hội Thánh hiệp hành còn có nghĩa là một Hội Thánh lên đường, đi đến gặp gỡ anh chị em chúng ta, những người đang sống trong sự đau khổ, để lắng nghe và phân định, để giúp anh chị em chúng ta có được ánh sáng của Chúa và có được sự sống của Chúa.”
Tiếp đến, ngài TGM Nguyễn Năng có lời nhắc nhở, rằng: “Hiệp hành là một từ ngữ mới, có lẽ chúng ta nghe lạ tai, nhưng mà nó cũng dễ hiểu thôi. Là cùng đi với nhau trên một con đường. Giống như người ta nói hiệp thương, là cùng nhau ngồi thương thảo, thảo luận. Hiệp ước là cùng ngồi để giao ước, ước định với nhau, v.v…”

Cuối cùng, ngài TGM Nguyễn Năng kết luận: “Chúng ta hãy nhớ lại trong Tin Mừng. Có một câu chuyện nói về hiệp hành hết sức quan trọng và ý nghĩa. Chính Chúa Giê-su là người đầu tiên đã hiệp hành với các môn đệ.”

Câu chuyện trong Tin Mừng ngài TGM khuyên chúng ta “hãy nhớ”, đó chính là câu chuyện “Đức Giê-su hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau”. Vâng, câu chuyện cho chúng ta thấy Chúa Giê-su đã hiệp hành với hai vị môn đệ. Trên con đường hiệp hành đó, Chúa Giê-su đã xóa tan sự buồn bã, nỗi lo âu và thất vọng của hai ông. Chúa Giê-su đã dùng Lời Chúa để soi sáng, để phân định đâu là kế hoạch của Thiên Chúa. Cuối cùng, Ngài kết hợp mật thiết với hai vị trong nghi thức “bẻ bánh”.

Thánh sử Luca đã ghi lại rằng: “Khi đồng bàn với (hai môn đệ), Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra, trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người…”

“Hãy nhớ”. TGM Nguyễn Năng bảo chúng ta hãy nhớ. Vâng, chúng ta… chúng ta không chỉ nhớ mà còn xem câu chuyện này như là một lời truyền dạy rằng, để có được “Một Hội Thánh hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ” trọn hảo, trước hết và trên hết, đó là: mỗi chúng ta hãy hiệp hành với Chúa Giê-su. Trên con đường hiệp hành đó, còn phải kết hợp mật thiết với Ngài “như chim liền cánh, như cây liền cành.”

Không thể coi thường sự vic này. Chính Đức Giê-su, trong những ngày còn tại thế, qua một ẩn dụ mà Ngài đã nói đến, nó như là một lời truyền dạy về tính kết hợp mật thiết giữa Ngài và các môn đệ. Ẩn dụ này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an với tiêu đề “Cây nho thật”.

**  
Theo Tin Mừng thánh Gio-an ghi lại, hôm ấy Đức Giê-su đã nói với các môn đệ rằng: “Thầy là cây nho thật. Và Cha Thầy là người trồng nho.”

Đây không phải là một lời giới thiệu về một trang trại trồng nho nào đó, mà Đức Giê-su muốn quảng bá cho các môn đệ. Nhưng đây là một tiền đề để dẫn đến một chân lý, một chân lý Ngài muốn gửi đến các môn đệ của mình, năm xưa (và cũng là cho chúng ta, hôm nay).

Chân lý mà Đức Giê-su muốn các môn đệ của mình biết, đó là: “Thầy là cây nho, anh em là cành…” Tính kết hợp mật thiết giữa Thầy và trò, Đức Giê-su nói: “Cành (phải) gắn liền với cây”.

Như một định luật tự nhiên, Đức Giê-su nói tiếp: “Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người sẽ chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người sẽ cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.”

Là dân tộc Do Thái, một dân tộc có một đời sống gắn liền với cây nho, có phần chắc các môn đệ hiểu rất rõ, rất rõ những lời phán truyền, của Thầy mình.

Thế nên, khi Đức Giê-su tuyên bố: “Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa kết trái, nếu không gắn liền với cây nho”, Ngài đã không cần dài dòng giải thích, mà đã đi thẳng vào vấn đề, rằng: “anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.” (x.Ga 15, 4).

 Có thể nói, ẩn dụ “cây nho thật” chính là một bản tình ca, bản tình ca hiệp thông mà Đức Giê-su muốn gửi đến cho các môn đệ là những người đang “hiệp hành” với Ngài. Có lời lẽ nào đậm tính kết hợp mật thiết hơn lời lẽ mời gọi này: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em.”

Và đây, và đây là một lời nhắn nhủ ngọt ngào của Đấng “đến để chiên được sống và sống dồi dào”. Vâng, Đức Giê-su đã có lời nhắn nhủ, rằng: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được.” (x.Ga 15, 5).

Có thể nói, đây là một lời nhắn nhủ hết sức quan trọng, hết sức quan trọng cho những ai muốn được Đức Giê-su cùng hiệp hành với mình, như Ngài đã hiệp hành với hai người môn đệ trên đường Em-mau, năm xưa.

Tiếp theo lời nhắn nhủ, Đức Giê-su có lời khuyến cáo: “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ bị khô héo. Người ta nhặt lấy, và quăng vào lửa cho nó cháy đi.”

Rất, rất chí tình cho một lời nhắn nhủ cuối cùng. Hôm ấy, Đức Giê-su nói rõ ràng rằng: “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.” (x.Ga 15, 7-8).

***
Vâng, hôm nay Đức Giê-su vẫn tiếp tục hiệp hành với mỗi chúng ta. Dù đó chỉ là một sự tình cờ, như Ngài đã tình cờ hiệp hành với hai người môn đệ trên đường Em-mau, năm xưa. Ngài cũng sẽ kết hiệp mật thiết với chúng ta, khi chúng ta cùng Ngài tham dự “Tiệc Thánh Thể”.

Điều còn lại, đó là: chúng ta có vui mừng khi Đức Giê-su “tiến đến gần và cùng đi với chúng ta” hay không? Mỗi Chúa Nhật, chúng ta có “đến nhà thờ tham dự thánh lễ, để thắt chặt mối liên kết mật thiết giữa chúng ta với Đức Ki-tô”, qua việc tham dự Bàn Tiệc Thánh” hay không?”

“Chúa mời gọi tất cả Kitô hữu hãy sống thân mật với Chúa.” Lm Trần Văn Kiểm, trong bài viết với tiêu đề “Thầy là cây nho”, đã có lời như thế.

Rất sâu sắc và rất đáng để chúng ta ghi khắc trong con tim mình, khi ngài Lm có thêm lời chia sẻ, rằng: “Hãy để dòng sông sự sống của Chúa chảy vào tâm hồn của chúng ta, từ Chúa Cha, qua Chúa Con là Chúa Giêsu Kitô, đến với chúng ta trong sự tác động của Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần. Ai kết hợp với Chúa Giêsu Kitô thì ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.”

Cuối cùng, Lm. kết luận: “Trong thế giới phù vân hư ảo ngày hôm nay, người ta đi tìm nhiều thứ ‘nhựa sống’ cho cuộc đời của mình. (Và) ‘Tiền’ có lẽ là ưu tiên số một. (Rồi) ‘Tình’ đối với nhiều người là điều không thể thiếu… Và còn bao nhiêu thứ khác mà người ta theo đuổi. Những thứ ‘nhựa sống’ đó, không thể ngạt ngào thơm ngát như nhựa sống của ‘Chúa là cây nho’ ban cho chúng ta: Nhựa sống tinh tuyền và vĩnh cửu.” (nguồn: internet).

Mà, đúng vậy. Những ngày tháng vừa qua, có không ít người (không tiện nêu tên ở đây) đi tìm “nhựa sống” do thế gian cung cấp, (đại loại như: lừa đảo, làm ăn gian dối, tham nhũng v.v…), cho cuộc đời mình. Nhưng than ôi! Đúng là những thứ nhựa sống đó  không-thể-ngạt-ngào-thơm-ngát như nhựa sống của “Chúa là cây nho” ban cho, trái lại nó có mùi “thần chết”. Chúng ta biết rồi!

*****
Trước một xã hội đang cổ võ cho một lối sống thiên về vật chất (nhựa sống thế gian), con người như càng ngày càng mất định hướng cho cuộc đời của mình, con người dường như luôn sống trong trạng thái đứng núi này trông núi nọ, mất phương hướng, trầm cảm và cuối cùng là tự tử.

Để không bị rơi vào thảm cảnh này, không có con đường nào khác ngoài con đường đến với Đức Giê-su, bởi vì Ngài chính là: “…đường, là sự thật và là sự sống”, và rằng “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”.

Vâng, chỉ có một phương pháp duy nhất, đó là hãy hiệp hành cùng Đức Giê-su, qua Thánh Kinh (Lời Chúa) và hãy kết hiệp mật thiết với Ngài, qua Bàn Tiệc Thánh.

Nơi Bàn Tiệc Thánh, chúng ta sẽ được Đức Giê-su – Cây Nho Thật, ban cho chúng ta một thứ “nhựa”, nhựa Mình-Máu-Thánh-Ngài, đem lại cho chúng ta sự sống đời đời. (x.Ga 6, 54-56).

Còn Thánh Kinh ư! Vâng, Thánh Kinh chính là nơi giúp ta nhìn thấy con người thật của Đức Giê-su qua cách sống của Ngài, qua lời nói của Ngài và cuối cùng là qua việc làm của Ngài.

Sống như Chúa, nói như Chúa, làm như Chúa… chẳng phải là chúng ta đã “ở lại trong Chúa và Chúa ở lại trong ta”, sao!

, một khi chúng ta “ở lại trong Chúa và Chúa ở lại trong ta”, hãy tin, cành nho của ta “sẽ sinh nhiều hoa trái”. Vâng, sẽ là hoa trái yêu thương.

Trong phạm vi nhỏ là gia đình, nếu mỗi thành viên trong ngôi nhà đó đều đem đến cho nhau “hoa trái yêu thương”, có phần chắc, gia đình đó, “anh em hòa thuận, láng giềng thân thiết” và cuối cùng, một cuối cùng tuyệt đẹp, đó là “vợ chồng ý hợp tâm đầu”.

Anh em hòa thuận, láng giềng thân thiết, vợ chồng ý hợp tâm đầu”, Kinh Thánh nói “cả ba đều đẹp lòng Thiên Chúa”. Mà, sống đẹp lòng Thiên Chúa, thì sao nhỉ! Thưa, Đức Giê-su nói: “thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (x.Ga 15, …8).

Đức Giê-su đã phán truyền như thế. Vậy, chúng ta sẽ xin gì? Nên chăng, hãy xin “Nhựa sống Giêsu - Nhựa sống tinh tuyền và vĩnh cửu.”! Thưa, đúng vậy. Bởi vì: “Giêsu chính là nhựa sống đời ta”.

Petrus.tran

Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2024

Tám mối phúc là khẩu hiệu của ta…

 “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”

CN – IV – PS – B
Tám mối phúc là khẩu hiệu của ta…

tbd 200424a


Hằng năm, như một truyền thống đẹp, cứ đến Mùa Phục Sinh, Giáo Hội dành riêng một ngày Chúa Nhật – Chúa Nhật IV, còn gọi là Chúa Nhật CHÚA CHIÊN LÀNH, để cầu cho ơn thiên triệu.

Ơn thiên triệu là gì? Thưa, trước Công đồng Vatican II, khi nói tới “ơn thiên triệu” (vocation) hoặc “ơn gọi” (calling), chúng ta thường nghĩ đó là ơn dành cho những người từ bỏ đời sống hôn nhân, sống đời tận hiến độc thân cho sứ mệnh rao giảng Tin Mừng.

Và ngày nay, theo “Giáo Lý Ơn Gọi - Bài 28: Ơn Thiên Triệu” chúng ta được dạy rằng: “Ơn thiên triệu là ý Chúa muốn cho mỗi người sống trong một địa vị nào đó. Nhưng theo nghĩa thông thường thì ơn thiên triệu là tiếng Chúa gọi một số người dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì để phục vụ Chúa và anh em đồng loại.”

Rất, rất đáng trân trọng. Với những người sống theo đời sống của ơn gọi này, chúng ta thường gọi là Giám Mục – Linh Mục - hoặc là tu sĩ nam nữ. Các Giám Mục hay Linh Mục được gọi bằng một danh từ rất “Kinh Thánh”, đó là người mục tử.

Nói về các vị mục tử ngày nay, tưởng chúng ta nên biết, khi được truyền chức, các vị thường lấy một “khẩu hiệu”, một khẩu hiệu như là kim chỉ nam cho sứ vụ của mình.

Ðức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn, cựu Tổng Giám mục TGP Saigon, đã lấy khẩu hiệu là “Như Thầy yêu thương”. Với khẩu hiệu này, ngài GB Phạm Minh Mẫn có lời chia sẻ: “Ðây là điều tôi luôn nhấn mạnh với các linh mục tại những giáo phận mà mình từng coi sóc. Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương nhau và đối thoại trong yêu thương. Khi về coi xứ, các vị mục tử cần xây dựng được sự hiệp thông, phải làm cho Chúa hiện diện giữa Dân Người bằng tình yêu.”

Với Ðức cha GB Bùi Tuần, cựu Giám mục giáo phận Long Xuyên, ngài đã lấy khẩu hiệu là: “Giới Luật yêu thương”. Chúng ta cùng nghe lời tâm sự của ngài: “Trước khi được tấn phong ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi được thông báo mình được mời gọi nhận sứ vụ Giám mục, tôi nhớ trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người rằng: ‘Thầy trao ban cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu thương anh em’(Ga 13, 34). Có thể là tình hình thời điểm đó rất phức tạp, nên chính Chúa đã soi cho tôi chọn câu ‘Giới Luật yêu thương’ trích từ đoạn Lời Chúa trên đây làm khẩu hiệu, để ơn gọi Giám mục của tôi có phương hướng rõ ràng và chắc chắn.”

Còn Đức Giám mục Phêrô Kiều Công Tùng, thì sao? Thưa, ngài lấy khẩu hiệu là: “Spiritu ambulemus – Cùng đi trong Thần Khí”. Với khẩu hiệu này, trang mạng phatdiem.org có lời bình luận: “Đây vừa là quyết tâm của chính giám mục vừa là lời mời gọi gửi đến cộng đoàn Dân Chúa, định hướng cho cả hành trình sứ vụ trong và cho Giáo hội, với tinh thần hiệp hành.”

Ðức Tổng Giám Mục Giuse Nguyễn Năng đã chọn khẩu hiệu gì? Thưa, ngài chọn khẩu hiệu “Hiệp thông và Phục vụ" (Communione et Serviente).

Hầu hết các vị Giám Mục, theo truyền thống, đều lấy khẩu hiệu được trích trong Kinh Thánh. Thế nhưng, có một vị Giám Mục lại không theo truyền thống này. Đó là: Ðức cha Anphong Nguyễn Hữu Long, Giám mục giáo phận Vinh.

Theo lời trần tình của ngài Anphong Nguyễn Hữu Long thì: “Năm 2013, khi được tấn phong Giám mục, tôi đã chọn cho mình châm ngôn Mang vào mình mùi chiên. Ðây không phải là một câu Kinh Thánh như các giám mục quen chọn nhưng mang đầy chất Kinh Thánh. Câu này rút ra từ bài giảng của ÐTC Phanxicô dịp Lễ Dầu năm 2013.”

Giải thích rõ hơn cho lựa chọn của mình, ngài Giám Mục nói: “Mang vào mình mùi chiên ngụ ý sự gần gũi thắm thiết giữa mục tử và chiên. Mục tử suốt ngày ở bên cạnh chiên, có khi ôm chiên vào lòng, vác chiên lên vai, thì hẳn nhiên ám mùi chiên. Hiểu theo nghĩa bóng là nhận lấy niềm vui nỗi buồn của mọi người như của mình. Bất luận hạnh phúc hay bất hạnh, ân sủng hay tội lỗi, điều tốt hay điều xấu của mọi người và mỗi người, tôi đều nhận vào mình để cảm thông, chia sẻ, đồng hóa, gần gũi với họ.”

Cuối cùng, ngài AnPhong Nguyễn Hữu Long kết luận: “Tôi lại luận thêm Chúa Giê-su cũng là chiên, Ngài là ‘Chiên Thiên Chúa’, nên trước hết tôi phải mang mùi Chiên Thiên Chúa vào mình, nơi Ngài chỉ có mùi thơm không có mùi thối, chỉ có ân sủng chứ không có tội lỗi, chỉ có điều tốt chứ không có điều xấu. Sứ vụ giám mục do đó là sứ vụ tương tác, mang mùi của anh em đến với Chúa, và mang mùi của Chúa Giê-su đến với anh em.” (trích nguồn: “Nhìn lại khẩu hiệu Giám mục” tác giả Hùng Luân. Bài được đăng trên báo điện tử Công Giáo và Dân Tộc vào thứ ba, 19/02/2019).

Khẩu hiệu của Giám Mục AnPhong “mang vào mình mùi chiên”, cùng với những lời trần tình của ngài, khiến chúng ta không thể không nhớ đến những gì Đức Giê-su đã tuyên phán, năm xưa.

Tại Palestin, hơn hai ngàn năm xa trước đó, Đức Giê-su đã tuyên phán, rằng: “Tôi là cửa cho chiên ra vào… Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Vâng, Đức Giê-su đã nói rất to và rất rõ ràng, rằng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành.” Đức Giê-su còn tuyên phán rất nhiều điều khác nữa. Và, những điều này đã được ghi lại trong Tin Mừng Thánh Gio-an (Ga 10, 11-18).

**
Đức Giê-su đã tuyên phán nhiều điều gì nữa? Thưa, Ngài tuyên phán: “Người làm thuê vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.” (x.Ga 10, 12).

Nói xong điều ấy, Đức Giê-su tái xác nhận: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành.” Vâng, với vai trò là Mục Tử nhân lành, Ngài khẳng định: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”

Trong những ngày còn tại thế, một lần nọ, khi nhìn đoàn dân lũ lượt đi theo, Đức Giê-su đã phải thốt lên với các môn đệ rằng: “họ như bầy chiên không người chăn dắt” (x.Mc 6, 34). Và, đó là lý do, Ngài đã có thêm lời tuyên bố: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.”

Đức Giê-su còn tuyên phán gì nữa? Thưa, Ngài tuyên phán: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy.” Cuối cùng, Đức Giêsu khẳng định rằng: “Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được”. (x.Ga 10, 17-18).

***
Đức Giê-su không nói xuông. Ngài đã thi hành “mệnh lệnh của Cha” một cách trọn vẹn. Tại đồi Golgotha, Mục Tử Giêsu đã hy sinh mạng sống mình bằng cái chết trên thập giá. Một cái chết để cứu chuộc nhân loại. Một cái chết để không ai còn có thể mỉa mai nói rằng “từ Nazareth, làm sao có cái gì hay được?” Một cái chết để muôn thế hệ về sau đều phải nhìn nhận rằng, Đức Giêsu thành Nazareth, Ngài chính là “Vị Mục Tử nhân lành”.

Vâng, chúng ta còn có thể nói, Đức Giê-su là Chúa Chiên Lành. Và, không có gì phải xấu hổ khi chúng ta được Ngài gọi là “chiên”.

Kinh Thánh thường dùng hình ảnh con chiên để nói về con người. Thánh Vịnh (100, 3) có chép rằng: “Chính Người đã dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta thuộc dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt”.

Xưa, khi Đức Giêsu nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”, ngay lập tức, có một số người gọi Ngài là “đồ điên”, và có một số người đã “lấy đá để ném Ngài”. (Ga 10, 31).

Nay, những hạng người đó cũng không phải là thiếu. Chỉ với một ít kiến thức ba xu, những tên bồi bút của một vài trang mạng vớ vẩn, đã ra sức “ném đá” Giáo Hội. Họ không tiếc lời công kích rằng, thì là mà, Giáo Hội đã biến “con người” thành “con vật” khi gọi những người tín hữu là “con chiên”.

Ôi trời, đúng là nhảm hết sức là nhảm… Này! Quý vị hãy nghe Skip Heittzig. Trong một bài viết mang tựa đề “The good sherperd and his happy sheep”, Skip Heittzig có lời viết rằng: “Chúa gọi chúng ta là chiên vì Ngài biết bản chất của con người. Với bản năng thích hùa theo đám đông, sự sợ hãi và nhút nhát của chúng ta, sự bướng bỉnh và ngu dại của chúng ta và bản chất chống nghịch của chúng ta, chúng ta rất giống những con chiên, hơn nữa chiên không thể tự mình sống còn. Chúng đòi hỏi sự quan tâm thường trực, sự giải cứu và sự chăm sóc của người chăn, nếu không chúng sẽ chết.

Dù vậy, điểm quan trọng ở đây không phải chúng ta giống như những con chiên, nhưng đúng hơn, chúng ta có một người ‘chăn tuyệt vời’. Đó là ý nghĩ của David trong Thánh Vịnh 23: CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ”. Skip Heittzig kết luận: “Đó là điều để khoe khoang, hãy nhìn xem Đấng chăn giữ tôi là ai? Hãy xem ai là người kiểm soát cuộc đời của tôi”.

Đúng vậy, hãy tự hỏi: Đấng chăn giữ tôi là ai? Ai là người kiểm soát cuộc đời của tôi? Vâng, câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, vua David đã có lời nhắn nhủ rằng: “Dầu qua thung lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm”.

**** 
Vâng, lời nhắn nhủ của vua David quả là một lời nhắn nhủ không thể làm ngơ. Mỗi chúng ta cần phải ghi khắc trong con tim mình lời nhắn nhủ quý báu này.

Ghi khắc lời nhắn nhủ này, không chỉ để chúng ta nhìn Đức Giê-su như là vị Mục Tử Nhân Lành, nhưng còn để nhớ đến việc cầu xin Chúa cho Giáo Hội mỗi ngày mỗi thêm “những mục tử như lòng (Chúa) mong ước”.

Vâng, Chúa Giê-su rất “mong ước” người mục tử ngày nay “lời nói đi đôi với việc làm”. Đừng như quý ông kinh sư: “Họ nói mà không làm” (Mt 23, 3) Chúa Giê-su rất mong ước người mục tử ngày nay: “Hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” ( Mt 11, 28 – 30 ).

Chúa Giê-su rất mong ước, người mục tử ngày nay, thi hành sứ vụ mục tử của mình trong tâm tình “tám mối phúc thật”. “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.” Thi hành sứ vụ mục tử với tâm tình của mối phúc này, con sói lạm dụng tình dục sẽ không “có cửa” vồ lấy người mục tử như lòng Chúa Giê-su mong ước.

Cuối cùng, và cũng là điều rất quan trọng mà mỗi chúng ta cần biết. Vâng, điều chúng ta cần biết, Lm. Charles E. Miller, nói: “Không nhất thiết phải quan niệm rằng các giám mục và linh mục mới là mục tử duy nhất. Giáo Hội ngày nay mời gọi các tín hữu nên những mục tử tốt lành cho nhau. Chúng ta có trách nhiệm hỗ tương, vì là điều đẹp lòng Thiên Chúa khi Người cứu rỗi và thánh hóa chúng ta không như cá nhân riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng quy tụ chúng ta thành một dân tộc duy nhất. Đó là giáo huấn trang trọng của Thánh Công Đồng Vatican II (Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, số 9).

Do vậy, chúng ta phải là những mục tử nhân lành trong gia đình. Chúng ta cũng phải là những mục tử như Đức Giê-su mong ước. Chúng ta cũng phải thực thi những gì Đức Giê-su đã truyền dạy trong bản “Hiến Chương Nước Trời”.

“Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Thi hành sứ vụ mục tử trong gia đình với tất cả tâm tình của mối phúc này, con sói hận thù, con sói chia rẽ, con sói bè phái, con sói ganh tỵ v.v… có nằm mơ cũng không thể làm cho gia đình chúng ta “tán loạn”.

Vậy đó! Chắc chắn là sẽ như vậy, đó. Thế nên, hãy chọn “Tám mối phúc là khẩu hiệu của ta.”

Petrus.tran

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2024

Đức Kitô Phục Sinh: nguồn trợ giúp chúng ta

 Trong khi hai môn đệ “thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”

CN – III – PS – B
Đức Kitô Phục Sinh: nguồn trợ giúp chúng ta

tbd 130424a


“Chúa đã Phục Sinh” Với chúng ta hôm nay, đó là một niềm tin “bất biến”. Trong Thánh Lễ Chúa Nhật mỗi tuần, chúng ta tuyên xưng rằng: Đức Giê-su – “Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh.”

Thế nhưng, với các môn đệ xưa, để tin vào lời tuyên xưng này, thì không phải là chuyện một sớm một chiều. Nếu có gì để nói về niềm tin của các môn đệ, hồi ấy, chúng ta có thể nói rằng: đó là một niềm tin “nửa tin nửa ngờ”.

Làm sao có thể tin được, khi sự kiện Thầy Giê-su trỗi dậy được biết đến hết sức mơ hồ. Đó chỉ là hiện tượng về một ngôi mộ trống. Một ngôi mộ trống, mà chính ông Phê-rô và Gio-an đã đến nơi. Các ông đã chứng kiến trong đó chỉ còn “…Những băng vải và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi”. Xác Thầy Giê-su đâu? Không thấy!

Tiếp theo là việc bà Maria Mác-đa-la, bà Gio-an-na và bà Maria, mẹ ông Gia-cô-bê đi ra mộ. Các bà “thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Nhưng khi bước vào, các bà “không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả.”

Trong lúc các bà đang phân vân, “thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ”. Chính hai người đàn ông này đã nói với các bà rằng: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết. Người không còn ở đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà ở Ga-li-lê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại.” (Lc 24, 5-7).

Tất cả sự kiện chỉ là “nghe và nói”. Để rồi, những lời được nghe và nói đó lại là những thông tin mà các bà chuyển tiếp tới các Tông Đồ. Cuối cùng là gì? Thưa, thánh sử Luca cho biết “nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.”

Ông Phê-rô, như đã nói ở trên, khi đã nhìn thấy những gì còn lại trong mộ, cũng chỉ “ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra”, mà thôi.

Đức Giêsu Phục Sinh chính là sự toàn vẹn chương trình cứu chuộc hoàn hảo mà Thiên Chúa đã thực hiện. Điều đó không thể là những thách đố đối với các môn đệ, là những người đã tin và đi theo Ngài.

Các ông phải thấy. Để cho các ông tin. Và, Đức Giê-su đã cho các ông thấy. Đồng thời Ngài đã làm cho các ông tin. Vâng, Đức Giê-su đã hiện ra với các ông, và nói với các ông rằng: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!” Đồng thời, Ngài “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”, để các ông tin rằng: “mọi sự đã chép về (Ngài) đều phải được ứng nghiệm.” Tất cả sự việc này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca (Lc 24, 35-48).

**
Vâng, khởi đầu cho những sự việc Đức Giê-su Phục Sinh đã thực hiện, đó là câu chuyện về “hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau”.

Hai người rời khỏi Giêrusalem, vì niềm hy vọng của mình tan vỡ sau cái chết của Đức Giê-su. Và rồi, trên đường về quê, họ gặp được Đức Giê-su Phục Sinh.

Gặp Đức Giê-su Phục Sinh, nhưng hai môn đệ này không nhận ra Người. Cho đến khi, Đức Giê-su cùng đồng bàn với họ, và cùng họ bẻ bánh, hai vị môn đệ này mới “nhận ra Người” khi “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra và trao cho họ.”

Sau khi nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh, chuyện kể rằng: “Họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp ở đó”. Trong khi hai môn đệ “thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”, “thì chính Đức Giêsu (hiện ra) đứng giữa các ông và bảo: Bình An cho anh em!”.

Đức Giê-su Phục Sinh chúc “Bình An” cho các ông. Nhưng các ông lại cảm thấy bất an. Một sự bất an tột độ khiến cho các ông “kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma.”

Chia sẻ về sự bất an này, Lm. Jude Siciliano, OP. có lời rằng: “Giêrusalem là nơi các môn đệ hội họp. Cộng đoàn ở Giêrusalem này có lẽ đang ở cùng nhau, nhưng họ chưa phải là một cộng đoàn thực sự. Họ bị phân tán bởi sợ hãi và thất vọng. Niềm hy vọng tiêu tan khi Đức Kitô bị giết và giờ đây có lẽ họ cũng lâm vào cảnh nguy hiểm – những kẻ tiếp theo trong danh sách bị xử lý.”

Có đúng vậy không? Thưa, rất có thể. Và, Đức Giê-su thấu hiểu nỗi bất an này của các người môn đệ, của mình. Thế nên, thật dễ hiểu khi Đức Giê-su có lời tiếp rằng: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!”

Chính… chính là Đức Giê-su. Hôm ấy, để xua tan đi sự ngờ vực nơi các môn đệ, Đức Giê-su nói: “Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Nói xong, chuyện kể tiếp rằng, Đức Giê-su: “Người đưa tay chân ra cho các ông xem.”

Xem xong, các môn đệ sao nhỉ! Trời ạ! “Các ông còn chưa tin vì mừng quá…” Mà, làm sao các ông tin “ngay” cho được! Lúc đó, có ai trong các ông biết đến “sống lại” nghĩa là gì, ngoài “sự chết”!

Và rồi, trong lúc còn ngỡ ngàng, Đức Giê-su hỏi các ông: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Các môn đệ “đưa cho Người một khúc cá nướng.” Vâng, Đức Giê-su, với một cử chỉ rất sát với thực tế đời thường, “Người cấm lấy và ăn trước mặt các ông.”

***
Vậy là đã rõ. Đức Giê-su, qua những hành động của một con người đời thường, Ngài đã cho các môn đệ thấy rõ “Người sống lại như lời Thánh Kinh.”

Hôm ấy, như người mục tử xót xa nhìn đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, Đức Giêsu nói với các môn đệ, rằng: “Tất cả những gì sách luật Môse, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”.

Có một việc, không kém phần quan trọng, đó là: Đức Giê-su - “Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”.

Chúng ta thường nghe nói: “Kẻ thù của niềm tin là sự sợ hãi chứ không phải sự nghi ngờ”. Hôm đó, Đức Giêsu quả đúng là một bậc thầy về tâm lý. Ngài đã không trách cứ các môn đệ về sự nghi ngờ của các ông.

Trái lại, Ngài đã gửi đến các môn đệ một lời truyền dạy, một lời truyền dạy như để nhắc các ông xác tín lại niềm tin của mình, lời truyền dạy, rằng: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối, để được ơn tha tội.”

Chưa hết, Đức Giê-su còn có lời chỉ bảo sau hết, rằng: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này.”

****
Vâng, Lm. Jude Siciliano, OP - khi suy tư về “những lời chỉ bảo” này - đã có lời chia sẻ, rằng: “Hãy để ý dòng cuối cùng trong bài Tin Mừng hôm nay. Sau khi mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, Đức Giêsu nói thêm với họ cũng như với chúng ta một điều nữa là: ‘Chính anh em là chứng nhân về những điều này.’ Việc nghe giải nghĩa Kinh Thánh không phải như trong một lớp học Kinh Thánh, hay là một cái nhìn lại lịch sử. Một khi đã gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, các môn đệ và chính chúng ta được nhắc nhở phải là những chứng nhân cho tất cả những gì mà chúng ta đã nghe và đã thấy.”

Chưa hết, ngài Lm. còn tiếp lời rằng: “Trong Tân Ước, ‘chứng nhân’ có nghĩa là ‘tử đạo’. Đó là điều mà Đức Kitô Phục Sinh yêu cầu chúng ta.”
Thật đúng là vậy. Hầu hết tất cả các tông đồ đều đã “tử đạo” để làm chứng cho niềm tin cứu độ, niềm tin Đức Giêsu Phục Sinh. Máu tử đạo của các tông đồ đã chứng minh rằng, các ông quả thật đã làm trọn lời “chỉ bảo” của Thầy Giê-su.

Ngày nay, đừng nghĩ rằng “tử đạo” có nghĩa là “chết vì đạo”. Nhưng hãy nghĩ rằng “tử đạo chính là sống đạo”. Bởi vì, đó chính là lời chứng sống động nhất.

“Chúng ta phải dùng đời sống của mình mà làm chứng về Người. Mỗi người chúng ta phải thể hiện cách cụ thể niềm tin vào biến cố Phục Sinh.” Lm. Lm. Jude Siciliano, OP, có lời khuyên, như thế.

Vâng, rất cụ thể khi chúng ta biểu lộ niềm tin vào biến cố Đức Giê-su Phục Sinh bằng cách: Đức Giê-su làm gì, chúng ta hãy làm như Ngài. Đức Giê-su nói gì, chúng ta hãy nói như Ngài. Đức Giê-su nghĩ gì, chúng ta hãy nghĩ như Ngài.

Mà, Đức Ki-tô Phục Sinh đã nói gì? Chẳng phải Ngài nói: “Bình an cho anh em”, đó sao! Nếu Ngài nói như thế, cớ gì chúng ta không trở thành “khí cụ bình an của Chúa”!

Đức Ki-tô Phục Sinh còn nói gì? Phải chăng Ngài nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau”! Nếu Ngài nói như thế, cớ gì chúng ta không “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”!

Cuối cùng, nếu xưa kia, các môn đệ đã cùng nhau quy tụ vào “ngày thứ nhất trong tuần” và đã được gặp Đức Giê-su Phục Sinh.

Thì ngày nay, chúng ta cũng đừng quên cùng nhau quy tụ vào Chúa Nhật mỗi tuần, trong ngôi nhà thờ. Bởi, tại nơi đây, chúng ta sẽ được gặp Đức Giê-su Phục Sinh, qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, cũng như qua bàn Tiệc Thánh Thể.

Qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, Đức Giê-su Phục Sinh, qua vị Lm chủ tế, sẽ tiếp tục “mở trí cho chúng ta hiểu Kinh Thánh”.

Và, qua bàn Tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su sẽ cho “mắt chúng ta mở ra”, mở ra để nhận biết rằng: Mình và Máu Thánh Người chính là “bánh hằng sống từ trời xuống”. Một thứ bánh mà “ai ăn sẽ được sống muôn đời.”

Trong một thế giới tàn bạo như hôm nay, để là “chứng nhân về những điều này”, người chứng nhân rất cần sự trợ giúp. Thánh Kinh và Thánh Thể chính là sự trợ giúp tốt nhất cho người chứng nhân. Bởi vì, Thánh Kinh chính là Lời Chúa. Và, Thánh Thể chính là Mình và Máu của Đức Kitô Phục Sinh.

Nói cách khác, Đức Ki-tô Phục Sinh: nguồn trợ giúp chúng ta.

Petrus.tran

Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...