Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2010

Sự trông mong và niềm hy vọng...


Sự trông mong và niềm hy vọng.

Chỉ còn vài tuần nữa sẽ tới ngày Lễ Giáng Sinh và bước sang năm mới của Tây Lịch.. Có thể nói rằng cả thế giới đang háo hức chờ đợi ngày lễ trọng đại này. Chắc hẳn rằng nhiều người sẽ mua sắm, chưng diện, tiêu xài không thương tiếc cho một tuần cuối cùng của năm cũ. Chắc hẳn rằng nhiều người sẽ chờ đợi, trông mong và hy vọng sẽ nhận được những món quà quý giá từ người thân gửi tới. Và cũng chắc hẳn rằng có rất nhiều người đang chờ đợi, trông mong và hy vọng về một tương lai tươi sáng cho cuộc đời của mình.

Với người Kitô hữu. Một năm mới không phải được bắt đầu bằng ngày mùng một tháng giêng nhưng được khởi đầu bằng một danh từ thân quen :“Mùa Vọng”. Mùa Vọng chính là mùa của chờ đợi, trông mong và hy vọng.

Sự chờ đợi, trông mong và hy vọng của người Kitô hữu không chỉ dừng lại ở những sự việc liên quan đến cuộc sống vật chất nơi trần gian. Người Kitô hữu còn hướng tới những sự việc liên quan tới tinh thần, tâm linh.

Thật phải đạo khi người Kitô hữu chờ đợi ngày đó để tổ chức lễ kỷ niệm ngày Đấng Cứu Thế giáng trần.

Ngày mà có một “vì sao xuất hiện bên phương Đông” báo tin có một “Đức Vua dân Do Thái mới sinh”(Mt 2,2). Vị Vua đó được đặt tên là Giêsu. Ngài chính là “Emmanuel , nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”(Mt 1,23).

Ngày mà muôn dân muôn nước tái lập lại lời ngợi ca : “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”(Lc 2,14). Vâng, quả là “Phước cho nhân loại Chúa ta ra đời”...

Không chỉ chờ đợi để tổ chức một lễ kỷ niệm ngày giáng trần của Đức Giêsu một cách long trọng; người Ki tô hữu hôm nay còn trông mong và hy vọng về một ngày Đấng Cứu Thế sẽ đến lần thứ hai.

Sự trông mong và hy vọng đó được dựa vào chính lời Đức Giê su đã tâm tình cùng các môn đệ trong bữa tiệc ly rằng : “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy… Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng, và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được.” (Ga 16, 16…22).

“Thầy sẽ gặp lại anh em”. Đó chính là trọng tâm của Mùa Vọng mà hôm nay toàn thể Giáo Hội Công Giáo long trọng bắt đầu cử hành.

Một chút tâm tình…

Khi nói : “Rồi ít lâu nữa …”. Đức Giê su không khuyến khích người Kitô hữu tin vào lời bàn của những “Mao Tôn Cương thời đại” rằng thì là mà hôm nay…ngày mai …tháng này… năm tới… Thầy-sẽ-tái-lâm !!!

Khi Đức Giêsu nói : “Rồi ít lâu nữa”… Phải chăng đó là một hình thức nói nhấn mạnh !!! Và phải chăng chính cách nói đó đem lại cho chúng ta nhận thức rõ về việc phải luôn-sẵn-sàng và luôn-tỉnh-thức !!!

Qua bài diễn từ cánh chung; Đức Giêsu đã hé mở cho mọi người biết ngày Con Người quang lâm sẽ diễn tiến như thế nào.

Ngài đã khuyến cáo rằng : “Thời ông Nô-e thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” . Là một Kitô hữu; chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều biết rõ câu chuyện Đức Giêsu nêu trên…

Chỉ có một “cửa” duy nhất để chúng ta không nằm trong số “người bị bỏ lại” khi Đức Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết…

Vâng, đó chính là “hãy canh thức, vì (chúng ta) không biết ngày nào Chúa của (chúng ta) đến”. Và “hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút (chúng ta) không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24, 42… 44).
Một phút suy tư…
Bước vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng. Phụng Vụ Lời Chúa trích Tin Mừng Matthew đoạn 24 từ câu 37 đến câu 44.

Đọc qua đoạn Tin Mừng này…Nào là “khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi tất cả”. Nào là “một người được mang đi, một người bị bỏ lại”… Quả là một bầu khí đầy bi quan và tang tóc !!! Phải chăng Mùa Vọng là… Mùa Tận Thế !!!

Thưa không, với những suy nghĩ trên, phải nói rằng, đó là cách suy nghĩ của những kẻ đọc Tin Mừng theo kiểu “cắt xén”… Mùa Vọng phải được gọi là Mùa của sự trông mong và niềm hy vọng

Hãy trở lại trích đoạn Tin Mừng nêu trên. Đức Giêsu có nói rằng : “Con Người sẽ đến”. Đó chính là cơ sở để chúng ta tin tưởng chờ đợi, trông mong và hy vọng về ngày Đức Giêsu quang lâm !!!
Trong bài diễn từ cáo biệt; Đức Giêsu đã nói rằng : “Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-3).
Nếu lần thứ nhất; nơi hang đá Belem ; Con-Người-đã-đến; để trở thành nguồn ánh sáng và ơn cứu độ cho muôn dân. Thì lần thứ hai; Con-Người-sẽ-đến “đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tùy theo việc mình làm” (Kh 22,12).
Chúng ta tin như thế !? Vâng, nếu chúng ta tin; hãy mừng vui và hãy ngước lên trời cao mà khẩn nguyện rằng : “Maranatha ! Lạy Chúa Giêsu xin ngự đến” (Kh 22,20).

Petrus.tran



Thứ Bảy, 20 tháng 11, 2010

JESUS... Vua của đời tôi.

Đức Giêsu… Vua của cuộc đời tôi !!!



Ngày 20.01.2009 vào lúc 12g06’ trưa (giờ Washington). Một rừng người quanh Đồi Capitol ở thủ đô Washington DC nín lặng trong thời khắc lịch sử khi ông Barack Obama đặt tay lên cuốn Kinh Thánh tuyên thệ nhậm chức tổng thống thứ 44 của nước Hoa Kỳ.


Chức vụ tổng thống; lại là tổng thống Hoa Kỳ; là một chức vụ đầy quyền lực. Để chiến thắng trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng; ứng cử viên phải đối diện nhiều thách thức; những thách thức từ chính người cùng đảng phái; những thách thức từ đảng đối lập và cuối cùng là những thách thức trước những thủ đoạn thường thấy trong các kỳ vận động tranh cử.


Đó là chưa nói đến vị ứng cử viên đó phải bỏ ra hàng trăm triệu dollars để đánh bóng tên tuổi của mình qua những buổi diễn thuyết.


Cũng có những trường hợp; để trở thành vua chúa; để trở thành những vị tổng thống lãnh đạo quốc gia; có người đã dùng tới sức mạnh của đảng phái, của mánh khóe, của vũ lực và của quân đội… Đôi khi họ sẵn sàng giết chết vua của mình để đoạt ngôi vương… Sẵn sàng tiêu diệt vị đương nhiệm để lập tân chính phủ . Điều này thường xảy ra thời phong kiến…Và ngày nay không phải là không còn tái diễn…


…..


Thế nhưng, có một vị Vua đã lên ngôi vương. Ngài không dùng bạo lực. Không dùng mánh khóe thủ đoạn… Không dùng gươm đao… Không dùng quân đội “đảo chánh”… Không dùng sức mạnh đảng phái để “cướp-chính-quyền” !!!


Ngài đã lên ngôi vương bằng chính “tình yêu thương”. Một thứ tình yêu dám “hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu” (Ga 15,13). Vị Vua đó chính là Đức Giêsu Kitô.


Hãy trở về quá khứ của hai ngàn năm có lẻ. Vào thời hoàng đế Augusto trị vì. Tại thành vua David tức là Belem. Có một con trẻ đã được sinh ra và được đặt tên là Giêsu với lời tiên báo rằng : “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”(Lc 1,32-33).


Ba mươi ba năm sau; lời tiên báo đó đã thành sự thật. Nơi “Đồi Sọ”… Vâng, Đồi-Sọ… Giêsu đã đăng quang ngôi Vua.


Hãy trở về “Đồi Sọ” năm xưa và đồi Capitol hôm nay để chứng kiến hai cuộc đăng quang của hai vị “tân vương” !!! Về mặt địa lý hai ngọn đồi không xa lắm theo đường chim bay; nhưng về thời gian và không gian thì quả là “nghìn trùng xa cách” !!! Xa cách bởi tấm lòng con người !!!


Nếu ở đồi Capitol là một đám đông ước lượng hơn hai triệu người. Họ vui mừng trước ngày trọng đại của Obama vì chính họ đã bỏ lá phiếu để chọn ra vị tổng thống cho mình…


Thì ở “Đồi-sọ” cũng một rừng người… Nhưng không còn là những tiếng “Hosana ! Hosana ! Chúc tụng vua Israel”… Thay vào đó là những tiếng la hét… chế riễu… nhạo cười : “Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn” (Lc 23,35).


Barack Obama sau lễ nhậm chức; ông ta ung dung “nhập hộ khẩu” vào số nhà 1600 đại lộ Pennsylvania; nơi tọa lạc Tòa Bạch Ốc. Đó là một biệt thự sơn màu trắng và được xây bằng sa thạch theo kiểu tân cổ điển với tất cả tiện nghi bậc nhất thế giới.


Thảm hại thay cho Tân Vương Giêsu… Là Vua nhưng không có ngai… Vương miện là một mão gai… Và thập giá chính là “Tòa Bạch Ốc” của Ngài… Kết thúc lễ đăng quang là một án tử “đóng đinh Người” vào thập giá… Lại còn mỉa mai bằng cách viết trên đầu Ngài dòng chữ “Đây là Vua…”!!!


Thật ra, cách mà con người đã tổ chức lễ đăng quang cho Ngài lại nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu – trong những ngày ra đi loan báo Tin Mừng - Ngài đã từng nói rằng : “Như ông Mose đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như thế…”


Phải-được-giương-cao-như-thế !!! Đức Giêsu nói tiếp rằng : “Để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,15).


Vô tình họ đã góp phần thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Vô tình họ đã suy tôn Đức Giê-su “Là VUA”…


Một chút tâm tình…


Thực ra; không đợi họ suy tôn Đức Giêsu. Chính “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 9)…


Tặng-ban-danh-hiệu-trổi-vượt-trên-muôn-ngàn-danh-hiệu !!! Vâng, có danh hiệu nào vượt trên danh hiệu “Vua muôn Vua… Vua tình yêu”!!! Và ai… ai là người xứng đáng để nhận lãnh danh hiệu đó nếu không phải là Đức Giêsu – Con Thiên Chúa !!!


Hãy nhìn và hãy so sánh !!! Đang khi có người “bức tử” vua để tiếm đoạt ngôi vua. Giết người để làm vương… làm tướng !!! Thì Vua Giêsu : “hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”(Pl 2,8). Chỉ vì để chuộc tội nhân loại.


Hãy nhìn và so sánh… Ai xứng đáng với danh hiệu “Vua tình yêu” ?! Barach Obama với khẩu hiệu ăn khách “Change, Yes, we can” (Thay đổi, vâng, chúng ta có thể !) mà nhờ đó ông đã tranh đoạt thắng lợi chiếc ghế Tổng Thống… Vâng, hơn một năm trôi qua “nhãn hiệu Obama” và lời hứa hẹn “thay đổi”… nhưng hôm nay đã thay đổi được những gì !?


Trong khi đó, Đức Giêsu, chẳng cần tuyên ngôn, chẳng cần khẩu hiệu, Ngài đã “change” cả thế giới. Thay đổi cả một xã hội con người. Từ chỗ con người mất “quyền-công-dân” Nước Trời… Nay “những ai tin vào danh Người” thì được trả lại “quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12).


Một tên gian phi đã “được ở với (Vua Giêsu) trên Thiên Đàng” là bằng chứng sống động; cho thấy Đức Giêsu đã thực hiện đúng lời rao giảng của mình… “Tôi đến là để chiên được sống và được sự sống sung mãn”…


Thêm một nhân chứng sống động về sự đổi thay đó chính là tông đồ Phaolô. Ngài đã làm chứng rằng : Trước kia; khi còn “trong đạo Do Thái” – “tôi đã quá hăng say bắt bớ và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Chúa”…


Nhưng sau khi gặp Đức Giêsu trên con đường định mệnh – con đường Damas - thánh nhân đã “thay đổi” não trạng trên. Thay vì tiếp tục truy bắt những người theo Đức Giêsu. Ngài nhiệt thành trong việc “loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Pl 1,16).


Vâng, qua những gì Đức Giêsu đã nói và đã thực hiện. Thật phải đạo khi toàn thể Giáo Hội Công Giáo hôm nay đồng thanh cất cao giọng hát : “Ôi Giêsu ! Chúa Giêsu là Vua. Chúa muôn thuở là Vua muôn vua”.(trích nhạc phẩm : Giêsu Vua – tác giả Huyền Linh).


Một phút suy tư…


“Ông Giêsu ơi ! khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Nếu gọi đây là một lời cầu nguyện !!! Vâng, chắc hẳn không có lời cầu nguyện nào đẹp hơn lời cầu nguyện này...


Người gian phi; tuy chưa có một ngày là môn đệ Đức Giêsu; nhưng anh ta đã cảm nghiệm được rằng; vấn đề không phải là xin Đức Giêsu giải thoát mình khỏi thập giá… Nhưng “trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa”(MT 6,33).


Thật vậy; chỉ khi được – như lời tông đồ Phaolô nói – “đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái, trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi” (Cl 1,…13-14).


Hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng và hãy tự hỏi rằng : Có thật sự chúng ta tin rằng “Nhờ máu (Đức Giêsu) đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất” trong đó có chúng ta !!! (Cl 1,…20).


Chỉ khi tin như thế; chúng ta mới có thể trở thành “thần dân” của Ngài. Chỉ khi là thần dân của Đức Giêsu; chúng ta mới có thể cất tiếng gọi Ngài là Vua. Vua-của-tôi !!!


Một khi chúng ta gọi Ngài là “Vua của cuộc đời tôi”… Vâng, hãy tin rằng; trong ngày Ngài quang lâm; chúng ta “sẽ được ở với (Đức Giêsu) trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).


Petrus.tran  







Thứ Bảy, 13 tháng 11, 2010

HÃY KIÊN TRÌ và đừng sợ hãi !!!

Cn 33 C : Hãy Kiên Trì và đừng sợ hãi !!!
Ngày 13.11.2009; hãng Columbia Picture cho ra mắt một cuốn phim với tựa đề là “2012”. Dựa vào sự kiện phát hiện bộ lịch của người Maya cổ, một dân tộc từng sống tại châu Mỹ và được cho là khá phát triển cho đến khi bị diệt vong vào khoảng năm 900. Họ đã để lại nhiều di sản, trong đó có bộ lịch cổ mà ngày cuối cùng trong đó là vào đúng ngày 21.12.2012 theo niên lịch hiện đại… Theo nhiều người, người Maya cổ đã tiên đoán đó là ngày kết thúc của nhân loại... Ngày tận thế !!! (nguồn : internet).

Qua bộ phim 2012; đạo diễn Roland Emmerich đã mô tả hình ảnh về một ngày tận cùng của trái đất bằng những thước phim đầy kinh hoàng và kịch tính đến nghẹt thở trong suốt chín mươi phút trình chiếu…

Có thể nói rằng; dư âm của cuốn phim thật là khủng khiếp. Nó đã gây hoang mang; lo lắng và ám ảnh hàng triệu triệu người, trong đó đa phần là giới trẻ. Nhiều bạn trẻ sau khi xem xong bộ phim đã “xây xẩm mặt mày”… đầu óc lúc nào cũng hoang mang lo sợ và nghĩ rằng; sự sống của con người sẽ biến mất trong một ngày không xa !!!

……

Không riêng gì những người thời đại hôm nay. Các môn đệ của Đức Giêsu năm xưa; khi được Thầy của mình nói đến Ngày-tận-thế; cũng không khỏi băn khoăn và tự hỏi “cứ điềm nào mà biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế !” (Mt 24,…3).

Đối với Đức Giêsu, sự cần thiết để biết “bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra” không quan trọng cho bằng “đến Ngày phán xét (mọi người) sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói (hay đã làm)” mới là điều cần quan tâm đến !!!

Ngày tận thế hay còn được gọi là Ngày phán xét là điều nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Và khi nói đến chương trình cứu độ của Thiên Chúa; không thể không nói đến tình yêu thương của Người.

Tình yêu của Thiên Chúa đã được biểu lộ qua việc Người “đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Trong bối cảnh con người khoe khoang về việc Đền Thờ được “trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng” mà lại quên đi ý nghĩa đích thực của việc thờ phượng Thiên Chúa là phải thờ phượng “trong thần khí và sự thật”; Đức Giêsu đã phải đau buồn mà nói rằng “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng…”. Vào ngày ấy – ngày tận thế - nó sẽ chẳng còn ý nghĩa nào trước mặt Thiên Chúa… Ngài nói tiếp rằng : Nó sẽ “bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”(Lc 21,6)…

Vấn đề không phải là cần biết ngày-và-giờ nào “Thầy quang lâm”! Điều quan trọng và cũng là tâm điểm của thông điệp mà Đức Giêsu muốn gửi đến các môn đệ; chính là hãy “bền chí đến cùng” tin vào Con Một tức là “tin vào danh Người” !!! Và dẫu cho “vì danh Thầy, anh em bị thù ghét” thì cũng “đừng sợ hãi”…

Nếu ngày ấy đến – ngày Thầy quang lâm – là ngày mai hay ngày mốt… thậm chí là nhiều năm sau nữa… mà anh em không còn “sự kiên trì” chờ đợi !!! Hỏi làm sao anh em có thể “giữ được mạng sống mình”…

Hãy kiên trì và đừng sợ hãi. Đức Giêsu đã khuyến cáo rằng : “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” trong Ngày phán xét…

Một chút tâm tình…

“Ngày tận thế”… Với cái nhìn của người đời “trái đất sẽ nổ tung”… Và rằng “ tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời sẽ xếp thẳng hàng dẫn đến cộng hưởng lực hấp dẫn làm suy yếu từ trường Trái đất và bức xạ Mặt trời sẽ quét sạch mọi sự sống”(nguồn internet).

Người đời còn tưởng tượng rằng : “đại dương sẽ nuốt chửng toàn bộ đất liền bởi Trái Đất sẽ nghiêng tới 180 độ. Công viên quốc gia Yellowstone bị gãy gập như một chiếc bánh rán vì bị hút vào tâm Trái Đất”.(theo mô tả trong phim 2012).

“Ngày tận thế”… Đối với những người tin vào Thiên Chúa, đó chính là ngày “Đức Giêsu tái lâm”. Ngày “đổi mới mọi sự”. Ngày mà “Từ trời… từ nơi Thiên Chúa mà xuống... Ngài sẽ lau sạch nước mắt. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (Kh 21,2…4).

“Ngày tận thế”… Đối với những người tin vào Đức Giêsu Kitô; cũng còn được gọi là “Ngày phán xét”. Ngày Thầy Chí Thánh Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và kẻ chết”…

Thánh Thần Chúa; qua miệng lưỡi Ngôn sứ Malakhi; đã phán rằng “Vì này Ngày ấy đến, đốt cháy như hỏa lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy sẽ đến thiêu rụi chúng - ĐỨC CHÚA các đạo binh phán – không còn chừa lại cho chúng một rễ hay cành nào. Nhưng đối với các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo tia sáng chữa lành bệnh” (Ml 3, 19-20)…

“Những kẻ kính sợ Danh Chúa”. Vâng, Tông đồ Phaolô gửi đến một lời khuyên rằng : “Đừng sờn lòng nản chí” (2Tx 3,…13).

Một phút suy tư…

Trở lại bộ phim “2012”. Một cảnh quay mô tả “hình ảnh Tượng Chúa Cứu Thế ở Rio De Janeiro - Brazil sụp đổ trước hàng ngàn con người đang tuyệt vọng khẩn cầu”!!! Phải chăng hình ảnh đó một cách ẩn dụ mang tính tâm linh và tôn giáo mỉa mai rằng Chúa Giêsu bị đổ hàm ý rằng con người bây giờ không còn Chúa Trời bên cạnh trợ giúp nữa !!!

Đối diện trước những “tà thuyết” cho rằng “Thiên Chúa đã chết”… và rằng niềm tin vào “Đức Giêsu tái lâm” chỉ là huyền thoại !!! Vâng, là “những kẻ tin vào Danh Thầy Giêsu” chúng ta sẽ đối phó thế nào về những tà thuyết đó !? Phải chăng là hãy chuyên cần tham dự Phụng Vụ Thánh Thể và siêng năng nghe lời Chúa qua Thánh Kinh !!!

Đúng vậy, trong Phụng Vụ Thánh Thể, chúng ta không chỉ tuyên xưng “Chúa đã chết, Chúa đã sống lại, trong vinh quang mai Ngài lại đến..” mà chúng ta còn được – như lời Thánh Phaolô nói : “chính Chúa Kitô sống trong tôi”…

Chính-Chúa-sống-trong-tôi cùng với lời phán hứa của Ngài rằng “Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,2-3).

Chúng ta đã nghe lời Chúa phán hứa nhưng chúng ta đã đặt niềm tin vào Ngài chưa !? Nếu đã tin… Vâng, nếu đã tin, đừng-sợ-hãi khi phải tuyên xưng Danh Thầy trước mặt thiên hạ.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chính là những tấm gương mẫu mực cho mỗi chúng ta. Chính niềm tin vào Danh Chúa, các Ngài đã vượt qua sợ hãi trước bạo quyền, bạo lực. Chính sự kiên trì vào lòng cậy trông, các Ngài đã “từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu” (trích nhạc phẩm : Bài Ca Nghìn Trùng – Tác giả Kim Long).

Hãy nhớ lời Đức Giêsu đã truyền dạy : “Có kiên trì (trong niềm tin), anh em mới giữ được mạng sống mình” trong ngày Ngài quang lâm.
petrus.tran



Thứ Bảy, 6 tháng 11, 2010

BÊN KIA THẾ GIỚI !!!

BÊN KIA THẾ GIỚI…


Sách Giảng Viên có chép rằng : “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời. : một thời để chào đời, một thời để lìa thế” (Gv 3,1-2). Thật vậy; trải qua suốt dòng lịch sử con người. Mọi người đều có sinh và có tử. Lần đầu tiên sự chết đã được nhắc đến chính là lúc sự sống của con người bắt đầu xuất hiện.


Thánh Kinh thuật lại rằng : “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật… Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eden , để cày cấy và canh giữ đất đai. Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng : “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn NGƯƠI SẼ PHẢI CHẾT”.(St 2,7…16-17).


Con người đã ăn và con người đã phải chết. Sự trừng phạt cho tội bất tuân chính là cái chết. Đức Chúa đã phán với con người rằng : “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”(St 3,…19).

Sự chết đã ám ảnh suốt chiều dài lịch sử của con người. Để rồi với tâm trạng khắc khoải không nguôi; con người luôn tự hỏi rằng : "Ðiều gì xảy ra sau khi tôi chết?"


Mỗi thời đại; tùy theo niềm tin của mình; con người đã có những câu trả lời khác nhau cho nan đề nêu trên. Một nhà thơ Việt Nam ; khi nghĩ tới cái chết đã nghẹn ngào thốt lên rằng : “Hãy nói về cuộc đời; Khi tôi không còn nữa… Sẽ lấy được những gì ! Về bên kia thế giới….” (Thơ Du Tử Lê).


“Về bên kia thế giới…. Sẽ lấy được những gì ! Khi tôi không còn nữa…”… Vâng, trong ba năm rao giảng Tin Mừng Cứu Độ; Đức Giê-su; qua các bài giảng bằng các dụ ngôn; Ngài đã giải tỏa những thắc mắc, những nan đề về một thế giới bên kia; thế giới của sự chết…


Dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó” đã hé mở cho mọi người thấy chuyện gì đã và đang xảy ra ở “thế giới bên kia” !!


Chính dụ ngôn này Đức Giê-su đã gửi đến mọi người một thông điệp rằng “có sự sống đời sau”. Bởi nếu không có sự sống đời sau; chết là hết…; thì làm gì có chuyện anh Lazaro “được thiên thần đem vào lòng ông Apraham” sau khi anh ta đã chết !!


Thế nhưng; ở vào thời đại nào; vẫn có người không tin có sự sống đời sau. Hôm đó “có mấy người… đến gặp Đức Giê-su”. Họ là ai ? Thuộc nhóm nào !? Và đến gặp Ngài để làm gì !?


Thưa rằng : Họ thuộc nhóm Sadoc. “Nhóm này chủ trương không có sự sống lại” (Lc 20, 27)…. Họ đến chất vấn Đức Giê-su. Có lẽ họ nghe được lời Đức Giê-su tuyên bố rằng : “Tôi là bánh trường sinh… Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” Và rằng : “…Tôi sẽ cho họ sống lại vào ngày sau hết”(Ga 6, 54). Vâng, với lời tuyên bố trên; làm sao Đức Giê-su có thể thoát khỏi “tầm ngắm” của họ.


Khi đã diện đối diện với Đức Giê-su. Họ lên tiếng rằng : Giả sử một cô gái có bảy đời chồng… Bảy lần tái giá với bảy anh em trai; đúng luật Mose; bảy đời chồng chỉ vì hết người anh chết; đến người em chết… Lần lượt bảy người đều chết; mà chưa kịp có con. Rồi đến lượt nàng cũng về bên-kia-thế-giới.

Ai ! Ai sẽ là chồng cô ta trong ngày kẻ chết sống lại !!! Nhóm Sa doc… Họ… họ muốn “triệt buộc” Đức Giê-su qua câu hỏi đó…


Thật ra thì không cần trả lời câu hỏi của nhóm Sadoc này. Ngay tự bản thân, họ đã không tin có đời sau; không tin có sự sống lại; thì nói như câu nói được Đức Giê-su đặt vào câu chuyện dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Lazaro” thì đúng là : “người chết có sống lại, (về nói cho họ biết người-đàn-bà-ấy-sẽ-là-vợ-ai), họ cũng chẳng tin”… Tuy nhiên, Đức Giê-su vẫn hé mở cho họ biết rằng; cuộc sống đời sau; không còn chuyện “cưới vợ cũng như lấy chồng”. (Lc 20,35).

Một chút tâm tình…


“SADOC…” Nguyên ngữ Do Thái là tsaddiqim, có nghĩa những người công chính. Tên gọi Sadoc lấy từ tên thượng tế Zadok thời vua David ngự trị.(1V 1:26). Trong thời điểm đó; có rất nhiều nhiều người trong nhóm Sadoc là tư tế.


Thời Đức Giêsu; họ là những người giàu và có thế lực; ở lãnh vực chính trị cũng như tôn giáo. Hội đồng tôn giáo của đền thờ Giêrusalem cũng như Hội Đồng dân sự Do Thái đều bị chi phối bởi thế lực và tiền bạc của nhóm Sadoc. (trích nguồn : internet).


Là tư tế trong Đền Thờ. Đương nhiên họ phải tin rằng “Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacop”(Lc 20,37). Chỉ tiếc là họ chỉ công nhận “ngũ kinh”; năm cuốn đầu bộ Cựu Ước. Phải chi họ đọc toàn bộ sách cựu ước !!!


Kinh Thánh có chép rằng : “Con người là chi; mà Chúa cần nhớ đến. Phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm ? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy”(Tv 8,5-6).


Nếu… nếu cuộc sống đời này Đức Chúa “cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy; ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên; cho làm chủ công trình Chúa sáng tạo; đặt muôn loài muôn sự dưới chân”. Thì ở đời sau “với những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau”; chẳng có gì ngăn cản Đức Chúa; Ngài sẽ cho con người được “ngang hàng với các thiên thần” (Lc 20,36) .


Nếu nhóm Sadoc đọc đoạn Thánh Vịnh trên. Và nếu họ đọc sách Macabe. Vâng, chắc hẳn họ sẽ không có cuộc tranh luận ngớ ngẩn với Đức Giê-su.


Sách Macabe có kể rằng “Có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ”. Vua Antiokho bắt họ phải “ăn thịt heo là thức ăn luật Mose cấm”(2Mcb 7,1). Đối với người Do Thái; luật Mose chính là luật của Đức Chúa. Chính vì thế bảy anh em không thi hành lệnh vua. Thế là vua ra lệnh giết họ. Một người trong bảy anh em trước khi chết đã lớn tiếng nói rằng : “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mcb 7, 9).

“Sống lại để hưởng sự sống đời đời”… Nếu nhóm Sadoc đọc toàn bộ Kinh Thánh. Vâng, chắc hẳn họ sẽ tin có sự sống đời sau và chắc chắn họ sẽ “dựa vào Lời Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại”(2Mcb 7,14).


Một phút suy tư…


Là một Kitô hữu; chắc hẳn mỗi chúng ta đều đã hơn một lần tuyên xưng rằng : “Tôi tin sự sống lại. Và sự sống đời sau”.


Với nhóm Sadoc xưa và những người vô thần duy vật thời nay, thì niềm tin vào sự-sống-lại-và-sự-sống-đời-sau chỉ là một huyền thoại; một niềm tin mơ hồ…


Giống như nhóm Sadoc xưa; những vị “sadoc thời @” hôm nay cũng ra sức tìm cách đạp đổ … bới-lông-tìm-vết… vạch-lá-tìm-sâu… cắt xén lời nói... tuyên truyền xuyên tạc v.v… để hạ bệ niềm tin đó…


Và có thể nói rằng; sự bùng phát của internet đã giúp cho thế và lực của những vị “sadoc@” hôm nay mỗi lúc một “quái” hơn, tinh vi hơn, thủ đoạn hơn… Phải nói rằng những thủ thuật “photoshop” đã khiến không ít Kitô hữu chao đảo niềm tin của mình…


Để niềm tin được tồn tại và không bị “cuốn theo chiều gió”; những làn gió văn-hóa-độc-văn-hóa-của-sự-chết… chúng ta sẽ phải làm gì !?


“Ơn Chúa đủ cho chúng ta”.. Thánh Phaolô khẳng định tiếp rằng : “Chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô… Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta”.(2Tx 2,16).


“Thánh Thể và Thánh Kinh” chính là kho tàng “ân sủng” đó. Thật vậy, khi lãnh nhận “Thánh Thể” chính là lúc chúng ta lãnh nhận “Mình-và-Máu-Thánh-Chúa” – Đấng đã chết và đã Phục Sinh vinh hiển. Đấng đã phán hứa rằng : “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời. Và tôi sẽ cho họ sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54).


Và khi suy niệm Thánh Kinh; chính là lúc chúng ta nghe rõ tiếng nói của Thầy Chí Thánh – Ngài chính là “niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp” của chúng ta. (2Tx 2,16).


Chúng ta đã nghe Lời Chúa nhưng đã đặt lòng tin nơi Ngài chưa!? Nếu đã đặt lòng tin nơi Ngài. Vâng, một lần nữa hãy cùng toàn thể Hội Thánh mà cất tiếng tuyên xưng rằng : “Tôi tin sự sống lại. Và sự sống đời sau”. Amen.


Petrus.tran
























Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...