Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

Gia đình... Ôi! hai tiếng yêu thương.

Gia đình… Ôi! hai tiếng yêu thương.

Xóm tôi là một xóm lao động nghèo. Trước kia, nơi đây là những cánh đồng ruộng, nhà cửa thưa thớt. Thế nhưng, kể từ khi có chính sách mở cửa, nhiều nhà đầu tư đến biến đồng ruộng thành khu chế xuất, khu công nghiệp, thế là cư dân địa phương đua nhau cất nhà trọ.

Những người thuê nhà trọ đa số là công nhân, cũng có một số ít, họ làm nghề tự do như: thợ hồ, bán vé số, bán băng dĩa (dĩ nhiên là băng dĩa lậu).

Tập tục của người Việt Nam là “buôn có bạn, bán có phường”, vì thế, những người làm nghề tự do, họ quy tụ lại với nhau mướn những căn phòng trọ gần nhà tôi. Hơi dài dòng, nhưng đó là mấu chốt vấn đề mà tôi sẽ kể sau đây.

Vâng, sống gần họ, có nhiều điều hết sức bực bội, nhất là những khi họ đi bán về, nào là tiếng hò hét bởi nhóm người ăn nhậu, tiếng chồng chửi vợ, tiếng vợ cãi chồng, tiếng karaoke ầm ĩ. Đó là chưa nói tới lâu lâu lại xảy ra một vụ “đánh ghen”. Nói chung là rất mất trật tự.

Thế nhưng, hôm giữa tuần vừa qua, khoảng từ ngày 17 đến ngày 19/12/2012, tự nhiên, xóm tôi yên ắng hẳn. Theo nguồn tin của thông tấn xã “bà tám” cho biết, họ, những người ở trọ, lần lượt rủ nhau về quê.

Về quê làm gì! Đã tết đâu mà về quê! Xin thưa, cũng với nguồn tin trên, thì ra, vì họ sợ, sợ ngày 21/12/2012 sắp tới sẽ là “ngày tận thế”. Họ nói với nhau rằng, về quê, nếu có chết thì cùng chết chung với gia đình.

Cùng-chết-chung-với-gia-đình!... Gia đình… Ôi! hai tiếng yêu thương. Nhớ về biến cố 30/04/1975, nhiều người đã từ bỏ cơ hội di tản cũng chỉ vì: Ôi! yêu thương hai tiếng “Gia đình”.

**

“Gia đình”. Vâng, Thiên Chúa, trong chương trình sáng tạo, Người đã tạo dựng một gia đình hoàn thiện , gia đình Adam-Eva. Người đã đặt gia đình Adam-Eva vào một nơi gọi là vườn Eden. Tại đây, Thiên Chúa đã cho họ làm bá chủ “cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”.

Nhưng than ôi! Gia đình Adam-Eva đã phạm tội bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa. Sự phạm tội của Adam-Eva không chỉ dẫn đến sự chìa lìa với Thiên Chúa mà còn xảy ra biết bao sự khủng hoảng trong gia đình.

Sự khủng hoảng đầu tiên, đó là, Adam và Eva mất đi sự gắn bó “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Mất đi sự gắn bó, gia đình Adam-Eva mất đi “hai tiếng yêu thương”. Mất đi hai tiếng yêu thương, “gia đình Adam-Eva” trở thành “chiến trường Cain-Abel”… để rồi kết thúc là một án mạng.

Kể từ đó, khi nói tới hai tiếng “gia đình”, người ta thường tự hỏi. “… là đường đưa ta tới thiên đàng hay đưa tới địa ngục” (Honoré de Balzac)

***

Không! Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh chép, Người “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới dất” (Ep 3, 14). Cho nên, gia đình vẫn là nơi được Thiên Chúa chúc phúc, như xưa kia Người đã chúc phúc cho Adam, rằng “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó”. Gia đình vẫn là nơi được Thiên Chúa ban phúc lành, như xưa kia Người đã “ban phúc lành cho ông Noe và các con ông” (St 9, 1)

Chính vì thế, “gia đình… hai tiếng yêu thương” vẫn nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian, không như một “Ngộ Không huyền thoại” với bảy mươi hai phép thần thông biến hóa, nhưng bằng hình hài một hài nhi được sinh ra tại Belem bởi một Trinh Nữ tên là Maria và người cha là Giuse.

Vâng, sự vâng lời của Đức Maria “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” và sự vâng phục của Thánh Giuse, sẵn sàng “làm như sứ thần Chúa dạy” đã gây chấn động toàn cõi Giêrusalem, chấn động bởi, Nazareth, nơi được cho là “làm sao có cái gì hay được” lại có một “Gia Đình Thánh – Thánh Giuse, Thánh Maria và Thánh Tử Giêsu”.

Gia-Đình-Thánh – không “thánh” bởi những “vần hào quang” mà các vị họa sĩ, khi vẽ, thường tô điểm trên khuôn mặt các Ngài. Gia-Đình-Thánh – không “thánh” do những lời đồn đãi bởi những “ngụy thư” mang tính chất “huyền thoại”.

Gia-Đình-Thánh – “thánh” bởi chính đời sống đức tin, đức cậy và đức mến.

Vâng, hãy trở về làng Nazareth cổ kính năm xưa mà xem, có gia đình nào “sống đức tin” như gia đình Giuse-Maria-Giêsu!

Thật vậy, dẫu biết rằng Giêsu, “Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”, nhưng không vì thế mà Maria-Giuse lại có thái độ “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Trái lại, các Ngài vẫn trung thành với lề luật do “Đấng Tối Cao”, qua Apraham hoặc Mosê, đã công bố.

Luật Đấng-Tối-Cao dạy rằng “mọi đàn ông con trai… sẽ phải chịu cắt bì”, Hài Nhi Giêsu-Con Đấng Tối Cao, khi đủ tám ngày, đã “làm lễ cắt bì” (Lc 2, 21).

Luật Đấng-Tối-Cao dạy “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, ông bà Giuse-Maria đã giữ đúng luật “đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa”

Thế nhưng, chính hôm cả gia đình Giuse-Maria-Giêsu “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua” người ta mới có thể thấy đức tin, đức cậy và đức mến nơi Gia-Đình-Thánh vững mạnh như thế nào.

Chuyện kể lại rằng, hôm đó, sau khi “xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêsusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết”. (Lc 2, 43).

Ôi! Phải chăng cha mẹ Đức Giêsu vô tâm, thiếu trách nhiệm với con cái?

Thưa không. Chuyện là thế này, Đền thờ Giêrusalem có bốn cổng, hai cổng dành cho nữ và hai cổng dành cho nam. Khi vào, nam và nữ phải đi đúng cổng quy định. Riêng trẻ em, có thể đi bên nào tùy thích. Cho nên, việc ông bà Giuse-Maria “cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành” là điều không có gì đáng trách.

Mà có gì phải đáng trách chứ! Hãy nhìn xem, sau khi tìm kiếm con giữa đám bà con và người thân thuộc… “Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm” (Lc 2, 45). Hãy nhìn xem, cha mẹ Đức Giêsu đã phải “cực lòng tìm con” như thế nào!

Nếu… nếu cần trách… Vâng, thưa quý vị, hãy trách những “ai đó” đã dùng lời con trẻ Giêsu nói với Mẹ Maria rằng, “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”, để lấy đó như là lý lẽ biện minh cho việc “không cần coi ‘bà Mari và ông Giôsép’ như là mẫu mực của đức tin, đức cậy và đức mến”.

Đúng… đúng là “bà Mari và ông Giôsép” đã “không hiểu lời Người vừa nói”, nhưng, liệu điều đó có tác động xấu đến đức tin của hai ông bà? Thưa không, hãy nhìn xem, Đức Maria và Thánh Giuse tuy không hiểu, nhưng các Ngài vẫn đặt niềm tin vào lời “Con Đấng Tối Cao”… Bởi tin, nên các Ngài đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2, …51).

Khép lại câu chuyện gia đình Giuse-Maria-Giêsu “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua”, thánh sử Luca ghi lại rằng, Đức Giêsu đã “cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài”. Người “càng ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta”…

Vâng, một gia đình như thế, quả là một gia-đình-thánh, một gia đình gói ghém trong “hai tiếng yêu thương”.

****

Là một Kitô hữu, một người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta đã nhìn, đã lấy gia đình Giuse-Maria-Giêsu như là mẫu mực cho cuộc sống gia đình của chúng ta?

Hay chúng ta cho rằng, mô hình “gia đình Giuse-Maria-Giêsu” thật khó thích hợp với chúng ta, chỉ là những phàm nhân, đầy yếu đuối và tội lỗi, làm sao có thể so sánh với một gia đình có hai “vị thánh Maria-Giuse” và một vị là “Con Đấng Tối Cao”!

Ôi! Nghĩ như thế có quá thiển cận không? Có đấy. Chữ “thánh” được đứng trước tên Maria và Giuse là do chúng ta “nhét” vào, sau khi các Ngài không còn ở trần thế. Đối với các tông đồ, Đức Maria và thánh Giuse chỉ là cha mẹ Đức Giêsu, là ông bà Giuse-Maria.

Bàn tới, bàn lui cho vui vậy thôi. Chứ các Ngài quả là “thánh” nhưng cách trở nên “thánh” của các Ngài, chúng ta không thể nói là không noi theo được. Vâng, rất giản dị, chỉ hai chữ “vâng lời” đối với Đức Maria và “vâng phục” đối với Thánh Giuse.

Đừng nghĩ rằng, Thiên Chúa cũng sẽ bắt chúng ta “vâng lời và vâng phục” Người giống như cách Đức Maria và thánh Giuse xưa kia đã “vâng lời và vâng phục” .

Hôm nay, điều chúng ta cần vâng lời và vâng phục, chính là “tuân giữ các điều răn của (Thiên Chúa) và làm những gì đẹp ý Người” (1Ga 3, …22).

Thế nào là làm đẹp ý Người? Vâng, tác giả sách Huấn Ca cho biết rằng, đẹp-lòng-Đức-Chúa, đó là, đừng bao giờ làm cho gia đình mất đi bầu không khí yêu thương “anh em hòa thuận, láng giềng thân thiết, vợ chồng ý hợp tâm đầu” (Hc 25, 1).

Chúng ta ước ao có được cả ba điều đó trong gia đình chúng ta? Nếu chúng ta thật sự ước ao, chắc chắn khi nói tới “Gia đình”, chúng ta sẽ không ngần ngại mà thốt lên rằng, “Gia đình… Ôi! Hai tiếng yêu thương”.

Petrus.tran





































Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Ai là người "thật có phúc"!

Ai là người “thật có phúc”!


Chỉ còn đúng một ngày, tính từ Chúa Nhật 23/12/2012, sẽ là ngày đại lễ Giáng Sinh. Có thể nói, đây là một ngày lễ làm bận rộn tâm trí của không biết bao nhiêu con người.


Có người hối hả, vội vã cho việc mua sắm, tiêu xài. Có người lo tìm kiếm những món quà đắc ý. Có người dồn hết tâm trí cho việc tổ chức những buổi tiệc linh đình, hầu để chứng tỏ đẳng cấp của mình trong xã hội. Lại có người hối hả chọn lựa cho mình những tour du lịch giải trí cho một tuần lễ cuối cùng của năm cũ.


Tâm lý chung là mọi người chỉ nghĩ đến ăn uống, tiệc tùng, sắm sửa, quà cáp v.v… chỉ quan tâm đến những thú vui thuộc trần gian mà quên đi ý nghĩa đích thực của lễ Giáng Sinh.


Với người Công Giáo thì khác hẳn. Lễ Giáng Sinh là ngày “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Sự vinh danh đó không thể và không cho phép bị cuốn hút vào những thú vui trần gian chóng qua, và sự bình an đó phải được thực hiện bằng chính tình yêu thương qua việc phục vụ tha nhân.


Chính vì thế, Chúa Nhật thứ IV mùa vọng hôm nay, cũng là tuần lễ cuối cùng để chuẩn bị đại lễ Giáng Sinh, Giáo Hội, qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, đã đưa ra một con người thật, thật chứ không là giả tưởng, như là mẫu mực cho tình yêu thương qua sự phục vụ. Con người đó chính là Đức Maria, một con người thật có phúc.


Sở dĩ, Đức Maria được coi như là mẫu mực cho tình yêu thương qua sự phục vụ một cách ưu việt là vì cuộc sống của Mẹ đã chứng minh điều đó. Cuộc sống đó đã được ghi chép lại trong Tin Mừng của Thánh Luca qua trình thuật: “Đức Maria viếng thăm bà Elizabeth” (Lc 1, 39-45).




**


Vâng, như chúng ta được biết, khi đó Đức Maria đã cưu mang Chúa Giêsu nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần.


Thoạt tiên, khi được sứ thần Gabriel loan báo Mẹ đã được Thiên Chúa chọn để cưu mang Đấng Cứu Thế - Đấng “sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”, Đức Maria không khỏi không “bối rối”.


Sự bối rối của Đức Maria cũng là sự bối rối thường tình, Thiên Chúa là Đấng vô hình, làm sao Người lại có thể mang thân xác hữu hình! Thiên Chúa là Đấng vô hạn, làm sao Người lại có thể đến cư ngụ với con người hữu hạn! Vả lại, như lời Đức Maria nói, “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”…


Có thể nói, lời trần tình của Mẹ hợp lý. Thế nhưng, khi sứ thần nói với Đức Maria rằng “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”, đồng thời báo tin cho Mẹ biết “bà Êlisabeth tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai, bà ấy vẫn mang tiếng là hiếm muộn mà nay đã có thai”, nhờ đó, Đức Maria như thấu hiểu và đã không còn băn khoăn về việc phải lãnh nhận trọng trách cưu mang Con Thiên Chúa. Cuối cùng Mẹ đã “xin vâng”.


Tuy không còn băn khoăn về chuyện của mình, nhưng tâm lòng Đức Maria lại dấy lên một niềm băn khoăn mới, một niềm băn khoăn mà chỉ có ai cùng chung cảnh ngộ mới có thể thấu hiểu, đó là việc “ốm nghén”…


Hãy nhìn xem, bà chị họ Elzabeth tuổi đã già lại đang trải qua cơn ốm nghén, hỏi sao Đức Maria không băn khoăn cho được! Cầu nguyện ư! Gửi đến bà một vài chai dầu gió hoặc vài thứ cần thiết cho trẻ sơ sinh ư! Tốt đấy nhưng như thế đã là đủ?


Kinh Thánh có lời khuyên “Đừng ngại thăm non người ốm” (Hc 7, 35).


Vâng, có thể tin, lời khuyên đó đã làm cho Đức Maria quên ngay chính hoàn cảnh của mình cũng vừa “ốm nghén” mà hướng về cảnh ngộ của bà Êlisabeth bằng một hành động thiết thực, đó là “vội vã lên đường” đi thăm bà ta.


Đi thăm bà chị họ, Đức Maria muốn nói rằng, tình yêu thương phải được biểu lộ cụ thể qua sự phục vụ, sự phục vụ mà sau này chính con của Mẹ đã đem ra làm bài học cho người môn đệ của Ngài, rằng “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10, 45).


Đến-là-để-phục-vụ. Vâng, Đức Maria đã không “nũng nịu”nói với bà chị họ của mình rằng “em…em cũng đang ốm nghén… cũng cần được phục vụ”. Trái lại, Đức Maria đã ở lại phục vụ bà Êlisabeth “độ ba tháng” rồi mới trở về nhà mình.


***


Chắc hẳn hôm nay, ai trong chúng ta cũng đã bài trí xong một hang đá Belem cho gia đình của mình. Và tất nhiên, trong hang đá đó, chúng ta sẽ không bao giờ quên trưng bày hình tượng những nhân vật đã viết lên lịch sử cứu độ như thánh Giuse, Chúa Hài Đồng Giêsu và Đức Maria.


Vâng, đó là một truyền thống đẹp. Thế nhưng, sẽ chẳng ý nghĩa gì nếu chúng ta chỉ đặt “tượng” những nhân vật đó vào hang-đá-giấy mà không đặt “tâm tình” những nhân vật đó vào hang-đá-tâm-hồn của chúng ta.


Hãy thử tưởng tượng!


Nếu… nếu chúng ta cùng có một tâm tình của Đức Maria, một tâm tình yêu thương và phục vụ, sẵn sàng vội vã lên đường, đến với những trẻ thơ bất hạnh, đến với những thai nhi vô thừa nhận… Vâng, có phần chắc, chúng ta sẽ lại được nghe tiếng thai nhi “trong bụng nhảy mừng”. Có phần chắc, chúng ta sẽ được nhìn thấy nhiều trẻ thơ “nhảy lên vui sướng”.


Hãy thử nghĩ xem…


Nếu… nếu chúng ta sẵn sàng vội vã lên đường, đến với những bà Êlisabeth-già-nua không nơi nương tựa… những Êlisabeth đang “ẩn-mình-chờ-chết” trên giường bệnh vì không có tiền thuốc thang… những Êlisabeth bị bỏ rơi với đàn con nhếch nhác v.v… Vâng, có phần chắc, chúng ta sẽ được nghe nhiều lời chúc phúc. Có phần chắc, chúng ta sẽ được những bà Elizabeth-của-thời-đại-hôm-nay lớn tiếng kêu lên “Bởi đâu tôi được (bạn) tôi đến với tôi thế này!”…




****


Viết tới đây, tôi xin phép gửi đến quý vị một câu chuyện có thật, thật 100%.


Cách nay vài năm, em tôi bị bịnh ung thư giai đoạn cuối và phải nhập viện trong tình trạng hết sức tồi tệ. Nhận được tin, thành thật mà nói, tôi không có được tâm tình như Đức Maria “vội vã lên đường” thăm viếng em tôi. Trái lại, trong tôi, nhiều lý do nảy sinh, nào là “lo gì đã có cô vợ của nó” nào là “đã có ông anh tôi ở đó rồi” v.v…


Chưa hết, khi đến thăm, tôi được biết em tôi cần một người ngồi túc trực bên cạnh trước là để theo dõi bịnh tình, sau là để xoa bóp cơ thể hầu cho máu huyết lưu thông dễ dàng. Tôi xung phong túc trực ca đêm và hứa rằng sẽ túc trực như thế cho đến khi em tôi xuất viện.


Than ôi! Chỉ mới một đêm, tôi đã cảm thấy mệt mỏi. Sang đêm thứ hai, tôi “đào ngũ” với lý do rất hợp lý “có vợ con nó lo”. Rạng sáng của ngày thứ ba, em tôi chết.


Em tôi chết rồi, tôi nghĩ, phải chi tôi “ở lại với em tôi” thêm một đêm nữa thì an ủi cho em tôi biết chừng nào! Vâng, một đêm thôi, có cần chi “độ ba tháng” như Đức Maria!


Có lẽ trong cuộc sống thường nhật, ai trong chúng ta cũng sẽ hơn một lần phải đối diện với trường hợp như của tôi.


Cho nên, thật phải đạo khi hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi rằng, tôi đã “trang trí” hang-đá-tâm-hồn của tôi “tâm tình của Đức Maria”?


Hãy tự hỏi mình rằng, đã qua bao nhiêu “mùa đông giá hang Belem Chúa sinh ra đời”, thế nhưng, chúng ta đã thật sự có một tâm tình yêu thương qua sự phục vụ như Đức Maria? (Dẫu rằng chỉ là phục vụ cho người thân của mình)


Còn về vấn đề tâm linh thì sao! Hãy tự hỏi mình rằng, đã bao nhiêu lần “quỳ bên hang sâu nghe lời Kinh Thánh vang cầu”, thế nhưng, chúng ta có sẵn sàng vội vã lên đường “đem yêu thương vào nơi oán thù… đem thứ tha vào nơi lăng nhục… đem an hòa vào nơi tranh chấp… đem chân lý vào chốn lỗi lầm”?


Đừng nghĩ rằng, đó là những công việc khó thực hiện. Là một Kitô hữu, với ơn Chúa, cách này hay cách khác, chúng ta đủ sức để thực hiện những công việc nêu trên.


Vì thế, một Giáng Sinh tốt đẹp phải là một Giáng Sinh của tình yêu thương qua sự phục vụ. Hãy nghe tác giả sách Huấn Ca nói “vì nhờ những việc như thế mà con sẽ được mến yêu” (Hc 7, 35).

Ai… ai sẽ mến yêu chúng ta, khi chúng ta thực thi trọn vẹn những việc như thế nếu không phải là chính Thiên Chúa! Vâng, một khi Thiên Chúa đã mến yêu chúng ta, như Đức Maria xưa kia, hãy tin, chúng ta cũng sẽ là những người “thật có phúc”.


Petrus.tran






















Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

Chúng ta phải làm gì đây?

Chúng ta phải làm gì đây?


Hai tuần của Mùa Vọng đã trôi qua, hôm nay (16/12/2012) toàn thể Giáo Hội bắt đầu bước vào Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng. Có thể nói, tuần thứ ba của Mùa Vọng là một tuần rất bận rộn đối với các vị linh mục chánh xứ. Ngoài việc đôn đốc các thành viên trong giáo xứ làm hang đá, trang trí nhà thờ hay tập dợt diễn nguyện thánh ca, các vị linh mục còn phải chuẩn bị cho những buổi tĩnh tâm giảng phòng và nhất là ngồi tòa giải tội cho tín hữu.


Với những buổi tĩnh tâm giảng phòng và giải tội, có lẽ nhiều người trong chúng ta ít đi vào chiều sâu của nó mà chỉ tham dự và thực hiện một cách chiếu lệ như là một sự bắt buộc phải làm.


Thế nhưng, nếu chúng ta tham dự những buổi tĩnh tâm giảng phòng và giải tội với một tâm hồn “sám hối trở về”, quả thật đó là lúc nó gợi cho ta nhớ đến cội nguồn của lịch sử cứu độ, nơi Chúa Giêsu đã giáng trần, nơi dân Israel xưa kia đã lũ lượt kéo đến để nghe về một Đấng cứu độ muôn dân, nơi từng đoàn người lũ lượt kéo về sông Giodan sám hối thú tội để được ơn tha tội.


**


Vâng, ngày đó, nếu được phép gọi đó là “Mùa Vọng thứ nhất” của lịch sử cứu độ. Bên bờ sông Giodan là một rừng người, họ từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giodan tụ tập lại đó. Họ đến vì nghe nói rằng: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan”.


Ông Gioan là ai? Thưa rằng, vào “năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tiberio, thời Phongxio Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philipphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônit, Lysania làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế…”, ông Gioan đã xuất hiện như một chứng nhân sau nhiều năm sống trong hoang địa, sống đời sống đơn sơ và giản dị: “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt 3, 4).


Người chứng nhân Gioan đã nói với mọi người rằng, “hãy chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3, 3).


Những cảnh báo thẳng thắn của ông như những “phát búa”, như những “nhát rìu” chém thẳng vào tận tâm can, tận đáy lòng, tận thâm tâm từng người. Nó đã đặt mỗi người trước một lựa chọn, hoặc là : “Hãy sinh những hoa quả xứng đáng với lòng sám hối”. hoặc phải đối diện với: “cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (Lc 3, 8).


***


Vâng, và họ đã chọn lựa.


Đã hằng bao ngàn năm, họ trông ngóng “Đấng Mesia” nay lại được ông Gioan công bố rằng “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” thì quả là một Tin Mừng cho họ.


Dòng sông Giodan dậy sóng nhưng không phải sóng nước mà là một làn sóng người “lũ lượt kéo đến xin ông Gioan làm phép rửa” hòa theo âm vang của những lởi hỏi han rằng “Chúng tôi phải làm gì đây?”


****


“Chúng tôi phải làm gì đây?”


Đối với chúng ta hôm nay, nên chăng, câu hỏi này phải được sửa là “Chúng ta phải làm gì đây?”


Xin thưa, đúng vậy. Chúng ta phải làm gì đây?


Vâng, hai tuần liền, Phụng Vụ Lời Chúa, đều nhắc đến Gioan Tiền Hô. Nhắc đến Gioan Tiền Hô, Giáo Hội muốn đưa ra câu trả lời cho chúng ta rằng, điều “chúng ta phải làm” chính là những điều Gioan Tiền Hô bảo làm.


Gioan Tiền Hô bảo làm gì ư!


Đây! Hãy tự hỏi lòng mình rằng, đã biết bao lần chúng ta cất tiếng reo vang “Nửa đêm mừng Chúa giáng sinh ra chốn nhân trần” và nói với bàn dân thiên hạ rằng “Người đem ân phúc xuống cho muôn dân lầm than” thế nhưng, đã được mấy lần chúng ta xóa kiếp lầm than, cho một người thật sự lầm than, bằng việc “có hai áo… chia cho người không có… có gì ăn thì cũng làm như vậy”?


Cho nên, thật phải đạo khi hôm nay chúng ta trở về dòng sông Giodan năm xưa, trở về dòng sông Giodan không phải để ngồi đó nhìn “thuyền ai lờ lững trôi suôi dòng” nhưng là để cùng Gioan Tiền Hô nhìn lại “con thuyền cuộc đời” của chúng ta.


Con thuyền cuộc đời của chúng ta, sau bao mùa NOEL, đã chất chứa những gì?


Phải chăng là sự vô cảm, sự lãnh đạm trước những nỗi khổ đau, trước sự nghèo túng, trước sự áp bức, trước nỗi bất công… những thứ mà ông Gioan xếp vào loại “nòi rắn độc” không thể tránh khỏi “cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”?


Hay, con thuyền cuộc đời của chúng ta đang chuyên chở một tâm hồn độ lượng, một tấm lòng nhân ái, không “tham lam vơ vét…” không “đòi hỏi quá mức ấn định” không “hà hiếp ai” không “tống tiền người ta” và “an phận với số lương của mình”?


Vâng, chính chúng ta phải có câu trả lời.


Giờ đây, chúng ta hãy trở lại dòng sông Giodan năm xưa một lần nữa. Hãy nhìn xem, có rất nhiều người “lũ lượt kéo đến xin ông Gioan làm phép rửa”. Còn chúng ta hôm nay? Con thuyền cuộc đời của chúng ta đã “cập bến Giodan-Giáo Hội” bằng Bí Tích Thanh Tẩy?


Nếu chúng ta đã cập bến, đừng quên, trong bài “giảng phòng” ông Gioan đã nói: “Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối”.


Vâng, hoa quả xứng với lòng sám hối, như lời thánh Phaolô nói, đó là, một đời sống “sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi”. Ngài nói tiếp rằng, là “những gì là chân thật cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen, thì anh em hãy để ý… hãy đem ra thực hành” (Pl 4, 8-9).


Nếu…nếu chúng ta “để ý” đến những gì thánh Gioan Tiền Hô và thánh Phaolô đã khuyên răn và “đem ra thực hành”… Vâng, đó chính là câu trả lời cho câu hỏi “Chúng ta phải làm gì đây?”


Petrus.tran


































Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Tôi đã thật sự tỏ lòng sám hối!

Tôi đã thực sự tỏ lòng sám hối…

Lịch Phụng Vụ hôm nay (09/12/2012) bước vào Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng. Bầu không khí của Lễ Giáng Sinh mỗi ngày một thêm rộn ràng. Thật vậy, nơi các xóm đạo, người ta bắt đầu tất bật giăng đèn, làm hang đá.

Nói tới việc làm hang đá, có thể nói, không nơi nào nhộp nhịp cho bằng nơi xóm đạo Bình An, Bình An Thượng v.v… Nơi đây, như một truyền thống đẹp, hễ đến lễ Giáng Sinh, nhà nhà, người người làm hang đá, làm hang đá trong tư thất chưa đủ, họ còn làm hang đá suốt dọc hai bên đường.

Ngoài những hang đá, những gì có liên quan đến Giáng Sinh đều được họ đem ra trưng bày, như cây thông Noel, như hình nhân người tuyết và đặc biệt là hình ảnh “ông già Noel”.

Ông già Noel là ai? Xin thưa, theo truyền thống cho rằng, ông già Noel được nói đến trong dịp lễ Giáng Sinh chính là hiện thân của thánh Nicola một vị thánh được Giáo Hội Công Giáo kính nhớ vào ngày 6 tháng 12 hằng năm. Ngài là giám mục tại Myra, một hải cảng trong vùng Lycea của Tiểu Á (ngày nay là Demre, Thổ Nhĩ Kỳ).

Thánh Nicôla là một người biết thương người nghèo và dành cả đời mình để phục vụ Thiên Chúa. Chuyện kể rằng, một lần, gặp ba cô gái trẻ không có người cầu hôn vì cha họ quá nghèo, thánh Nicôla liền lấy ba túi vàng và bí mật bỏ vào phòng ba cô gái nọ. Nhờ đó, họ lấy được chồng và sống rất hạnh phúc.

Thánh Nicôla còn được ca tụng là người rất yêu thương trẻ em. Ngài là người luôn mang quà đến cho trẻ em vào các dịp lễ Giáng Sinh.

Là vậy, nhưng, thánh Nicola không thể chiếm chỗ của một người, trong dịp lễ Giáng Sinh, hay nói đúng hơn, trong Mùa Vọng, người đó chính là ông Gioan, người mà chúng ta, hôm nay, quen gọi là Gioan Tiền Hô.

Vâng, kể từ khi nguyên tổ Adam và Eva phạm tội, con người mất hết ơn lành. Thiên Chúa trục xuất con người ra khỏi vườn Eden kèm theo bản án đời đời kiếp kiếp “người là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3, …19)

Thế nhưng, dẫu cho con người đã phạm tội. Thiên Chúa không vì thế mà bỏ rơi con người. Thiên Chúa vẫn luôn là “Đấng từ bi và nhân hậu: Người đại lượng và chan chứa tình thương… Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 102, 8-10).



Sự đại lượng và lòng chan chứa tình thương của Thiên Chúa được biết đến qua những lời giao ước với các tổ phụ, từ ông Ap-ra-ham cho đến ông Môse, cuối cùng với các ngôn sứ và đã được loan báo rằng : “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1, 23).

Và khi thời kỳ đã mãn, ông Gioan Tiền Hô, chính là người được Thiên Chúa sai đi loan báo lời giao ước đó cho muôn dân.

**Vâng, Gioan-Tiền-Hô có một vai trò nổi bật trong lịch sử cứu độ. Dưới sự quan phòng của Thiên Chúa, mặc dù mẹ của ông “tuy già rồi” quá tuổi sinh con, nhưng Thiên Chúa đã nhận lời cầu xin của cha ông là Dacaria, đã cho ông ra đời một cách đặc biệt.

Khi ông Gioan được tám ngày, chịu phép cắt bì và đặt tên, thì Dacaria, cha của ông, được tràn đầy Thánh Thần và nói : “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng tối cao, con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,76).

Quả đúng như lời Dacaria nói, ông Gioan, sau những ngày sống trong hoang địa, khi có lời Thiên Chúa phán, ông liền đi khắp vùng sông Giodan với lời rao giảng kêu gọi người ta “chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3, 3).

Nghe tiềng đồn về ông, người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông rằng “Ông là ai?” ông Gioan đã trả lời rõ, rằng “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa…” và rằng “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. (Ga 1, …26-27).

Đúng, ông Gioan không phải là ngôn sứ, cũng không phải là Êlia. Sứ vụ Thiên Chúa giao cho ông chính là kêu gọi mọi người “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng…”


Kết thúc lời kêu gọi, ông nhấn mạnh rằng “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3, 6).

*** Thánh Nicôla, theo truyền thống được cho là “Ông già Noel”, ngoài ra ngài còn được gọi bằng một cái tên là “Thánh Ních vui vẻ”. Vâng, quả là thật vui vẻ khi chân dung Ngài được nhìn qua biểu tượng ông già Noel với trang phục đỏ thắm, dí dỏm với chùm râu bạc, ngồi chễm chệ trên chiếc xe trượt tuyết, có bảy con tuần lộc kéo, với một lô quà đem phát tặng cho trẻ em.

Thế nhưng, ngày nay, thật đáng tiếc “Ông già Noel” ngày càng bị xã hội thương mại hóa, “trần tục hóa” làm hoen ố tấm gương quảng đại của vị giám mục Nicola thánh thiện.

Nhắc tới chuyện này, bởi ngày nay, Lễ Giáng Sinh cũng đang dần bị con người “trần tục hóa”. Thật vậy, sự thật là thật sự có một “nhúm người” đang muốn đánh đồng lễ Giáng Sinh như một ngày “lễ hội… lễ hội dân gian”.

Nhưng điều đó cũng chưa phải là đáng ngại. Điều đáng ngại, đó là, chính chúng ta, chính cách chúng ta “dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi…” sẽ nói lên rằng, chúng ta có “trần tục hóa” lễ Giáng Sinh hay không?

Trở lại câu chuyện ông Gioan Tiền Hô.

Vâng, có bao giờ chúng ta tự hỏi, ông Gioan Tiền Hô sẽ nghĩ gì khi chúng ta “dọn sẵn… cho Đức Chúa” một cái hang đá thật vĩ đại, với một rừng ngôi sao, cờ phướn bay phất phới được điểm xuyết một dàn đèn nhấp nháy lên đến vài chục… chục triệu đồng!

Phải chăng, ngài “Tiền Hô” sẽ quay phim chụp hình rồi upload lên You Tube với lời “còm” theo điệu nhạc hip hop “good… good… good… very good”!

Hay phải chăng, ngài Gioan sẽ cho rằng, một hang đá đơn sơ, giản dị, cũng đủ để chúng ta biểu lộ “đức tin tông truyền”!

Đúng vậy, hang Belem xưa nghèo nàn tăm tối, thế nhưng vẫn chẳng có gì ngăn trở việc đem đến cho mọi người “ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

Vì thế, đừng quên, trước hết và trên hết, hãy nghĩ đến “Hang đá Belem tâm hồn” của chúng ta.

Bởi, đó chính là nơi chúng ta phải “dọn sẵn con đường cho Đức Chúa… để Người đến”. Đó chính là nơi chúng ta phải sửa đổi những quanh-co-dối-trá trong tâm hồn. Đó chính là nơi chúng ta phải lấp những hố-sâu-tham-lam, những hố-sâu-hận-thù, những hố-sâu-chia-rẽ, những hố-sâu-đam-mê-dục-vọng.

Và cuối cùng, đó chính là nơi chúng ta phải “san cho phẳng” những-ngọn-núi-kiêu-ngạo, những đỉnh-đồi-kiêu căng…

Ngày xưa, hang Belem chỉ cần một ngôi sao lấp lánh, thế mà vẫn có thể “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.

Cũng vậy, đối với chúng ta hôm nay. Nếu hôm nay, Hang đá Belem tâm hồn của chúng ta có một ngôi sao mang tên “sám hối”, nó sẽ không chỉ mang đến cho chúng ta “ơn tha tội (và) ơn cứu độ của Thiên Chúa” mà còn giúp chúng ta có thể “đứng vững trước mặt Con Người” trong ngày quang lâm.

Hãy nghe lại một lần nữa lời thánh Luca chép về những gì Gioan Tiền Hô đã thực hiện. Vâng, thánh Luca chép rằng “Ông liền đi khắp vùng ven sông Giodan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3, 3).

Vâng, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã “chịu phép rửa” nhưng, hãy tự hỏi lòng mình rằng, “tôi đã thực sự tỏ lòng sám hối?”

Petrus.tran



Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

Đức Giêsu... thật sự là Vua của đời tôi!


Đức Giêsu… thật sự là Vua của đời tôi!

Theo truyền thống, Giáo Hội Công Giáo kết thức năm phụng vụ bằng thánh lễ kính trọng thể Chúa Giêsu Kitô Vua. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua được thiết lập cách nay hơn tám mươi năm, chính xác là vào ngày 11 tháng 12 năm 1925.

Trước trào lưu con người chủ trương tiêu diệt Thiên Chúa, con người hô hào trục xuất Thiên Chúa ra khỏi gia đình, ra khỏi xã hội, ra khỏi quốc gia, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập một ngày lễ tôn vinh CHÚA GIÊSU KITÔ VUA như một cách minh định rằng: Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, và là Thiên Chúa thật, Ngài là Vua vũ trụ, Vua muôn loài, là Vua của tất cả mọi người, của mọi dân tộc, của mọi quốc gia.


Thật ra, không đợi để giáo hội tôn Chúa Giêsu là vua; nhưng cách đây hơn hai ngàn năm, chính Thiên Chúa đã có chương trình tôn vinh Người là vua, bằng việc sai sứ thần Gabrien đến một thành miền Galilê gọi là Nazareth, gặp một trinh nữ tên là Maria và báo tin rằng “bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu, Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacop đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 31-33)

Có điều là, hôm nay, Chúa Giêsu được tôn vinh là Vua muôn Vua, là Chúa các Chúa trong sự trang nghiêm, cung kính nơi thánh đường. Còn xưa kia…

…..

Vâng, xưa kia, tại Palestina của hơn hai ngàn năm xa trước đó. Đang lúc cư dân Giêrusalem chìm đắm trong giấc ngủ, thì tại vườn Giếtsêmani, một khung cảnh hỗn loạn xảy ra. Đức Giêsu đang bị bao vây bởi một nhóm người. Họ là quân binh cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Phariseu.

Vài hôm trước, khi Đức Giêsu tới Giêrusalem. Một rừng người đã cầm nhánh thiên tuế ra đón Người và reo hò “Hoan hô! Hoan hô!... Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel”.

Làm sao không chúc tụng Đức Giêsu như thế cho được. Ba năm công khai rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu đã để lại nơi mọi người hình ảnh Ngài là Vua, một vị Vua “ưa sự nhân từ”, một vị Vua “hiền lành và khiêm nhường”, một vị Vua luôn “chạnh lòng thương xót”, một vị Vua “đến để phục vụ”, một vị Vua dám “hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu”…

Người ta thường nói, “tiếng lành đồn xa”. Vì thế, “tiếng lành” về Đức Giêsu được dân chúng chúc tụng là vua Israel “đồn” đến tai các thượng tế và nhóm Pharisêu, lập tức, họ quyết định tìm Ngài…

Tìm Đức Giêsu để tôn Ngài làm vua ư! Thưa không. Họ tìm để bắt Ngài. Bắt Ngài vì họ cho rằng cuộc rước sách đó chính là là nguyên nhân dẫn đến việc Roma sẽ phá hủy thành thánh. Do Thái đang bị cai trị bởi Roma. Ngoài hoàng đế Cesar … ai dám tôn xưng là vua!

Tên phản bội Giuda biết rõ nơi Đức Giêsu đang hiện diện. Y đã thông báo cho các thượng tế và nhóm Phariseu. Giếtsêmani bị phong tỏa bởi một đội cơ binh. Và rồi, khi tìm thấy Đức Giêsu, như con thú đói mồi, Giuda xông đến trước mặt Ngài.

Nụ hôn của tên phản bội chính là sự điềm chỉ, nhóm cơ binh chờ có thế và xông vào trói Ngài lại. Họ điệu Ngài đến trước các ông Kha-nan và thượng tế Cai-pha, chức sắc cao cấp của người Do Thái.

Sau những màn sỉ nhục và đánh đập diễn ra, họ dẫn giải Ngài đến trước tổng trấn Phi-la-tô.

Tại đây, không tra tấn, không đánh đập nhưng thật tệ vì những câu hỏi, những câu hỏi không đáng hỏi của quan lớn Philatô.

“Ông đã làm gì? Ông có phải là vua dân Do Thái không?” Ôi! Không phải là người Do Thái, làm sao quan tổng trấn Phi-la-tô có thể hiểu được vai trò và sứ mạng của Đức Giêsu khi Ngài đến thế gian!

Đức Giêsu đến thế gian để “làm gì” ư? Hơn bảy trăm năm trước, Israel đã được ngôn sứ Mikha tiên báo rằng, “Phần ngươi, hỡi Belem Epratha… từ nơi ngươi… sẽ xuất hiện một vị có sứ mạng thống lĩnh Israel” (Mk 5, 1).

Trước mặt tổng trấn Philatô, bất chấp bạo lực và chết chóc, Đức Giêsu trả lời rằng “Chính Ngài nói tôi là vua”.

Vâng, đến thế gian, Đức Giêsu là vua để thi hành sứ-mạng-thống-lĩnh-Israel. Thống lĩnh Israel nhưng Ngài không thống lĩnh quốc gia “thuộc về thế gian này” mà là thống lĩnh con dân Israel trở về với chân lý và sự thật, “làm chứng cho sự thật và đứng về phía sự thật”. (Ga 18, 37)

**

“Sự thật là gì?” Sự thật Chúa Giêsu thật sự là Vua?

Qua việc tổng trấn Philatô đã “cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: “Giêsu Nazareth, Vua dân Do Thái”, vâng, dẫu cho có là vô tình thì điều đó cũng có thể nói lên rằng “ý dân không bằng ý trời”.

Thế còn chúng ta! Có bao giờ chúng ta tự hỏi: Sự thật là gì? Giêsu… thật sự là Vua của đời tôi! Và tôi có là con dân của Người?

Hay, phải chăng, chủ nghĩa thế tục đẻ ra những “vương quốc thế tục” được cai trị bởi những “ông vua thế tục” với sức mạnh bởi nòng súng hoặc mền mỏng bởi những chính sách mị dân, cho phép tự do luyến ái, tự do phá thai, kết hôn đồng tính v.v… lôi cuốn chúng ta, thuyết phục chúng ta bái lạy nó!

Và phải chăng, chủ nghĩa duy vật đẻ ra những “vương quốc của cải” được cai trị bởi những ông-vua-duy-vật-chất, rao giảng một học thuyết cho rằng, những tiện nghi vật chất, những khoái lạc và dục vọng, tiền bạc và danh vọng v.v… mới thật sự là vua của đời tôi?

Tưởng cũng nên nhắc tới “vương quốc game” một vương quốc được lập nên bởi chủ nghĩa của cải và thế tục. Vâng, nó đã làm gì cho thần dân của nó! Hạnh phúc ư! Sự sống đời đời ư! Hay nó chỉ đem lại cho thần dân của nó bạo lực, chém giết và sự chết?

Hãy nhớ lời Đức Giêsu đã phán “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì” và luôn phải nhớ, đã là người môn đệ của Chúa, dù đang “ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian; sống ở giữa đời nhưng không sống như người đời”.

***

Thế giới vẫn đang hướng tới chủ nghĩa thế tục, và chúng ta hãy biết rằng, một chủ nghĩa thế tục dù có ôn hòa hay trung lập cũng sẽ có ngày trở thành một thế lực “hung hãn”, nó sẵn sàng “cưỡng chế” mọi người, thông qua những đạo luật nghe cứ tưởng như là tự do dân chủ, đạo luật Obamacare, một sản phẩm của chủ nghĩa thế tục, là một ví dụ điển hình.

Nghe ra có đáng sợ không? Thưa không, để có thể chiến thắng chủ nghĩa thế tục, tông đồ Phaolô có lời khuyên rằng “anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người” (Ep 6, 10)

Sức mạnh trong Chúa và uy lực toàn năng của Người chính là “đức tin và Lời Thiên Chúa” (x. Ep 6, 16-17).

Tuy nhiên, sức mạnh và uy lực đó sẽ vô dụng nếu chúng ta còn vấn vương bởi những sự quyến rũ của chủ nghĩa thế tục và duy vật. Lời Thiên Chúa phán dạy rất rõ ràng, rằng “Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi đó, để các ngươi không tham dự vào các tội lỗi của nó và để các ngươi không chia phần tai ương với chúng” (x. Kh 18, 1-4)

Vâng, là một Kitô hữu “Hãy ra khỏi vương quốc thế tục và duy vật đó đi”, còn chần chờ gì nữa, lỡ ngay khi chúng ta vừa đọc xong bài suy tư này, Vua Giêsu Kitô “Người ngự đến giữa đám mây” chúng ta sẽ không phải “đấm ngực than khóc khi thấy Người” nhưng chúng ta có thể nhìn Người mà nói: Lạy Chúa Giêsu! “Ngài… thật sự là Vua của đời tôi”.

Petrus.tran













Thứ Hai, 19 tháng 11, 2012

Đây! Con Người đã đến…


Chúng ta đang ở trong những ngày cuối cùng của năm Phụng Vụ 2012. Có lẽ không ít người trong chúng ta nghĩ rằng “Ồ! Lại sắp đến ngày kỷ niệm mừng Chúa Giáng Sinh”.

Với sự kiện Con Thiên Chúa đã đến thế gian lần thứ nhất, chúng ta đã quá quen thuộc về những hiện tượng đã xảy ra, nào là có một cô “trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”, nào là trong hang đá có Đức Maria và thánh Giuse cùng với vài con chiên quây quần bên hài nhi Giêsu, nào là có ngôi sao lạ dẫn đường cho ba nhà thông thái đến Belem để bái lạy Ngài, rồi có những trẻ mục đồng cùng với muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng vinh danh Thiên Chúa v.v…


Thế nhưng, với sự kiện Con Thiên Chúa sẽ đến thế gian lần thứ hai! Thành thật mà nói, chúng ta ít quan tâm đến nếu không muốn nói là thờ ơ “que sera sera!”…


Những hiện tượng nào sẽ xảy ra! Sẽ có những biến cố nào xoay quanh sự quang lâm của Đức Giêsu? Vâng, đối với các môn đệ, đó là điều quan trọng mà các ông rất cần biết và các ông đã đến gặp Đức Giêsu để hỏi Ngài.


***
Chuyện đã được tông đồ Maccô ghi lại rằng, hôm đó, lúc Đức Giêsu ngồi trên núi Ôliu, đối diện với Đền Thờ thì bốn người môn đệ là các ông Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê đã đến bên Đức Giêsu.


Ba năm theo Thầy Giêsu, có thể nói rằng, chưa có lúc nào mà các ông lại mang tâm trạng buồn hiu hắt buồn như hôm đó.


Làm sao không buồn cho được khi mà Thầy Giêsu đã đưa ra những lời cảnh báo nhuốm đậm hình ảnh tang thương và chết chóc… Nào là “Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lường gạt… Nếu có ai bảo anh em: này Đấng Kitô ở đây! Kìa, Đấng Kitô ở đó!... đừng có tin”. Và có tang tóc không kia chứ! Khi mà “trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không có chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” v.v… (Mc 13, 24-25).


Người ta thường nói, nỗi buồn càng dấu kín càng thêm buồn khổ. Chính vì thế, để dịu bớt đi nỗi buồn tang thương đó, các ông gặp Đức Giêsu và đã thổ lộ với Người bằng một câu hỏi rằng “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?” (Mc 13, 4).


Và quả thật, sau lời thổ lộ đó, qua thí dụ về cây vả, Đức Giêsu đã giải tỏa nỗi buồn hiu hắt của các ông. Hình ảnh nắng hạ với những cành cây “xanh tươi và đâm chồi nẩy lộc” không chỉ xứng hợp để so sánh với ngày “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13, 28) mà còn như một lời nhắc lại cho các môn đệ điều Đức Giêsu đã nói với các ông trước đó rằng “lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho tới cuối chân trời”! (c. 27)


Thật ra, đó cũng chỉ là những “hiện tượng”. Điều quan trọng mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ các ông, đó chính là niềm tin.


Vâng, kết thúc buổi trò chuyện với các môn đệ, Đức Giêsu đã nhắn nhủ các ông rằng “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13, 31)


Một phút tâm tình và suy tư…


“Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”.


Các môn đệ đã tin vào lời nói đó của Đức Giêsu. Niềm tin đó đã được đóng ấn bằng chính cái chết, cái chết “tử đạo” của ba trong bốn chàng ngự lâm, đầu tiên là Giacôbê, rồi đến Phêrô và sau đó là Andrê.


Riêng tông đồ Gioan, Ngài đã được Thiên Chúa cho thấy những kẻ đã được Người tuyển chọn “đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi chi tộc và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên” (Kh 7, 9)


Không ai có thể phủ nhận rằng, trong số những người thuộc “mọi dân, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ” đó, có cả ngàn người Việt Nam và đã có 117 vị chính thức được tôn phong hiển thánh mà hôm nay Giáo hội Việt Nam long trọng kính nhớ.


Đừng bao giờ yếu đuối mà nghĩ rằng, tôi chỉ là một giáo dân, thật khó để mà trở thành một “martyr” của Đức Giêsu. Hãy nhìn người giáo dân Phaolô Tống Viết Bường như là tấm gương mẫu mực cho đời sống đức tin của chúng ta.


Chuyện được kể rằng, khi nghe tin ông bị bắt nhiều giáo hữu đến thăm ông. Ông nói với họ: “Ðem cho tôi cái gì nặng hơn nữa, vì xiềng xích của tôi còn nhẹ. Người ta chưa đánh đập tôi nhiều, tôi muốn người ta đánh tôi nhiều hơn nữa. Phúc được chịu khó vì Chúa.”. Những lời này cho thấy tâm trạng của người tù Phaolô Tống Viết Bường rất can trường, không chút sợ khổ hình vì Ðức Tin.


Đứng trước bạo quyền và bạo lực ai mà không sợ hãi! Đứng trước xiềng xích tù đày, ai mà không thối lui! Nhưng với Phaolô Tống Viết Bường thì nhờ “áo giáp đức tin” và “mũ chiến là niềm hy vọng”, ngài đã đánh bại tất cả, kể cả sự chết.


Thật vậy, khi đàn áp bằng đánh đập tàn nhẫn không có kết quả, các quan quay sang dụ dỗ. Ðích thân quan thượng thư Bộ Hình Võ Xuân Cẩn ra sức khuyến giục Tống Viết Bường nên chiều theo ý vua “bỏ đạo lúc này thôi rồi sau sẽ hay, muốn làm gì thì làm”. Tống Viết Bường trả lời khiêm tốn, nhưng cương quyết “Quan lớn có lòng thương thì tôi cũng xin quan lớn một điều là cho tôi được vẹn chữ trung với Chúa Trời”.(nguồn: internet)


***


Đúng là chúng ta đang ở trong những ngày cuối cùng của năm Phụng Vụ 2012. Hãy tự hỏi lòng mình rằng, ngay giây phút này đây, tôi thật sự vẫn “trung với Chúa Trời!”…


Và nếu… nếu ngay lúc này, Đức Giêsu “trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”… tôi sẽ ra sao?


Hy vọng mỗi chúng ta sẽ không có câu trả lời rằng “muốn ra sao thì ra” mà hãy chiêm nghiệm lại những lời tiên báo của Chúa Giêsu xưa kia như môt lời cảnh giác.


Có thể nói, chưa có thời đại nào những lời tiên báo của Chúa Giêsu lại ứng nghiệm như thời đại chúng ta hôm nay.


Ngày nay, thiên nhiên mỗi ngày một bị xáo trộn, mưa bão thất thường, nước sông bỗng nhiên đỏ như máu, phải chăng đó là dấu hiệu sẽ có lúc “mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không có chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống”!

Còn về những giá trị “siêu nhiên” thì ngày nay, con người càng ngày càng muốn từ bỏ. Thiên Chúa phán “Chớ giết người” con người lại cổ vũ cho việc phá thai. Thiên Chúa phán “Sự gì Thiên Chúa kết hợp con người không được phân ly” thì người ta lại cổ vũ cho việc ly thân ly dị.


Vâng, việc con người cổ súy cho hôn nhân đồng tính, phải chăng đó là dấu hiệu “các quyền lực trên trời bị lay chuyển”?


Vẫn biết rằng, Chúa Giêsu đã nói “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi”, nhưng có gì sai khi chúng ta nhìn những hiện tượng đó như một lời cảnh báo rằng “Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”!


Trong một thế giới mà con người đang cổ vũ cho một nền văn hóa sự chết, cho một lối sống duy vật… ai… ai trong chúng ta lại không hơn một lần rơi vào vòng quyến rũ của nó! Ai trong chúng ta không một lần bất trung, bất tín!


Hôm nay, trong tâm tình hướng về các thánh tử đạo Việt Nam , không gì tốt hơn là hãy nhìn các ngài như là tấm gương mẫu mực cho một đời sống đức tin và sự trung tín.


Các thánh tử đạo cũng chỉ là những con người trần gian, nhưng các ngài có thể “coi thường mạng sống mình ở đời này” là bởi các ngài đã nhờ có “Ơn Chúa!”


Đúng vậy, tông đồ Phaolô đã thú nhận rằng “thân xác tôi như bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi… Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nổi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho anh” (2 Cor 12, 7-9)


Ơn của Chúa đủ cho Phaolô chẳng lẽ lại không đủ cho chúng ta!


Vâng, ơn của Chúa chính là bí tích Thánh Thể, một ơn phúc bảo đảm cho sự sống đời đời và là nguồn lực giúp chúng ta bền vững trong sự trung tín.


Sự trung tín không chỉ giúp chúng ta được “chiếu sáng muôn đời như những vì sao” mà còn giúp chúng ta đứng vững trước nhan Thiên Chúa để nghe tiếng Ngài phán “Đây! Con Người đã đến”.


Petrus.tran






Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012

Dâng ít … hiến nhiều.




Dâng cúng hay dâng hiến là một hành vi biểu lộ lòng tôn kính và biết ơn của con người đối với Thượng Đế. Việc dâng cúng đã có từ thời tạo thiên lập địa. Thuở đó, con người thường dùng “hoa trái đầu mùa” như là lễ vật dâng lên Thượng Đế. Để biểu lộ lòng tôn kính và biết ơn, họ chỉ cần dâng cúng “con đầu lòng của bầy chiên” thì cũng đủ để được “Đức Chúa đoái nhìn” (St 4, 4)

Đáng tiếc thay! Theo thời gian, con người đã có cái nhìn phàm tục về sự dâng cúng. Nhiều người nghĩ rằng, dâng cúng như là một sự “hối lộ” Thượng đế, càng dâng cúng nhiều, thì càng chứng tỏ lòng hảo tâm cao, và rồi họ cho rằng, những người khá giả, giàu có, dễ dàng thực hiện việc dâng cúng hơn những người thiếu thốn nghèo khó.

Kitô giáo không có cái nhìn về sự dâng cúng như thế. Đối với Thiên Chúa, Kinh Thánh chép rằng “Đừng hối lộ, Người chẳng nhận đâu”. Sự dâng cúng đẹp lòng Thiên Chúa chính là “phải giữ nét mặt tươi cười… và tùy khả năng con có” (Hc 35, 8-9).


**

Sự dâng cúng đẹp lòng Thiên Chúa cũng đã được Đức Giêsu nói đến một lần ở Giêrusalem.

Giêrusalem hôm đó, hôm có sự hiện diện của Đức Giêsu, như một ngày lễ hội. Ngoài đường phố là những khuôn mặt hợm hĩnh của các ông kinh sư “xúng xính trong bộ áo thụng”. Các ông dạo qua dạo lại mong được người ta chào hỏi. Còn bên trong Đền Thờ là một dòng người đang tiến về thùng tiền dâng cúng.

Trong dòng người đó, có một người phụ nữ. Và người phụ nữ đó được mô tả là “một bà góa nghèo”.

Israel thời đó là một xã hội phân chia giai cấp rõ rệt. Những người bị bệnh truyền nhiễm như phong hủi, những người tật nguyền, các bà góa… tất cả đều bị gạt ra bên lề xã hội. Phụ nữ khi kết hôn phải chấm dứt liên hệ với gia đình ruột thịt. Điều tệ hại là nếu chồng chết cũng là lúc mất hết mọi quyền lợi vật chất từ nhà chồng.

Bà góa nghèo hôm đó, chắc hẳn đã “mất hết mọi quyền lợi vật chất” thế nhưng bà ta vẫn lên Đền Thờ, bởi bà ta tin rằng, Thiên Chúa “Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của kẻ góa bụa” (Hc 35, 14), hơn nữa, lên Đền Thờ là để “gắn bó với lệnh truyền là dâng lễ kỳ an”. Bà ta đã không “đứng trước nhan Đức Chúa tay không” nhưng với của lễ là “hai đồng tiền kẽm”…

Từng bước, từng bước bà ta tiến đến thùng tiền, nơi luôn có những vị “cảnh sát tôn giáo” hiện diện canh chừng. Đây là thùng tiền dâng cúng cho Đền thờ. Không một chút ngập ngừng, bà ta “bỏ vào đó hai đồng tiền” một cách hân hoan vui vẻ theo đúng khả năng bà ta có. Rồi bà ta vội vã đi ra.

Đức Giêsu, lúc đó, đang “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng” và sau khi “quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”, Ngài kết luận rằng, “bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”

Một phút tâm tình và suy tư…

“Bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”. Vâng, lời nhận định của Đức Giêsu có là nghịch lý không, trong khi đó, còn “có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền”!

Thưa không, Mẹ Têrêsa Calcutta có nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.

Bà góa nghèo đã “rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó”, thì quả đúng là một-mất-mát-hy-sinh-lớn đối với bà ta.

Cho nên, dù bà ta “dâng ít” cũng kể như “hiến nhiều”.

**

Là một Kitô hữu, khi tham dự thánh lễ, chúng ta nghĩ gì về lòng quảng đại của Đức Giêsu qua Bí Tích Thánh Thể! Mình và Máu Chúa Kitô không trở thành lực đẩy và sức mạnh để chúng ta có thể, cũng giống như bà góa, dám đem “tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” mà hiến dâng!

Đừng bao giờ nghĩ rằng, đợi đến khi có của ăn của để chúng ta mới thực hiện sự dâng hiến.

Chuyện kể rằng: Có một chàng thanh niên đến thăm Mẹ Têrêsa Calcutta. Sau khi chứng kiến những việc Mẹ cùng các cộng sự làm, chàng ta xúc động và nói “Thưa Mẹ, con có thể cộng tác vào công việc của Mẹ bằng cách nào? Mẹ Têrêsa từ tốn trả lời rằng “Chỉ cần cố gắng mỉm cười với người khác, vậy thôi”.

Dâng hiến là một khả năng cũng giống như chơi một nhạc cụ nào đó. Có thực tập, chúng ta mới có thể dâng hiến tốt hơn. Chúng ta tiến thân trong nghề nghiệp nhờ những mảnh bằng cấp. Vậy, sao chúng ta lại không xem việc dâng hiến như là một tấm bằng để tiến thân nơi “công sở Nước Trời”!

Hãy thử tưởng tượng, khi Chúa trở lại, điều gì sẽ xảy ra cho những số tiền đang nằm ngay ngắn trong tài khoản ngân hàng hay bất động sản! Phải chăng nó chẳng còn giá trị gì; trong khi lẽ ra nó phải được dùng để chia sẻ cho người nghèo hoặc để sử dụng cho việc truyền giáo…

Thánh Phaolô đã nói “Hãy chú ý làm trổi hơn việc nhân đức dâng hiến này” (2Cor) Đừng quên, khi dâng hiến “Đức Chúa là Đấng thưởng công, sẽ trả lại cho con gấp bảy lần” (Hc 35, 10).

petrus.tran

























Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...