Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2024

Hãy làm việc này, để nhớ đến Chúa…

 “Tất cả các con hãy lãnh nhận mà ăn, vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”.

Chúa Nhật - Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô
Hãy làm việc này, để nhớ đến Chúa…

tbd 310524a


Như chúng ta được biết, trước khi Đức Giê-su được rước lên trời, Ngài đã ban một lệnh truyền cho các môn đệ, lệnh truyền rằng: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (x.Mt 28, 18-20).

Vâng, Đức Giê-su đã về trời. Và, đúng như lời hứa, Ngài đã “ở cùng” với các thánh tông đồ, với toàn thể Giáo Hội và cách riêng là với mỗi chúng ta, suốt hơn hai ngàn năm qua, dưới nhiều hình thức.

Hình thức “ở cùng” của Ngài không còn là hình thức “một Giê-su con bác thợ, sống tại làng Nazareth”, nhưng là một Giê-su “ở khắp mọi nơi, thông biết mọi sự, hằng xem thấy (chúng ta), hằng nghe lời (chúng ta) cầu nguyện.”

Hình thức “ở cùng” của Đức Giê-su còn được biết đến trong “Bí Tích Thánh Thể”, dưới hình bánh và rượu. Giáo lý Công Giáo dạy rằng: “Bí tích Thánh Thể là việc Chúa Giêsu ban mình cho chúng ta qua hy tế thập giá dưới hình bánh rượu để trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng con người.” (giáo lý dự tòng - bài 15).

Đức Giê-su chính là người đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Ngài đã chọn lễ Vượt Qua để thực hiện điều mình đã loan báo trước đó tại Ca-phác-na-um, rằng: “Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).

Sự kiện này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mác-cô. (Mc 14, 12-16. 22-26).

**
Theo Tin Mừng thánh Mác-cô ghi lại, thì hôm ấy là: “Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua…”

Tưởng chúng ta cũng nên biết, “Lễ Vượt Qua hay lễ Quá Hải (tiếng Hebrew: פֶּסַח Pesaḥ) là lễ quan trọng nhất của người Do Thái, kéo dài một tuần. Chiều ngày 14 tháng Ni-san (khoảng tháng ba, tháng tư dương lịch), người ta sát tế chiên (cừu) tại đền thờ, rồi tư tế lấy máu chiên mà đổ dưới chân bàn thờ. Khi đêm xuống, người ta sẽ ăn tiệc chiên vượt qua theo gia đình hay theo nhóm mà không quên lấy chút máu chiên bôi lên cửa nhà.

Lễ Vượt Qua được cử hành như một cuộc tưởng niệm nhằm giúp mỗi người sống lại kinh nghiệm của cha ông họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập xưa kia. Trong bữa tiệc, người ta ăn thịt chiên với bánh không men và rau đắng, ngoài ra, họ cũng uống với nhau bốn chén rượu đã được vị chủ tọa bữa tiệc chúc lành để kỷ niệm bốn lời hứa của Thiên Chúa với dân Do Thái: “Ta sẽ đem các ngươi ra từ ách của Ai Cập. Ta sẽ giải thoát các ngươi khỏi cảnh làm tôi mọi chúng. Ta sẽ giương cánh tay mà chuộc lấy các ngươi. Ta sẽ lấy các ngươi làm dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi” (nguồn: Wikipedia).

Vâng, Lễ Vượt Qua quan trọng… quan trọng lắm! Thế nên, hôm ấy các môn đệ đã bối rối về việc tìm đâu ra “mặt bằng” để tổ chức bữa tiệc. Có rất nhiều việc phải làm trong ngày đó. Nào là phải có một nơi thích hợp để giết chiên, rồi chuẩn bị bánh không men, và sắm các đồ dùng cho bữa tiệc. Do vậy, các ông đã hỏi Đức Giê-su: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” (Mc 14, 12).

Hôm ấy, Đức Giê-su, sau khi nghe các môn đệ trình bày, Ngài đã sai “hai môn đệ đi” và dặn họ làm theo sự chỉ dẫn của mình.

Đầu tiên là “đi vào thành”. Kế đến là “sẽ có một người mang vò nước đón gặp”. Rồi “cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, (hãy) thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: Thầy sẽ ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở phòng nào? Và, ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi ở trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó các anh sẽ dọn tiệc cho chúng ta.”.

“Hai môn đệ (đã) ra đi”. Và, mọi điều Đức Giê-su dặn dò đều đúng “(y) như Người đã nói.” Và rồi “các ông dọn tiệc Vượt Qua.” (Mc 14, 16).

Bữa tiệc đã sẵn sàng. “Đức Giê-su và Nhóm Mười Hai cùng tới.” Rồi… “Đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người”.

Cuối bữa ăn, mọi người “Hát thánh vịnh”, Rồi “Đức Giêsu và các môn đệ ra núi Ôliu”.

***
Không chỉ một mình thánh sử Mác-cô ghi lại sự kiện này, mà còn có thánh sử Mát-thêu, thánh sử Luca và thánh Phao-lô, nữa.

Thánh Mát-thêu ghi thế nào? Thưa, ngài thánh sử ghi rằng: “Cũng trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy. Rồi Người cầm chén, dâng lời tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mt 26, 26-28).

Thánh sử Luca ghi như sau: “Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn cùng với các Tông đồ, Người nói với các ông: Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ nạn. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn trong Nước Thiên Chúa.

Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: Anh em hãy cầm lấy mà chia với nhau, bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết: từ nay Thầy sẽ không uống đến sản phẩm của cây nho nữa, cho đến khi Nước Thiên Chúa đến. Đoạn Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra trao các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy”. Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: “Chén này là Giao Ước Mới lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,19-20).

Với thánh Phao-lô ư! Vâng, những gì ngài Phao-lô ghi lại, có thể nói rằng, đó là những lời vàng ngọc mà chúng ta luôn phải ghi khắc trong con tim mình và coi đó như là một “bản tình ca”, bản tình ca tác giả chính là Thiên Chúa, một Thiên Chúa là tình yêu. “(Người) yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Vâng, chúng ta hãy nghe tông đồ Phao-lô nói: “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: ‘Đây là Mình Thầy, hiến dâng vì anh em, anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy’. Cũng thế sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói: ‘Chén này là Giao Ước Mới lập bằng Máu Thầy, mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy’. Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1Cr 11,23-26).

****
Như vậy, mọi sự đều đã rõ. Qua Bí Tích Thánh Thể, Đức Giê-su đã ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Và, đó là lý do, Chúa Nhật hôm nay (02/06/2024), toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô.

Mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô, chắc hẳn, có không ít giáo xứ sẽ tổ chức “kiệu Thánh Thể” hoặc “chầu Thánh Thể”. Đó, đó là điều phải đạo.

Tuy nhiên, để cho việc kiệu Thánh Thể hoặc chầu Thánh Thể sinh ơn ích, chúng ta đừng quên tham dự “Bàn Tiệc Thánh Thể”.

Hôm nay, nơi Bàn-Tiệc-Thánh-Thể, Đức Giê-su, qua vị linh mục chủ tế, cùng lời truyền thánh hiến Bánh, tiếp tục nói với chúng ta, rằng: “Tất cả các con hãy lãnh nhận mà ăn, vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”.

Hôm nay, nơi Bàn-Tiệc-Thánh-Thể, Đức Giê-su, qua vị linh mục chủ tế, cùng lời truyền thánh hiến Rượu, tiếp tục nói với chúng ta, rằng: “Tất cả các con hãy lãnh nhận mà uống, vì này là Chén Máu Thầy, Máu Tân Ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.

Sách Châm ngôn có lời chép rằng: “Đức Khôn Ngoan bảo: Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống, hãy bước đi trên con đường hiểu biết” (x.Cn 9, 5-6).

Còn Đức Giê-su… Ngài nói gì? Thưa, tại Ca-phac-na-um, Ngài nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.” (x.Ga 6, 52-56).

Nhắc đến điều này để làm gì? Thưa, để chúng ta thấy được tầm quan trọng của việc tham dự Bàn Tiệc Thánh Thể. Do vậy, đừng quên, mỗi ngày, mỗi tuần… hãy đến bàn tiệc “lãnh nhận mà ăn”, hãy đến bàn tiệc “lãnh nhận mà uống”.

Nói cách khác: “Hãy làm việc này, để nhớ đến Chúa”.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2024

Hãy làm Dấu… suốt đời ta

 “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

Chúa Nhật - Lễ Chúa Ba Ngôi
Hãy làm Dấu… suốt đời ta

 

tbd 250524a


Một trong những điều căn bản một tín hữu Công Giáo phải biết, đó là: làm dấu thánh giá. Làm dấu thánh giá, nói không sợ sai, đó là bài học đầu tiên không một bà mẹ Công Giáo nào lại không dạy cho con em mình. Vâng, rất ngắn gọn: “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”.

Về hình thức: “Vừa làm dấu theo hình chữ thập vừa đọc to hoặc đọc nhẩm: ‘Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần’. Vừa đọc vừa dùng tay phải chạm lên trán, ngực và vai trái rồi vai phải tạo thành một hình chữ thập. Dấu Thánh Giá kết thúc bằng chữ ‘Amen’ và chắp hai tay ở trước ngực, hoặc hôn bàn tay làm Dấu Thánh Giá.

Dấu Thánh Giá là một cử chỉ thông dụng nhất để tuyên xưng đức tin Kitô Giáo. Làm dấu hình thánh giá để nói lên niềm tin vào công cuộc cứu độ loài người mà Chúa Giêsu đã chịu chết trên thập giá. Xướng danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một cách nói lên niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi.” (nguồn: internet).

Câu xướng danh này không do tự Giáo Hội đặt ra, nhưng đó là lệnh truyền của Đức Giê-su, trước khi Ngài được rước lên trời. Lệnh truyền này, đã được ghi trong Tin Mừng thánh Mát-thêu. (x.Mt 28, 16-20).

**
Theo Tin Mừng thánh Mát-thêu ghi lại: Hôm ấy, “Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến.” Đức Giê-su truyền cho các môn đệ đến Ga-li-lê để làm gì? Thưa, để các ông “sẽ thấy (Ngài) ở đó.” (x.Mt 28, …10).

Ngài-sẽ-ở-đó, cũng là điều thiên thần nói với bà Maria Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Maria, khi hai bà này “đi viếng mộ” Đức Giê-su.

Hôm ấy, đó là vào ngày thứ nhất trong tuần, khi bà Mác-đa-la và bà Maria đến mộ, thì: “Thiên Thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết… Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh, Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói… mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dạy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó các ông sẽ thấy Người.” (Mt 28, 2-7).

Chưa hết, cũng trong ngày hôm đó, chính Đức Giê-su đã hiện ra với các bà và Ngài đã nói với các bà rằng: “Về bảo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.” (Mt 28, 10).

Và, như đã nói ở trên, các môn đệ đã đi tới miền Ga-li-lê. Các ông có thấy Thầy Giê-su! Thưa có. Hôm ấy, “Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.”

Ông nào hoài nghi! Thưa, thánh sử Mát-thêu không cho biết. Và điều chúng ta được biết, đó là, Đức Giê-su đã ban một lệnh truyền cho các môn đệ, lệnh truyền rằng: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (x.Mt 28, 18-20).

Vâng lời Thầy Giê-su, các vị tông đồ xưa đã thực hiện lệnh truyền này. Và, hơn hai ngàn năm có lẻ, lệnh truyền này vẫn luôn được thực hiện. Nó đã được thực hiện qua suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội. Giáo Hội, qua các vị linh mục, vẫn tiếp tục thực hiện lệnh truyền, rằng: “tôi rửa (anh, chị…) nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

***
“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Lời xướng danh này, không chỉ để đọc lên trong nghi thức cử hành Bí Tích Rửa Tội, nhưng, nó còn để chúng ta xác tín niềm tin của mình, rằng: “Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, và Thiên Chúa có Ba Ngôi: Ngôi thứ nhất là Chúa Cha, Ngôi thứ hai là Chúa Con và Ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi tuy riêng biệt, nhưng cùng một bản thể duy nhất và một uy quyền ngang nhau.”

Chỉ có một Thiên Chúa và Thiên Chúa có Ba Ngôi. V âng, điều này đã được Giáo Hội “suy gẫm suốt ba thế kỷ trước khi sẵn sàng để ra tín điều Chúa Ba Ngôi qua hai Công Đồng Chung đầu tiên là Nicea I năm 325 và Công đồng Constantinopolis I năm 381” (nguồn: internet).

Lấy nguồn cảm hứng từ việc đọc Phúc Âm, Lm. Charles E.Miller đã “họa” lại bức tranh một Chúa Ba Ngôi rất sống động, như sau: “Chúa Giê-su ban cho chúng ta một mạc khải mới khi tuyên bố Thiên Chúa là Cha của Ngài. Ngài nói mình ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài hứa sai Chúa Thánh Thần đến.” (Ga 16, …7).

Nội dung bức họa của ngài Lm. Charles rất thực… thực như những gì các trang sách Tân Ước đã ghi lại. Vâng, Tin Mừng thánh Gio-an đã ghi lại những gì Đức Giê-su đã tuyên bố: “Tôi và Chúa Cha là một. – Tôi là Con Thiên Chúa.” (x. Ga 10, 30… 36).

****
Chúa Nhật hôm nay (26/05/2024), một lần nữa, toàn thể Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ “Chúa Ba Ngôi”. Có nhất thiết phải dùng một hình ảnh cụ thể nào đó để diễn tả mầu nhiệm “một Chúa Ba Ngôi”?

Thưa, không cần. Tại sao? Thưa, là bởi, Thiên Chúa là Đấng “vô hạn” chúng ta không thể dùng những hình ảnh “hữu hạn” để mà diễn tả về Người.

Muốn giải thích rõ ràng về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi ư! Vâng, thay vì tập trung vào những hình ảnh hữu hạn, những hình ảnh khập khiễng, chúng ta nên chiêm ngắm sự hùng vĩ của thiên nhiên, sự kỳ diệu của cuộc sống mà Thiên Chúa đã sáng tạo, đã ban cho con người.

Đó… đó chính là cảm nghiệm của tông đồ Phao-lô và ngài đã chia sẻ cảm nghiệm này cho cộng đồng tín hữu ở Roma, như sau: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết được tư tưởng của Chúa! Ai đã làm cố vấn cho Người”.

Nhờ có sự cảm nghiệm như thế, thánh nhân đã lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa, rằng: “Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời. Amen” (x.Rm 11, 33-36).

Do vậy, không gì tốt hơn là hãy dùng ngôn-ngữ-tình-yêu, một thứ ngôn ngữ đã được chính Đức Giê-su sử dụng, để mà diển tả về một Thiên Chúa Ba Ngôi.

Thế nào là ngôn ngữ tình yêu! Thưa, hãy nhìn vào Chúa Cha. Người chẳng phải là một người Cha “từ bi và nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi”, đó sao! (x.Tv 103, 8-9).

Thế thì, muốn diễn tả về Người, không gì tốt hơn là chúng ta hãy diễn tả bằng chính sự từ bi và nhân hậu trong cuộc sống của chúng ta.

“Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp”… có tốt hơn chăng!

Về Chúa Con. Chúa Con chẳng phải là đã nói “Tôi đến là để chiên được sống và sống sung mãn”, đó sao!. Thế thì, muốn diễn tả về Chúa Con, không gì tốt hơn là chúng ta hãy thực thi những lời Ngài đã truyền dạy, rằng: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.” (x.Mt 5, 44).

Về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần thì sao! Thưa, Đức Giê-su nói: “Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.” Thế thì, muốn diễn tả về Chúa Thánh Thần, không gì tốt hơn là chúng ta hãy sống một đời sống trung thực: “có thì nói có, không thì nói không”. (Mt 5, 34-37) Bởi vì, “thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”

Diễn tả mầu nhiệm “một Chúa Ba Ngôi” theo c ách thức nêu trên, khó quá chăng! Đúng, rất khó. Thế nhưng, với Đức Giê-su, thì “ngôn ngữ tình yêu” lại là điều kiện ắt có và đủ cho bất cứ ai muốn trở thành môn đệ của Ngài, vì như Ngài đã nói; “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này; là anh em có lòng yêu thương nhau”.

Xã hội chúng ta đang sống hôm nay, rất cần sự bình an, rất cần sự từ tâm và nhân hậu, nói chung là rất cần tình yêu thương. Ai sẽ cho họ nếu không phải là chúng ta!

Phải… phải là chúng ta. Và để có thể thực hiện được chúng ta cần phải: “có sự cảm thương, thông hiểu, nhẫn nại, bao dung, tha thứ, tôn trọng, nhân ái, và độ lượng...”, ngài Ron Rolheiser cho chúng ta lời khuyên, như thế đấy!

Làm sao chúng ta có thể thực hiện lời khuyên của ngài Ron Rolheiser? Nên chăng, hãy kết hợp mật thiết với Chúa Ba Ngôi!

Thưa, đúng vậy. Chúng ta phải “…làm Dấu hằng ngày… làm Dấu một đời... Khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim (chúng ta)”.

Nói tắt một lời, hãy làm Dấu suốt đời ta.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2024

Hãy cùng Thánh Thần mà tiến bước.

 Chúa Nhật - Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Hãy cùng Thánh Thần mà tiến bước

tbd 180524a


“Cầu xin Chúa Thánh Thần. Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa. Trau dồi cho đáng ngôi thánh đường. ĐK: Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha. Tình thương mến ấp ủ con ngày đêm, nhuần thấm xác hồn tràn lan ơn thiêng.”

Vâng, những dòng chữ trên đây, là trích đoạn một bài thánh ca, nói về Chúa Thánh Thần.

Chúa Thánh Thần là ai? Thưa, giáo lý Công Giáo dạy rằng: “Chúa Thánh Thần là ngôi thứ ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy.”

Những lời dạy dỗ này không do tự Giáo Hội đặt ra, nhưng là do chính Đức Giê-su phán truyền. Chúa Thánh Thần hay Chúa ngôi ba là ai ư! Thưa, Đức Giê-su nói: “Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy.” (x.Ga 15, …26).

Trước giờ phút sinh ly tử biệt, Đức Giê-su đã “hứa” với các môn đệ rất, rất rõ ràng, rằng: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.” (x.Ga 14, 16-17).

Và, lời hứa đó đã được Đức Giê-su thực hiện. Ngài đã thực hiện ngay sau khi từ cõi chết trỗi dậy. Đó là vào chiều ngày thứ nhất trong tuần. Sự kiện này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an. (Ga 20, 19-23).

**
Theo Tin Mừng Gio-an thuật lại, thì: Sự kiện này xảy ra vào buổi chiều “ngày thứ nhất trong tuần”. Có thể nói, đây là một buổi chiều đen tối nhất trong cuộc đời của các môn đệ.

Sự đen tối đó được biểu hiện qua việc “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín”. Sự đen tối đó còn được bộc lộ qua việc “các ông sợ người Do Thái”. Và, đang lúc sự sợ hãi dâng lên cao độ, thì “Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông.”

Đứng giữa các ông, Ngài nói rằng: “Bình an cho anh em”. Chúc bình an cho các môn đệ xong, Đức Giê-su “cho các ông xem tay và cạnh sườn.”

Được xem tay và cạnh sườn, chính là được xem những chứng tích cuộc khổ hình của Thầy Giê-su. Thánh Gio-an tông đồ, một nhân chứng sống vào lúc đó, kể rằng: “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” (x.Ga 20, 20). Rồi, trong lúc các ông đang bộc lộ niềm vui, “Đức Giê-su lại nói với các ông: Bình An cho anh em”.

Hai lần chúc Bình-An-cho-anh-em, trong một buổi chiều đen tối và sợ hãi, đã làm cho các môn đệ: “như bừng tỉnh, lấy lại được bình tĩnh để nhận ra Chúa Phục Sinh đang ở giữa các ông”. Lm. I-nha-xi-ô Hồ Văn Xuân, Tổng Đại Diện Gp. Sài Gòn, qua một bài giảng, đã có lời chia sẻ như thế.

Lời chia sẻ của Lm. Tổng Đại Diện, có phần chắc là vậy. Có-phần-chắc-là-vậy, bởi hôm ấy các môn đệ đã được Đức Giê-su – “…thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22).

Nhận lấy Thánh Thần, tất nhiên, Thánh Thần sẽ giúp các ông “nhớ lại mọi điều Thầy Giê-su đã nói với các ông”. Và, khi các môn đệ “nhớ” những gì Thầy mình đã nói, thì đó chính là động lực giúp các ông bừng tỉnh và lấy lại bình tĩnh trước nỗi sợ hãi mà các ông đang phải đối diện.

Hôm ấy, các môn đệ không chỉ nhận-lấy-Thánh-Thần, các ông còn nhận được “bài sai” của Thầy Giê-su. Vâng, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ, rằng: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Và tiếp đó là, Ngài trao cho các môn đệ “bài sai” với lời phán truyền, rằng: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.

***
Ngày thứ 50, tính từ lễ Vượt Qua, theo quy định trong sách Lê-vi, người Do Thái có một ngày lễ, đó là Lễ Ngũ Tuần. Hôm ấy, vào ngày lễ này, Chúa Thánh Thần đã xuống trên các môn đệ cách long trọng và dồi dào. Biến cố này đã được tường thuật trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 2,1-11).

Sách Công Vụ Tông Đồ thuật rằng: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho.” (Cv 2, 4).

Hôm đó, đúng là các môn đệ đã nói-các-thứ-tiếng-khác. Nhiều người hiện diện nơi đó đã phải “kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình” (Cv 2,6). Một số người khác đã “sửng sốt thán phục và nói: Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê sao? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?”
Nói tóm lại, các dân thiên hạ, dù là dân “Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, A-xi-a”, hoặc là dân “Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, Roma hay Do Thái, người đảo Cơrêta hay người Ảrập”, v.v… tất cả mọi sắc dân đó đều nghe các môn đệ “dùng tiếng nói của (họ) mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2, 11).
Như chúng ta được biết, sách giáo lý Công Giáo xưa dạy rằng: có bảy (07) ơn Chúa Thánh Thần. Trong đó có “ơn sức mạnh”. Ơn sức mạnh (Fortitude, don de force) giúp ta thêm can đảm, khiến ta có đủ nghị lực để chịu đựng hoặc đối phó với mọi tình thế theo ý Chúa.

Nói đến ơn này để làm gì? Thưa, để nói rằng, dù tác giả sách Công Vụ không nói đến, nhưng chúng ta có thể tin rằng, Thánh Thần Chúa còn ban cho các môn đệ “ơn sức mạnh”.

Thật vậy, các môn đệ, tiêu biểu là tông đồ Phê-rô khi nhận được ơn-sức-mạnh đã không còn nhát đảm, như trước đây đã nhát đảm chối Thầy. Thay vào đó, ngài Phê-rô đã can đảm nói lên sự thật, sự thật về một Thầy Giê-su, chính là người “Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và là Đấng Ki-tô” (x.Cv 2, …36).

Chưa hết, hôm đó, nhờ ơn Thánh Thần Chúa, các tông đồ còn can đảm cáo trách mọi người “Hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội”.

Và quả thật, những lời cáo trách đó đã làm cho nhiều người “đau đớn trong lòng”. Thánh Thần Chúa đã tác động tâm hồn “khoảng ba ngàn người theo đạo”, cũng như sau này “cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được ơn cứu độ” (Cv 2,…47).

****
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Vâng, đây không phải là ơn dành riêng cho các tông đồ xưa, mà cũng là ơn dành cho mỗi chúng ta, là những người Kitô hữu, hôm nay.

Tuy nhiên, cách thức lãnh nhận Chúa Thánh Thần, hôm nay, không còn trực tiếp như các tông đồ xưa, nhưng là qua việc “đặt tay” của các tông đồ. (Bây giờ là các Giám Mục).

Sách Công Vụ có thuật lại rằng: “Các Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đã đón nhận lời Thiên Chúa, thì cử ông Phê-rô và Gio-an đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ, để họ nhận được Thánh Thần. Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.” (Cv 6, 14-17).

Thánh Phao-lô, một lần nọ đi qua miền thượng du đến Ê-phê-sô. Tại đây, ngài tông đồ gặp một số môn đệ và hỏi họ: “Khi tin theo anh em đã nhận được Thánh Thần chưa? Họ trả lời: Ngay cả việc có Thánh Thần chúng tôi cũng chưa hề nghe nói.”

Sau một vài trao đổi, ngài Phao-lô biết được những người này chịu “phép rửa của ông Gio-an (Tẩy Giả)”. Thế là tông đồ Phao-lô giảng dạy cho họ rằng: “Ông Gio-an đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giê-su.” Nghe nói thế, “Họ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su. Và khi ông Phao-lô đặt tay lên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri. Cả nhóm có chừng mười hai người.” (x.Cv 19, 1-7).

Ngày nay, có phần chắc, ai trong chúng ta cũng đã nhận lấy Chúa Thánh Thần (được gọi là Bí Tích Thêm Sức) qua nghi thức đặt tay của Giám Mục.

Có buồn không, khi chúng ta không nói được “tiếng lạ và nói tiên tri” như nhóm mười hai người đã được thánh Phao-lô đặt tay!

Câu trả lời dành cho mỗi chúng ta. Nhưng, đừng quên, về việc nói tiếng lạ, nói tiên tri, thánh Phao-lô có lời truyền dạy, rằng: “Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được ơn nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khoa học; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không.” (1Cor 13, 1-2).

Thánh Phao-lô nói như thế nghĩa là sao! Thưa, nghĩa là khi chúng ta đã nhận lấy Chúa Thánh Thần, điều quan trọng và cần thiết, đó là: “Hãy nhờ Thánh Thần mà tiến bước.”

Mà, cớ gì chúng ta không nhờ-Thánh-Thần-mà-tiến-bước, nhỉ! Nhờ-Thánh-Thần-mà-tiến-bước, thánh Phao-lô nói: “anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa”.

Không-còn-thỏa-mãn-đam-mê-của-tính-xác-thịt-nữa chính là dấu chỉ chúng ta phát huy “ơn hiểu biết”, hiểu biết rằng: “những việc do tính xác thịt gây ra, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa chè chén, và những điều khác giống như vậy, những kẻ làm những điều đó, sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (x. Gl 5, 19-21).

Thế nên, chúng ta “đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau”, thánh Phao-lô có lời mời gọi mọi người, như thế.

Hồi ấy, mọi người tín hữu ở Cô-rin-tô, ai nấy đều nghe thánh Phao-lô nói rằng: “Tôi nói cho anh em biết, chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa, mà lại nói: ‘Giê-su là đồ khốn kiếp!’; cũng không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí”. (x.1Cor 12, 3).

Thấy chưa! Phải “ở trong Thần Khí”. Đó là điều một Ki-tô hữu phải thể hiện, trong đời sống đức tin, của mình. Nói cách khác, chúng ta “hãy cùng Thánh Thần mà tiến bước”.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...