Thứ Hai, 20 tháng 2, 2012

Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ.

Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ.

Thứ bảy ngày 11.02.2012 vừa qua, Giáo Hội Công Giáo long trọng mừng ngày Đức Maria hiện ra ở Lộ Đức. Đây cũng là ngày đã được Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn làm Ngày Quốc tế Bệnh nhân.

Trong ngày này, song song với việc cử hành thánh lễ cầu nguyện cho các bệnh nhân, nhiều buổi hội thảo, nhiều bài tham luận với chủ đề “lương y với bệnh nhân” đã được chia sẻ đến với cộng đồng. Có nhiều tấm gương tốt của Y bác sĩ cũng như của điều dưỡng viên được nêu ra.

Hỏi vì sao họ được nêu tên như là mẫu mực của một lương y trong một thời mà ngành y đang bị phê phán là “lương y như từ mẫu.. ghẻ !”… như hôm nay.

Thưa rằng, đó chính là nhờ có tấm gương của vị “lương y Giêsu” đã nằm trong tâm khảm của họ. Một điều dưỡng viên, được biết tên là Elizabeth CC, đã phục vụ trên 34 năm trong nghề, qua hai bệnh viện (BV Nhi Đồng I và BV Bình Dân) đã chia sẻ như thế.

Chị Elizabeth CC đã tâm sự rằng : “Năm đầu trong nghề, tôi chỉ làm việc bằng cái tâm của mình, và cố gắng hết mình để chu toàn bổn phận một người điều dưỡng...” Nhưng sau khi chị tìm đến lớp cầu nguyện để học Lời Chúa, chị nhận ra rằng "Lời Ngài là sức sống của tôi, Lời Ngài là ánh sáng đời tôi…". Và chị thú nhận : “Lời Chúa đã biến đổi cuộc đời tôi hoàn toàn, để tôi thuộc trọn về Ngài. Ngài ban tặng cho tôi một quả tim biết yêu thương”.

Chính vì nhận được một-quả-tim-mới, quả tim yêu thương của Thầy Giêsu, nên chị ta đã có thể “yên lặng thầm mong phục vụ tha nhân” (1) suốt 34 năm trời.

Lời chia sẻ của chị Elizabeth CC đáng tin cậy. Đáng tin cậy bởi vì như người ta thường nói “không ai có thể cho đi cái mà mình không có”. Với Chúa Giêsu, người đã cho chị ta một quả tim mới, có rất nhiều bằng chứng cho thấy Ngài là một lương y có “quả tim biết yêu thương”.

Những bằng chứng đó đã được ghi chép đầy đủ trong bốn sách Phúc Âm : Matthêu, Máccô, Luca và Gioan. Và câu chuyện Đức Giêsu đã chữa lành một người bại liệt tại Capharnaum được trích trong Phúc Âm Máccô (2, 1-12) như là một bằng chứng sống động cho lời nhận định nêu trên.

Chuyện đã được kể lại rằng : Sau những ngày dong duổi khắp Galilê rao giảng Tin Mừng. “Đức Giêsu trở lại thành Capharnaum”. Không giống như lần trước, Đức Giêsu đã vào hội đường giảng dạy. Lần trở lại hôm nay “Người ở nhà” (Mc 2, 1)

Khi nguồn tin đó được loan ra, Capharnaum lại thêm một phen rúng động. Lần rúng động trước chỉ cách vài hôm. Hôm đó, thành Capharnaum đã rúng động khi toàn dân đã chứng kiến Thầy Giêsu, với quả-tim-biết-yêu-thương, đã dùng quyền năng để chữa bệnh cho nhiều người và Ngài cũng đã dùng quyền lực để trừ quỷ cho một bệnh nhân bị quỷ ám.

Còn hôm nay, cả một rừng người đã làm rúng động nơi Đức Giêsu vừa mới trở lại. Không muốn Đức Giêsu bất ngờ bỏ đi nơi khác như lần trước, họ đã hô hoán “dân chúng tụ tập lại” vây quanh căn nhà Đức Giêsu đang hiện diện, họ vây quanh “đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết” (Mc 2, 2)

Vâng. Capharnaum là như thế đó. Capharnaum là một thành phố của đón nhận. Trái tim yêu thương của Đức Giêsu không thể không trao ban cho cư dân của nó. Hôm nay, khi trở lại Capharnaum, Đức Giêsu, một lần nữa tiếp tục “giảng lời cho họ”. Một lần nữa, Ngài lại biểu lộ cho mọi người thấy thế nào là một “quả tim biết yêu thương”.

Họ ngồi vây quanh Đức Giêsu và nghe lời Ngài giảng dạy. Họ chờ đợi mong được thấy, một lần nữa, quả tim biết yêu của Ngài rung lên. Họ đã không thất vọng.

Có nhiều tiếng động lớn, xuất phát từ mái nhà, át hẳn lời giảng dạy của Đức Giêsu. Có một luồng ánh sáng chiếu tỏa xuống những gương mặt đang ngơ ngác ngước lên nhìn. Có một hình hài co rúm được thòng dây chão thả xuống…

Trời ạ ! "Một kẻ bại liệt”.

Đang khi cả gian phòng ồ lên thì trái tim Thầy Giêsu co thắt lại. Tâm hồn Ngài không thể không rung động. Người bại liệt không cất nổi một lời nói, dù chỉ là một lời ngắn ngủi : “Lạy Thầy ! Nếu Thấy muốn…”. Nhưng quả-tim-biết-yêu-thương của Thầy Giêsu thì biết nói, biết nhìn thấu suốt cõi lòng, thấu tận tâm can chàng bại liệt.

Chàng bại liệt “có lòng tin ?”. Đúng. Đức Giêsu thấy chàng ta “có lòng tin”.

Vâng. Chỉ một lời phán bảo của Đức Giêsu với chàng bại liệt “Ta truyền cho con : Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về”. Tất cả mọi người hiện diện nơi đó đều đã thấy chàng bại liệt “đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người” (Mc 2, …12).

Câu chuyện kết thúc bởi những lời suýt soa không ngớt của những nhân chứng rằng : “Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!”.

Một chút tâm tình…

“Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!”

Thật vậy, từ thuở tạo thiên lập địa cho đến hôm nay, chưa có ai “thấy vậy bao giờ!”. Chưa có ai thấy một con người bằng xương bằng thịt dám công bố mình có “quyền tha tội” !

Chính vì thế những người thuộc phái kinh sư sầm sì rằng, Đức Giêsu đã “nói phạm thượng!” khi nghe Ngài nói với chàng bại liệt rằng “Con đã được tha tội rồi.”

Được giáo huấn theo truyền thống Do Thái nên các kinh sư quan niệm rằng, bệnh là hậu quả của tội lỗi. Và ai có quyền tha tội, nếu không phải là Thiên Chúa. Các kinh sư đã quá thuộc nằm lòng Lời Chúa, qua ngôn sứ Isaia, đã phán “Chính Ta đây… Ta sẽ xóa bỏ các tội phản nghịch của ngươi, và không còn nhớ đến lỗi lầm của ngươi nữa” (Is 43, 25).

Ôi! Thật đáng tiếc cho các kinh sư. Họ không biết sứ mạng Đức Giêsu đến thế gian là để làm gì. Gioan tẩy giả đã chẳng nói về Đức Giêsu rằng “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” đó sao!

Nếu chỉ dừng lại ở việc “chữa lành thể xác” thì Thiên Chúa có cần thiết phải “sai Con của Người đến thế gian” ?

Nếu các kinh sư nghe được lời Đức Giêsu nói với Nicôđêmô “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16) !!!

Và nếu các kinh sư các tin vào lời làm chứng của ông Gioan tẩy giả về Đức Giêsu rằng : “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên Người” ứng nghiệm với lời ngôn sứ Isaia đã chép “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” !!!

Nếu các kinh sư tin như thế, chắc hẳn họ sẽ không phản đối Đức Giêsu khi Ngài nói “Con Người có quyền tha tội”. Bởi hồng-ân-của-Chúa-để-được-sống-muôn-đời là gì nếu không phải là “ơn tha tội”!

Vâng. Nếu tin, chắc hẳn các kinh sư sẽ cùng mọi người hiện diện nơi đó đồng thanh cất tiếng “tôn vinh Thiên Chúa” (Mc 2, 12).

Một phút suy tư…

Theo bạn, hình ảnh nào gây ấn tượng nhất trong câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người bại liệt ?

Phải chăng hình ảnh “dân chúng tụ tập lại đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết”? Vâng, hình ảnh này gợi cho chúng ta nhớ đến những buổi tụ tập đông đảo của các tín hữu trong những dịp lễ trọng, như lễ Giáng Sinh hay lễ Phục Sinh hoặc như những buổi tham dự “lòng thương xót Chúa” tại giáo xứ Chí Hòa, tại giáo xứ Đồng Tiến và nhiều giáo xứ khác khắp Giáo Phận Saigon…

Thế còn hình ảnh “người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng” thì sao ?

Xét về mặt con người, bốn người khiêng một người “bại liệt” cho ta thấy tinh thần “huynh đệ chi binh” thật đáng trân trọng và đáng noi theo, phải không thưa quý Bạn ?

Đó là một tinh thần đoàn kết và biết chia sẻ trong cộng đồng.

Tinh thần đoàn kết và biết chia sẻ đó đã ghi đậm trong tâm khảm mỗi gia đình Công Giáo Hàn Quốc. Người ta kể rằng : cứ bốn gia đình Công Giáo Hàn Quốc, với mức sống ổn định, họ kết hợp lại với nhau, bảo trợ cho một gia đình Công Giáo nào đó đang gặp khó khăn về phương diện vật chất. Nếu gia đình này tài trợ học bổng, thì gia đình kia chia sẻ tiền bạc, rồi một gia đình khác sẽ tìm kiếm một công việc làm phù hợp cho gia đình đó.

Quả là một cách làm đúng tinh thần “lá lành đùm lá rách”. Và hơn nữa, làm như thế có khác nào họ đã nối tiếp cánh tay của Chúa Giêsu “đem niềm vui đến chốn u sầu” (2). Làm như thế có khác nào họ biểu lộ “trái tim biết yêu thương” đến với tha nhân. Làm như thế có khác nào họ cùng nhau “khiêng” căn-bệnh-nghèo-đói, căn-bệnh-thất-học ra khỏi gia đình của những người anh chị em đang sầu khổ.

Hãy tự hỏi rằng, chúng ta có thể làm được điều này hay không !? Nếu chúng ta không làm được, hãy coi lại xem, phải chăng chúng ta đang nhiễm phải những căn bệnh “ích kỷ, hưởng thụ, sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi” những căn bệnh “an phận thủ thường” v.v…!? Và như thế có khác gì chúng ta cũng mắc phải căn bệnh bại liệt… “liệt kháng tâm hồn” !!!

Vâng, hãy có những ý nghĩ tích cực. Bởi vì, dù chỉ có “hai đồng bạc” nhưng nếu chúng ta hợp lực như tấm gương của những gia đình Công Giáo Hàn Quốc đã hợp lực, chúng ta cũng có thể làm được như họ.

Hãy thử tượng tưởng, nếu bốn hoặc tám, thậm chí hai mươi gia đình Công Giáo Việt Nam, đồng bảo trợ cho một gia đình nghèo nào đó, bất kể họ có là Công Giáo hay không, một cách bất vụ lợi. Vâng, chắc chắn chúng ta sẽ được thấy nhiều ánh mắt “sửng sốt” và nhiều tiếng trầm trồ vang lên: “Ồ! Chúng tôi chưa thấy vậy bao giờ!”.

Petrus.tran

…….

(1) Tình người áo trắng (thơ) : Elizabeth CC.

(2) Kinh Hòa Bình : Kim Long.



Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2012

Tôi muốn.

“Tôi muốn…”

 
Theo bạn, giữa cái chết và bệnh tật, cái nào đáng sợ hơn ? Tạp chí Magazine Philosophie số tháng 11/2010 đã làm một cuộc điều tra về vấn đề này với độc giả Pháp. Và trong 1.000 người đại diện các giới, từ 28 tuổi trở lên, đã có 54% người trả lời rằng, họ “sợ bệnh tật hơn là cái chết”. Đó là một câu trả lời rất chính xác. Kinh Thánh cũng có chép rằng “yên giấc ngàn thu còn hơn bị bệnh suốt đời” (Hc 30, 17)

 
“Bệnh suốt đời” mà lại rơi vào tứ chứng nan y : phong, lao, cổ lại, theo lời ông Gióp nói, thì, thà tôi “chết đi lúc vừa mới chào đời” có lẽ tốt hơn.

 
Vâng. Trong bốn căn bệnh nêu trên, bệnh phong còn gọi là phong hủi, là căn bệnh gây ra sự tàn nhẫn nhất trên bệnh nhân. Bệnh nhân không chỉ đau đớn về thể xác, họ còn phải đau khổ về tinh thần.

 
Về mặt thể xác, người bị bệnh phong hủi da thịt thường phát nhọt và lở loét. Khi chuyển nặng, vết thương lỏm vào da thịt. Trên khuôn mặt, lông mày rụng kèm theo là mắt lộ ra, thanh quản bị lở nên giọng nói trở nên khàn khàn. Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Các bắp thịt tiêu dần đi, gân cốt co làm cho hai bàn tay co lại. Ở mức độ nặng ngón tay và ngón chân rụng.

 
Về mặt tinh thần, người bị phong hủi thường bị cộng đồng xa lánh và kỳ thị. Đã có thời người bệnh phong phải chịu nhiều luật lệ khắt khe như thả trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ăn thịt. Vì thế khi một ai đó mắc bệnh, họ chỉ có nước bỏ làng ra đi, ở lại cũng không ai chứa chấp, không ai quan hệ…

 
Do Thái thời Cựu Ước cũng rất kỳ thị người bệnh phong. Cả một rừng luật đã được đặt ra nhằm cách ly họ với cộng đồng. Sách Lêvi ghi rằng : “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu... Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lêvi 13, 45-46).

 
Nói chung, đối với xã hội thời xa xưa, phương Tây lẫn phương Đông, người bệnh phong hủi luôn bị ghẻ lạnh, kỳ thị và xa lánh…



……

 
Ấy vậy mà, có một người đã nhìn những người bệnh phong với một cái nhìn khác hẳn. Người đó đã coi họ là những kẻ đáng thương xót hơn là ghẻ lạnh, nên gần gủi hơn là xa lánh và nên cảm thông hơn là kỳ thị. Người đó chính là Đức Giêsu.

 

 

 
"Tôi muốn..."


Thật vậy, hai mươi thế kỷ trước, Galilê chính là nơi dân chúng đã được nghe những lời rao truyền về những gì Đức Giêsu đã xử sự khi có một anh chàng mắc bệnh phong hủi chạy đến tìm Người.


Chuyện được kể lại rằng : Sau khi rời nhà ông Simon ở Capharnaum. Đức Giêsu cùng với nhóm môn đệ tiếp tục đi khắp miền Galilê để rao giảng Tin Mừng. Khi Thầy và trò chuẩn bị vào một ngôi làng. Bất ngờ một người mắc bệnh phong, với dáng đi nhún nhảy như một bóng ma, đang tiến về phía Đức Giêsu.

 
Thật không thể chấp nhận được. Sao lại không có tiếng chuông! Ít nhất phải một tiếng chuông vang lên báo hiệu có người hủi quanh đó chứ! Hoặc phải la lên “ô uế! ô uế!” để mọi người tránh xa. Bởi vì đó là luật. Luật Lêvi.

 
Không biết nhóm môn đệ của Đức Giêsu có lẩm bẩm với nhau như thế không! Nhưng có phần chắc, khi thấy bóng dáng chàng “cùi”, các môn đệ đã “lùi lại”.

 
Vâng, cũng đúng thôi. Lùi lại vì sợ lây bệnh và cũng vì luật đã được các Rabbi dạy rằng “cấm không được đến gần người cùi trong khoảng cách một sải tay”. Vì thế, quá đúng khi các môn đệ lùi lại để bảo vệ cho sức khỏe và sự thánh khiết của mình.

 
Nhưng lạ lùng thay! Đức Giêsu không lùi lại. Người vẫn tiếp tục tiến về phía người phong hủi. Khoảng cách mỗi lúc một ngắn dần.


Khi cự ly giữa chàng cùi và Đức Giêsu không còn có thể ngắn hơn được nữa, chàng cùi ta bèn quỳ sụp xuống. Những lời van xin thống thiết của chàng ta được tuôn ra : “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

 
“Nếu Ngài muốn”. Vâng, quả là một câu van xin bộc lộ trọn vẹn niềm tin vào Đức Giêsu.

 
Và Đức Giêsu “đã muốn”, bởi khi nhìn thấy anh ta trong tình cảnh “chết còn hơn là sống cay cực” như thế này. Đức Giêsu đã “chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh ta…”. Câu chuyện kể tiếp rằng “Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch”.

 
Vâng. Đức Giêsu chỉ phán một lời “Tôi muốn…” (Mc 2, 41).

 
Một chút tâm tình…

 
Thánh Máccô không cho biết có bao nhiêu người đã chứng kiến phép lạ chữa lành này. Nhưng với thánh sử Matthêu, sự việc đã được mô tả rất rõ như sau “Khi Đức Giêsu ở trên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. Bổng có một người phong hủi tiến lại, bái lạy Người… ” (Mt 8, 1-2).

 
Ôi! Tệ thật… Cả một đám đông chứng kiến phép lạ sờ sờ ra đó, thế mà chỉ có một mình chàng hủi nhanh nhảu “rao truyền và tung tin đó khắp nơi”.

 
Phải chăng cái đám đông đó đang xầm xì nhỏ to rằng thì-là-mà tại sao ông Giêsu lại phá luật Lêvi, dám “giơ tay đụng vào” chàng hủi này!


Nghĩ như thế là không nhìn rõ chủ ý của Đức Giêsu. Ngài không phá luật. Sau khi chữa lành chàng hủi, Đức Giêsu đã chẳng bảo chàng ta rằng “hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môse đã truyền, để làm chứng cho người ta biết” đó sao !!!


Vâng. Chữa cho chàng hủi này, Đức Giêsu chỉ cần phán một lời, như cách thức Ngài đã chữa lành một người con của vị quan cận thần ở Capharnaum, cũng được. Nhưng chủ ý của Ngài khi đặt tay lên chàng hủi là muốn gửi đến mọi người một thông điệp rằng : không có điều gì có thể ngăn cách con người với Thiên Chúa, nếu con người “đến mà biện luận” (Is 1, 18).


Đặt tay lên chàng hủi, Đức Giêsu còn muốn dạy cho hậu thế một bài học về “Mục vụ giao hòa”.


Mục-vụ-giao-hòa theo Đức Giêsu trước hết là an ủi… là “tôi muốn”. Mục-vụ-giao-hòa theo Đức Giêsu còn là nâng đỡ.. là “đặt tay” vào tôi nhân. Mục-vụ-giao-hòa theo Đức Giêsu không thể không tha thứ… là “anh được sạch”.


Vâng. Sẽ thật khó phủ nhận, làm mục vụ giao hòa như cách Chúa Giêsu đã làm cho chàng phong hủi, chính là cách tốt nhất “để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cor 10, 31).


Một phút suy tư…


Tạ ơn Chúa. Điều đáng mừng là ngày nay, tuy vẫn còn bệnh phong hủi, nhưng nó không còn là căn bệnh đáng quan ngại như ngày xưa.


Là một Kitô hữu, điều chúng ta đáng quan ngại đó là căn bệnh phong hủi tâm linh.

 
Thật vậy. Đời sống đức tin của chúng ta vẫn luôn phải đối diện rất nhiều loại vi trùng phong hủi. Đó là những loại hủi “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bé phái, ganh tị, say sưa chè chén”.


Đức tin của chúng ta sẽ ra sao nếu chúng ta cứ “dây dưa” với những loại “hủi nghi nan.. hủi ngờ vực”?


Đức ái của chúng ta liệu có tồn tại nếu chúng ta bị nhiễm loại “hủi hận thù, hủi nóng giận, hủi bất hòa”?

 
Làm sao chúng ta có thể trở nên con Thiên Chúa nếu chúng ta bị nhiễm loại “hủi tranh chấp, hủi chia rẽ , hủi bè phái”?

 
Y học có câu “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Vì thế, không có lời khuyên nào tốt hơn lời khuyên “đừng dây với hủi”. Những loại hủi đã được liệt kê ở trên.

 
Sẽ có người nói, thiên thần còn sa ngã huống hồ là thân phận con người yếu đuối như chúng ta.

 
Đúng vậy. Có phần chắc là không ai trong chúng ta lại không hơn một lần mắc phải một hay nhiều loại phong hủi nêu trên.

 
Chính vì thế, hãy để cho tâm hồn lắng đọng và hãy tự hỏi lòng mình rằng “tôi có đang bị mắc bệnh phong tâm linh không?”

 
Nếu có. Hãy đến và quỳ dưới Thánh Thể Chúa Giêsu mà nguyện xin rằng “Nếu Chúa muốn. Xin Ngài phán một lời thì linh hốn con sẽ lành mạnh”.

 
Chỉ cần một động tác của tâm hồn và đến “tòa cáo giải” gặp gỡ các linh mục, như xưa kia chàng hủi đã đến gặp gỡ các thầy tư tế. Hãy tin rằng Đức Giêsu, qua các linh mục, Ngài cũng sẽ nói “Tôi muốn, anh sẽ lành mạnh”.


Hãy nhớ rằng, nếu bệnh phong thể xác làm con người mất cảm giác trên cơ thể, thì bệnh phong tâm linh sẽ làm cho ta mất “cảm xúc” trước ân sủng của Thiên Chúa.


Vì thế, đừng chần chờ gì nữa. Hãy đến tòa cáo giải mà nói với Chúa rằng “Con muốn. Xin Chúa làm cho con được sạch”.



Petrus.tran



Thứ Tư, 8 tháng 2, 2012

Đức GIÊSU : Đến là để phục vụ.

Đức Giêsu : Đấng đến là để phục vụ.

Chỉ còn chưa đầy một năm, khoảng đầu tháng 11.2012, Hoa Kỳ sẽ tiến hành cuộc bầu cử để chọn vị tổng thống thứ 45. Trong những ngày qua, hai chính đảng Công Hòa và Dân Chủ đang ráo riết chọn xem ai sẽ là ứng viên sáng giá nhất cho đảng của mình.

Riêng về các ứng viên, một làn sóng những cuộc tranh luận, những thách thức và nhất là những lời tuyên bố nặng ký để đánh bóng tên tuổi các ứng viên đã được loan truyền trên khắp các phương tiện thông tin đại chúng. Ai cũng muốn gây ấn tượng qua những lời tuyên bố đó, hầu để thu hút cử tri bỏ phiếu cho mình.

…….

Hơn hai mươi thế kỷ trước. Sau ba mươi năm sống ẩn dật tại làng quê Nazareth , Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã có nhiều lời tuyên bố trước nhiều cử tọa khắp miền Palestina.

Thế nhưng, những lời tuyên bố của Đức Giêsu không phải để đánh bóng tên tuổi của Ngài, hay để lấy phiếu của cử tri. Những lời tuyên bố của Đức Giêsu không ngoài mục đích kêu gọi mọi người hãy tin vào Thiên Chúa. Một Thiên Chúa “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Có những lời tuyên bố mang tính cách cáo trách con người, như “hãy ăn năn và sám hối” hoặc “khốn cho các người… khốn cho các ngươi…”. Nhưng cũng có những lời tuyên bố thấm đậm tình yêu thương. “Ta đến là để chiên được sống và được sống sung mãn”. Hoặc “Ta đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ”.

Đức Giêsu đến là để phục vụ. Đúng vậy. Có thể nói, ba năm thi hành sứ vụ là ba năm Đức Giêsu phục vụ không ngơi nghỉ. Đến bất cứ nơi đâu, Đức Giêsu không chỉ dùng lời nói giảng dạy, không chỉ đưa ra những lời tuyên bố . Ngài còn hành động qua việc phục vụ con người.

Ngài đã phục vụ con người qua việc hóa bánh cho họ ăn. Ngài đã phục vụ con người qua việc chữa lành bệnh tật. Và ngay cả những căn bệnh thầy thuốc không chữa trị được như là bị quỷ ám, Ngài cũng đã trừ khử một cách hết sức kỳ diệu.

Capharnaum. Vâng, có thể nói, đây là thành phố được hưởng nhiều sự ưu ái qua việc phục vụ của Đức Giêsu. Nơi đây, Đức Giêsu đã có những bài giảng khiến nhiều người sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài. Nơi đây, Đức Giêsu đã phục vụ con người không mệt mỏi. Ngài đã phục vụ con người từ buổi sáng khi hội đường bắt đầu nhóm họp cho đến chiều “khi mặt trời đã lặn” (Mc 1, 32).

Thật vậy, sự việc đó đã được chép lại như sau : Hôm đó, tại Capharnaum, sau khi đã chữa trị cho một người bị quỷ ám trong hội đường. Đức Giêsu cùng hai môn đệ tên là Gioan và Giacôbê “đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê”. (Mc 1, 29).

Simôn và Anrê cũng là môn đệ của Đức Giêsu. Vì thế không có gì ngạc nhiên khi Thầy Giêsu, sau một buổi thuyết giảng ở hội đường, nay trở về nhà của trò để nghỉ ngơi.

Than ôi! Cứ tưởng rằng Thầy và trò sẽ có vài giây phút thư giãn và nghỉ ngơi. Không ngờ, khi Đức Giêsu vào nhà, trước mặt Ngài là hình ảnh “bà mẹ vợ ông Simôn đang lên cơn sốt nằm trên giường”.

Thấy Đức Giêsu, thân nhân của ông Simôn không bỏ lỡ cơ hội, họ “nói cho Người biết tình trạng của bà”.

Trong thời chiến, người ta thường khuyến khích “hậu phương yểm trợ tiền tuyến”. Ôi! Nay “hậu phương” đang bị “giặc sốt pháo kích” thì làm sao chàng chiến binh Simôn yêm tâm chiến đấu nơi tiền tuyến!

Trước nan đề đó, Đức Giêsu không thể không hành động.

Câu chuyện được kể tiếp rằng “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay…”. (Mc 1, 31). Chỉ một động tác đơn giản của Đức Giêsu, người ta thấy “bà mẹ vợ ông Simon” đi lại như chưa hề bị cơn sốt hành hạ. Bà ta lại còn lăng xăng lui tới “phục vụ các ngài”.

Đúng là tiếng đồn về một ông Giêsu đầy quyền năng quả đã không sai.

Buổi sáng, ông Giêsu trừ quỷ và chữa bệnh. Buồi chiều, cũng vậy. “Khi mặt trời đã lăn”. Người ta đã đem “mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. (Mc 1, 32)

Mặt trời đã lặn rồi ư! Đức Giêsu vẫn tiếp tục chữa bệnh và trừ quỷ. Quỷ biết rõ Đức Giêsu là ai. Nhưng Đức Giêsu đã “không cho quỷ nói”.

Vâng, Ngài không cho quỷ nói. Nhưng chúng ta vẫn có thể nói rằng : Đức Giêsu – Đấng đến là để phục vụ.

Một chút tâm tình…

Vâng, rất đúng khi gọi Đức Giêsu bằng danh hiệu “Đấng đến là để phục vụ”. Hay có thể nói, Ngài chính là con người của phục vụ.

Sự phục vụ của Ngài vượt ra khỏi không gian lẫn thời gian. Vượt lên cả những tục lệ cổ hủ. Và đặc biệt hơn cả, sự phục vụ của Ngài “bất vụ lợi”.

Hãy nhìn xem. Sau khi đã cứu chữa bà mẹ vợ của ông Simôn và những kẻ ốm đau khác cũng như trừ quỷ cho nhiều người. Đức Giêsu ra mệnh lệnh cho các môn đệ “hãy đi nơi khác , đến các làng xã chung quanh”. Vâng, cũng là để “rao giảng và trừ quỷ”.

Sẽ có người thắc mắc rằng, vẫn còn một số người “đang tìm Thầy đấy” sao Thầy không ở lại xem họ cần gì để mà “phục vụ” họ!

Thưa rằng, với tinh thần phục vụ bất vụ lợi, Đức Giêsu không muốn tiếp họ, bởi rất có thể, biết đâu họ đến gặp Ngài, không phải để xin cứu chữa, mà là để “tạ lễ” Ngài bằng những bữa “yến tiệc” linh đình, điều mà hôm nay, nhiều phái đoàn từ thiện đã được tiếp đón như vậy và họ luôn rất muốn được như vậy. (Đúng không!)

Vâng, nếu ở lại để đón nhận sự đáp lễ, như thế thì sự phục vụ của Đức Giêsu còn đâu ý nghĩa “đến là để phục vụ”!

Chính vì mang tinh thần “đến là để phục vụ” và phục vụ “bất vụ lợi”. Đức Giêsu bất chấp những tục lệ cổ hủ. Ngài vẫn chữa bệnh cho bà mẹ vợ ông Simôn. Vì đây là một tình huống khó xử đối với Đức Giêsu. Khó xử bởi trong thời Đức Giêsu, việc đụng chạm đến người phụ nữ đang lên cơn sốt, vào ngày sabát, là điều không nên làm.

Thế nhưng, Đức Giêsu đã không để cho những “tục lệ” đó ảnh hưởng đến sứ mạng “cứu người” của Ngài.

Sau này, người ta đã thấy Đức Giêsu không ngừng lên án những tục lệ quái đản do con người đặt ra. Tục lệ “rửa tay trước khi ăn” chẳng hạn. Ngài đã phản ứng trước tục lệ đó bằng một lời nói hết sức thuyết phục “Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ô uế… Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế” (Mc 7, 20).

Tinh thần phục vụ bất-vụ-lợi của Đức Giêsu, sau này, đã ảnh hưởng sâu đậm lên thánh Phaolô. Để rồi thánh nhân đã cảm nhận rằng “đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm”.

Thánh Phaolô còn nhấn mạnh rằng, phải “tự ý làm việc đó”. Bởi theo Ngài, nếu không làm, thì thật là “Khốn thân tôi!” (1Cor 9, …16).

Một phút suy tư…

Giữa một xã hội vẫn còn đó biết bao người “đang lên cơn sốt”

SỐT bởi sự đau đớn thuộc thể xác, bởi những căn bệnh hiểm nghèo, bởi sự nghèo túng, bởi sự thất nghiệp, bởi kiếp không cửa không nhà…

SỐT bởi những ray rứt hận thù, bởi những tranh chấp, bởi những bất công…

SỐT bởi những nghi nan và thất vọng. Những nghi nan “Có Chúa không!”. Những thất vọng “Chúa đâu rồi!” v.v…

Ai… Ai sẽ là người đến với họ, an ủi họ, giúp đỡ họ?

Phải chăng là chính chúng ta?

Đúng vậy. Chính chúng ta…

Chúng ta phải là cánh tay nối dài của Chúa Giêsu. Như xưa kia Chúa đã làm cho bà mẹ vợ của ông Simôn thế nào, hôm nay chúng ta cũng phải làm như thế.

Chúng ta phải “lại gần họ, cầm lấy tay họ mà đỡ dậy”.

Một cách cụ thể. Chúng ta phải trở thành tác nhân để Chúa dùng làm “khí cụ bình an của Chúa”. Chúng ta phải sẵn sàng để Chúa sai đi “tìm an ủi người hơn được người ủi an”. Chúng ta phải sẵn sàng để Chúa sai đi “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”. Chúng ta phải ra đi “đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng” (*).

Vâng, đây là những công việc không dễ thực hiện nếu không cầu nguyện và không có ơn Chúa.

Nhưng dù dễ hay khó thì đó cũng là “nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” cho chúng ta.

Nếu chúng ta thực hiện, dù chỉ thực hiện một phần nhỏ trong những phần Chúa giao phó, như thế “mới đáng Thiên Chúa thưởng công”.

Còn nếu chúng ta không thực hiện !

Vâng. Thật “khốn-thân-tôi !”. Vào ngày sau hết, ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, “đâu là phần thưởng của tôi” trên Nước Trời ? (1Cor 9, 18)



Petrus.tran



………



(*) Kinh hòa bình : tác giả Kim Long.

Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...