Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

Gia đình... Ôi! hai tiếng yêu thương.

Gia đình… Ôi! hai tiếng yêu thương.

Xóm tôi là một xóm lao động nghèo. Trước kia, nơi đây là những cánh đồng ruộng, nhà cửa thưa thớt. Thế nhưng, kể từ khi có chính sách mở cửa, nhiều nhà đầu tư đến biến đồng ruộng thành khu chế xuất, khu công nghiệp, thế là cư dân địa phương đua nhau cất nhà trọ.

Những người thuê nhà trọ đa số là công nhân, cũng có một số ít, họ làm nghề tự do như: thợ hồ, bán vé số, bán băng dĩa (dĩ nhiên là băng dĩa lậu).

Tập tục của người Việt Nam là “buôn có bạn, bán có phường”, vì thế, những người làm nghề tự do, họ quy tụ lại với nhau mướn những căn phòng trọ gần nhà tôi. Hơi dài dòng, nhưng đó là mấu chốt vấn đề mà tôi sẽ kể sau đây.

Vâng, sống gần họ, có nhiều điều hết sức bực bội, nhất là những khi họ đi bán về, nào là tiếng hò hét bởi nhóm người ăn nhậu, tiếng chồng chửi vợ, tiếng vợ cãi chồng, tiếng karaoke ầm ĩ. Đó là chưa nói tới lâu lâu lại xảy ra một vụ “đánh ghen”. Nói chung là rất mất trật tự.

Thế nhưng, hôm giữa tuần vừa qua, khoảng từ ngày 17 đến ngày 19/12/2012, tự nhiên, xóm tôi yên ắng hẳn. Theo nguồn tin của thông tấn xã “bà tám” cho biết, họ, những người ở trọ, lần lượt rủ nhau về quê.

Về quê làm gì! Đã tết đâu mà về quê! Xin thưa, cũng với nguồn tin trên, thì ra, vì họ sợ, sợ ngày 21/12/2012 sắp tới sẽ là “ngày tận thế”. Họ nói với nhau rằng, về quê, nếu có chết thì cùng chết chung với gia đình.

Cùng-chết-chung-với-gia-đình!... Gia đình… Ôi! hai tiếng yêu thương. Nhớ về biến cố 30/04/1975, nhiều người đã từ bỏ cơ hội di tản cũng chỉ vì: Ôi! yêu thương hai tiếng “Gia đình”.

**

“Gia đình”. Vâng, Thiên Chúa, trong chương trình sáng tạo, Người đã tạo dựng một gia đình hoàn thiện , gia đình Adam-Eva. Người đã đặt gia đình Adam-Eva vào một nơi gọi là vườn Eden. Tại đây, Thiên Chúa đã cho họ làm bá chủ “cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”.

Nhưng than ôi! Gia đình Adam-Eva đã phạm tội bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa. Sự phạm tội của Adam-Eva không chỉ dẫn đến sự chìa lìa với Thiên Chúa mà còn xảy ra biết bao sự khủng hoảng trong gia đình.

Sự khủng hoảng đầu tiên, đó là, Adam và Eva mất đi sự gắn bó “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Mất đi sự gắn bó, gia đình Adam-Eva mất đi “hai tiếng yêu thương”. Mất đi hai tiếng yêu thương, “gia đình Adam-Eva” trở thành “chiến trường Cain-Abel”… để rồi kết thúc là một án mạng.

Kể từ đó, khi nói tới hai tiếng “gia đình”, người ta thường tự hỏi. “… là đường đưa ta tới thiên đàng hay đưa tới địa ngục” (Honoré de Balzac)

***

Không! Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh chép, Người “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới dất” (Ep 3, 14). Cho nên, gia đình vẫn là nơi được Thiên Chúa chúc phúc, như xưa kia Người đã chúc phúc cho Adam, rằng “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó”. Gia đình vẫn là nơi được Thiên Chúa ban phúc lành, như xưa kia Người đã “ban phúc lành cho ông Noe và các con ông” (St 9, 1)

Chính vì thế, “gia đình… hai tiếng yêu thương” vẫn nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian, không như một “Ngộ Không huyền thoại” với bảy mươi hai phép thần thông biến hóa, nhưng bằng hình hài một hài nhi được sinh ra tại Belem bởi một Trinh Nữ tên là Maria và người cha là Giuse.

Vâng, sự vâng lời của Đức Maria “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” và sự vâng phục của Thánh Giuse, sẵn sàng “làm như sứ thần Chúa dạy” đã gây chấn động toàn cõi Giêrusalem, chấn động bởi, Nazareth, nơi được cho là “làm sao có cái gì hay được” lại có một “Gia Đình Thánh – Thánh Giuse, Thánh Maria và Thánh Tử Giêsu”.

Gia-Đình-Thánh – không “thánh” bởi những “vần hào quang” mà các vị họa sĩ, khi vẽ, thường tô điểm trên khuôn mặt các Ngài. Gia-Đình-Thánh – không “thánh” do những lời đồn đãi bởi những “ngụy thư” mang tính chất “huyền thoại”.

Gia-Đình-Thánh – “thánh” bởi chính đời sống đức tin, đức cậy và đức mến.

Vâng, hãy trở về làng Nazareth cổ kính năm xưa mà xem, có gia đình nào “sống đức tin” như gia đình Giuse-Maria-Giêsu!

Thật vậy, dẫu biết rằng Giêsu, “Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”, nhưng không vì thế mà Maria-Giuse lại có thái độ “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Trái lại, các Ngài vẫn trung thành với lề luật do “Đấng Tối Cao”, qua Apraham hoặc Mosê, đã công bố.

Luật Đấng-Tối-Cao dạy rằng “mọi đàn ông con trai… sẽ phải chịu cắt bì”, Hài Nhi Giêsu-Con Đấng Tối Cao, khi đủ tám ngày, đã “làm lễ cắt bì” (Lc 2, 21).

Luật Đấng-Tối-Cao dạy “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, ông bà Giuse-Maria đã giữ đúng luật “đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa”

Thế nhưng, chính hôm cả gia đình Giuse-Maria-Giêsu “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua” người ta mới có thể thấy đức tin, đức cậy và đức mến nơi Gia-Đình-Thánh vững mạnh như thế nào.

Chuyện kể lại rằng, hôm đó, sau khi “xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêsusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết”. (Lc 2, 43).

Ôi! Phải chăng cha mẹ Đức Giêsu vô tâm, thiếu trách nhiệm với con cái?

Thưa không. Chuyện là thế này, Đền thờ Giêrusalem có bốn cổng, hai cổng dành cho nữ và hai cổng dành cho nam. Khi vào, nam và nữ phải đi đúng cổng quy định. Riêng trẻ em, có thể đi bên nào tùy thích. Cho nên, việc ông bà Giuse-Maria “cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành” là điều không có gì đáng trách.

Mà có gì phải đáng trách chứ! Hãy nhìn xem, sau khi tìm kiếm con giữa đám bà con và người thân thuộc… “Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm” (Lc 2, 45). Hãy nhìn xem, cha mẹ Đức Giêsu đã phải “cực lòng tìm con” như thế nào!

Nếu… nếu cần trách… Vâng, thưa quý vị, hãy trách những “ai đó” đã dùng lời con trẻ Giêsu nói với Mẹ Maria rằng, “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”, để lấy đó như là lý lẽ biện minh cho việc “không cần coi ‘bà Mari và ông Giôsép’ như là mẫu mực của đức tin, đức cậy và đức mến”.

Đúng… đúng là “bà Mari và ông Giôsép” đã “không hiểu lời Người vừa nói”, nhưng, liệu điều đó có tác động xấu đến đức tin của hai ông bà? Thưa không, hãy nhìn xem, Đức Maria và Thánh Giuse tuy không hiểu, nhưng các Ngài vẫn đặt niềm tin vào lời “Con Đấng Tối Cao”… Bởi tin, nên các Ngài đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2, …51).

Khép lại câu chuyện gia đình Giuse-Maria-Giêsu “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua”, thánh sử Luca ghi lại rằng, Đức Giêsu đã “cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài”. Người “càng ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta”…

Vâng, một gia đình như thế, quả là một gia-đình-thánh, một gia đình gói ghém trong “hai tiếng yêu thương”.

****

Là một Kitô hữu, một người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta đã nhìn, đã lấy gia đình Giuse-Maria-Giêsu như là mẫu mực cho cuộc sống gia đình của chúng ta?

Hay chúng ta cho rằng, mô hình “gia đình Giuse-Maria-Giêsu” thật khó thích hợp với chúng ta, chỉ là những phàm nhân, đầy yếu đuối và tội lỗi, làm sao có thể so sánh với một gia đình có hai “vị thánh Maria-Giuse” và một vị là “Con Đấng Tối Cao”!

Ôi! Nghĩ như thế có quá thiển cận không? Có đấy. Chữ “thánh” được đứng trước tên Maria và Giuse là do chúng ta “nhét” vào, sau khi các Ngài không còn ở trần thế. Đối với các tông đồ, Đức Maria và thánh Giuse chỉ là cha mẹ Đức Giêsu, là ông bà Giuse-Maria.

Bàn tới, bàn lui cho vui vậy thôi. Chứ các Ngài quả là “thánh” nhưng cách trở nên “thánh” của các Ngài, chúng ta không thể nói là không noi theo được. Vâng, rất giản dị, chỉ hai chữ “vâng lời” đối với Đức Maria và “vâng phục” đối với Thánh Giuse.

Đừng nghĩ rằng, Thiên Chúa cũng sẽ bắt chúng ta “vâng lời và vâng phục” Người giống như cách Đức Maria và thánh Giuse xưa kia đã “vâng lời và vâng phục” .

Hôm nay, điều chúng ta cần vâng lời và vâng phục, chính là “tuân giữ các điều răn của (Thiên Chúa) và làm những gì đẹp ý Người” (1Ga 3, …22).

Thế nào là làm đẹp ý Người? Vâng, tác giả sách Huấn Ca cho biết rằng, đẹp-lòng-Đức-Chúa, đó là, đừng bao giờ làm cho gia đình mất đi bầu không khí yêu thương “anh em hòa thuận, láng giềng thân thiết, vợ chồng ý hợp tâm đầu” (Hc 25, 1).

Chúng ta ước ao có được cả ba điều đó trong gia đình chúng ta? Nếu chúng ta thật sự ước ao, chắc chắn khi nói tới “Gia đình”, chúng ta sẽ không ngần ngại mà thốt lên rằng, “Gia đình… Ôi! Hai tiếng yêu thương”.

Petrus.tran





































Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Ai là người "thật có phúc"!

Ai là người “thật có phúc”!


Chỉ còn đúng một ngày, tính từ Chúa Nhật 23/12/2012, sẽ là ngày đại lễ Giáng Sinh. Có thể nói, đây là một ngày lễ làm bận rộn tâm trí của không biết bao nhiêu con người.


Có người hối hả, vội vã cho việc mua sắm, tiêu xài. Có người lo tìm kiếm những món quà đắc ý. Có người dồn hết tâm trí cho việc tổ chức những buổi tiệc linh đình, hầu để chứng tỏ đẳng cấp của mình trong xã hội. Lại có người hối hả chọn lựa cho mình những tour du lịch giải trí cho một tuần lễ cuối cùng của năm cũ.


Tâm lý chung là mọi người chỉ nghĩ đến ăn uống, tiệc tùng, sắm sửa, quà cáp v.v… chỉ quan tâm đến những thú vui thuộc trần gian mà quên đi ý nghĩa đích thực của lễ Giáng Sinh.


Với người Công Giáo thì khác hẳn. Lễ Giáng Sinh là ngày “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Sự vinh danh đó không thể và không cho phép bị cuốn hút vào những thú vui trần gian chóng qua, và sự bình an đó phải được thực hiện bằng chính tình yêu thương qua việc phục vụ tha nhân.


Chính vì thế, Chúa Nhật thứ IV mùa vọng hôm nay, cũng là tuần lễ cuối cùng để chuẩn bị đại lễ Giáng Sinh, Giáo Hội, qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, đã đưa ra một con người thật, thật chứ không là giả tưởng, như là mẫu mực cho tình yêu thương qua sự phục vụ. Con người đó chính là Đức Maria, một con người thật có phúc.


Sở dĩ, Đức Maria được coi như là mẫu mực cho tình yêu thương qua sự phục vụ một cách ưu việt là vì cuộc sống của Mẹ đã chứng minh điều đó. Cuộc sống đó đã được ghi chép lại trong Tin Mừng của Thánh Luca qua trình thuật: “Đức Maria viếng thăm bà Elizabeth” (Lc 1, 39-45).




**


Vâng, như chúng ta được biết, khi đó Đức Maria đã cưu mang Chúa Giêsu nhờ quyền phép Chúa Thánh Thần.


Thoạt tiên, khi được sứ thần Gabriel loan báo Mẹ đã được Thiên Chúa chọn để cưu mang Đấng Cứu Thế - Đấng “sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”, Đức Maria không khỏi không “bối rối”.


Sự bối rối của Đức Maria cũng là sự bối rối thường tình, Thiên Chúa là Đấng vô hình, làm sao Người lại có thể mang thân xác hữu hình! Thiên Chúa là Đấng vô hạn, làm sao Người lại có thể đến cư ngụ với con người hữu hạn! Vả lại, như lời Đức Maria nói, “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”…


Có thể nói, lời trần tình của Mẹ hợp lý. Thế nhưng, khi sứ thần nói với Đức Maria rằng “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”, đồng thời báo tin cho Mẹ biết “bà Êlisabeth tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai, bà ấy vẫn mang tiếng là hiếm muộn mà nay đã có thai”, nhờ đó, Đức Maria như thấu hiểu và đã không còn băn khoăn về việc phải lãnh nhận trọng trách cưu mang Con Thiên Chúa. Cuối cùng Mẹ đã “xin vâng”.


Tuy không còn băn khoăn về chuyện của mình, nhưng tâm lòng Đức Maria lại dấy lên một niềm băn khoăn mới, một niềm băn khoăn mà chỉ có ai cùng chung cảnh ngộ mới có thể thấu hiểu, đó là việc “ốm nghén”…


Hãy nhìn xem, bà chị họ Elzabeth tuổi đã già lại đang trải qua cơn ốm nghén, hỏi sao Đức Maria không băn khoăn cho được! Cầu nguyện ư! Gửi đến bà một vài chai dầu gió hoặc vài thứ cần thiết cho trẻ sơ sinh ư! Tốt đấy nhưng như thế đã là đủ?


Kinh Thánh có lời khuyên “Đừng ngại thăm non người ốm” (Hc 7, 35).


Vâng, có thể tin, lời khuyên đó đã làm cho Đức Maria quên ngay chính hoàn cảnh của mình cũng vừa “ốm nghén” mà hướng về cảnh ngộ của bà Êlisabeth bằng một hành động thiết thực, đó là “vội vã lên đường” đi thăm bà ta.


Đi thăm bà chị họ, Đức Maria muốn nói rằng, tình yêu thương phải được biểu lộ cụ thể qua sự phục vụ, sự phục vụ mà sau này chính con của Mẹ đã đem ra làm bài học cho người môn đệ của Ngài, rằng “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10, 45).


Đến-là-để-phục-vụ. Vâng, Đức Maria đã không “nũng nịu”nói với bà chị họ của mình rằng “em…em cũng đang ốm nghén… cũng cần được phục vụ”. Trái lại, Đức Maria đã ở lại phục vụ bà Êlisabeth “độ ba tháng” rồi mới trở về nhà mình.


***


Chắc hẳn hôm nay, ai trong chúng ta cũng đã bài trí xong một hang đá Belem cho gia đình của mình. Và tất nhiên, trong hang đá đó, chúng ta sẽ không bao giờ quên trưng bày hình tượng những nhân vật đã viết lên lịch sử cứu độ như thánh Giuse, Chúa Hài Đồng Giêsu và Đức Maria.


Vâng, đó là một truyền thống đẹp. Thế nhưng, sẽ chẳng ý nghĩa gì nếu chúng ta chỉ đặt “tượng” những nhân vật đó vào hang-đá-giấy mà không đặt “tâm tình” những nhân vật đó vào hang-đá-tâm-hồn của chúng ta.


Hãy thử tưởng tượng!


Nếu… nếu chúng ta cùng có một tâm tình của Đức Maria, một tâm tình yêu thương và phục vụ, sẵn sàng vội vã lên đường, đến với những trẻ thơ bất hạnh, đến với những thai nhi vô thừa nhận… Vâng, có phần chắc, chúng ta sẽ lại được nghe tiếng thai nhi “trong bụng nhảy mừng”. Có phần chắc, chúng ta sẽ được nhìn thấy nhiều trẻ thơ “nhảy lên vui sướng”.


Hãy thử nghĩ xem…


Nếu… nếu chúng ta sẵn sàng vội vã lên đường, đến với những bà Êlisabeth-già-nua không nơi nương tựa… những Êlisabeth đang “ẩn-mình-chờ-chết” trên giường bệnh vì không có tiền thuốc thang… những Êlisabeth bị bỏ rơi với đàn con nhếch nhác v.v… Vâng, có phần chắc, chúng ta sẽ được nghe nhiều lời chúc phúc. Có phần chắc, chúng ta sẽ được những bà Elizabeth-của-thời-đại-hôm-nay lớn tiếng kêu lên “Bởi đâu tôi được (bạn) tôi đến với tôi thế này!”…




****


Viết tới đây, tôi xin phép gửi đến quý vị một câu chuyện có thật, thật 100%.


Cách nay vài năm, em tôi bị bịnh ung thư giai đoạn cuối và phải nhập viện trong tình trạng hết sức tồi tệ. Nhận được tin, thành thật mà nói, tôi không có được tâm tình như Đức Maria “vội vã lên đường” thăm viếng em tôi. Trái lại, trong tôi, nhiều lý do nảy sinh, nào là “lo gì đã có cô vợ của nó” nào là “đã có ông anh tôi ở đó rồi” v.v…


Chưa hết, khi đến thăm, tôi được biết em tôi cần một người ngồi túc trực bên cạnh trước là để theo dõi bịnh tình, sau là để xoa bóp cơ thể hầu cho máu huyết lưu thông dễ dàng. Tôi xung phong túc trực ca đêm và hứa rằng sẽ túc trực như thế cho đến khi em tôi xuất viện.


Than ôi! Chỉ mới một đêm, tôi đã cảm thấy mệt mỏi. Sang đêm thứ hai, tôi “đào ngũ” với lý do rất hợp lý “có vợ con nó lo”. Rạng sáng của ngày thứ ba, em tôi chết.


Em tôi chết rồi, tôi nghĩ, phải chi tôi “ở lại với em tôi” thêm một đêm nữa thì an ủi cho em tôi biết chừng nào! Vâng, một đêm thôi, có cần chi “độ ba tháng” như Đức Maria!


Có lẽ trong cuộc sống thường nhật, ai trong chúng ta cũng sẽ hơn một lần phải đối diện với trường hợp như của tôi.


Cho nên, thật phải đạo khi hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi rằng, tôi đã “trang trí” hang-đá-tâm-hồn của tôi “tâm tình của Đức Maria”?


Hãy tự hỏi mình rằng, đã qua bao nhiêu “mùa đông giá hang Belem Chúa sinh ra đời”, thế nhưng, chúng ta đã thật sự có một tâm tình yêu thương qua sự phục vụ như Đức Maria? (Dẫu rằng chỉ là phục vụ cho người thân của mình)


Còn về vấn đề tâm linh thì sao! Hãy tự hỏi mình rằng, đã bao nhiêu lần “quỳ bên hang sâu nghe lời Kinh Thánh vang cầu”, thế nhưng, chúng ta có sẵn sàng vội vã lên đường “đem yêu thương vào nơi oán thù… đem thứ tha vào nơi lăng nhục… đem an hòa vào nơi tranh chấp… đem chân lý vào chốn lỗi lầm”?


Đừng nghĩ rằng, đó là những công việc khó thực hiện. Là một Kitô hữu, với ơn Chúa, cách này hay cách khác, chúng ta đủ sức để thực hiện những công việc nêu trên.


Vì thế, một Giáng Sinh tốt đẹp phải là một Giáng Sinh của tình yêu thương qua sự phục vụ. Hãy nghe tác giả sách Huấn Ca nói “vì nhờ những việc như thế mà con sẽ được mến yêu” (Hc 7, 35).

Ai… ai sẽ mến yêu chúng ta, khi chúng ta thực thi trọn vẹn những việc như thế nếu không phải là chính Thiên Chúa! Vâng, một khi Thiên Chúa đã mến yêu chúng ta, như Đức Maria xưa kia, hãy tin, chúng ta cũng sẽ là những người “thật có phúc”.


Petrus.tran






















Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

Chúng ta phải làm gì đây?

Chúng ta phải làm gì đây?


Hai tuần của Mùa Vọng đã trôi qua, hôm nay (16/12/2012) toàn thể Giáo Hội bắt đầu bước vào Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng. Có thể nói, tuần thứ ba của Mùa Vọng là một tuần rất bận rộn đối với các vị linh mục chánh xứ. Ngoài việc đôn đốc các thành viên trong giáo xứ làm hang đá, trang trí nhà thờ hay tập dợt diễn nguyện thánh ca, các vị linh mục còn phải chuẩn bị cho những buổi tĩnh tâm giảng phòng và nhất là ngồi tòa giải tội cho tín hữu.


Với những buổi tĩnh tâm giảng phòng và giải tội, có lẽ nhiều người trong chúng ta ít đi vào chiều sâu của nó mà chỉ tham dự và thực hiện một cách chiếu lệ như là một sự bắt buộc phải làm.


Thế nhưng, nếu chúng ta tham dự những buổi tĩnh tâm giảng phòng và giải tội với một tâm hồn “sám hối trở về”, quả thật đó là lúc nó gợi cho ta nhớ đến cội nguồn của lịch sử cứu độ, nơi Chúa Giêsu đã giáng trần, nơi dân Israel xưa kia đã lũ lượt kéo đến để nghe về một Đấng cứu độ muôn dân, nơi từng đoàn người lũ lượt kéo về sông Giodan sám hối thú tội để được ơn tha tội.


**


Vâng, ngày đó, nếu được phép gọi đó là “Mùa Vọng thứ nhất” của lịch sử cứu độ. Bên bờ sông Giodan là một rừng người, họ từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giodan tụ tập lại đó. Họ đến vì nghe nói rằng: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan”.


Ông Gioan là ai? Thưa rằng, vào “năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tiberio, thời Phongxio Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philipphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônit, Lysania làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế…”, ông Gioan đã xuất hiện như một chứng nhân sau nhiều năm sống trong hoang địa, sống đời sống đơn sơ và giản dị: “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (Mt 3, 4).


Người chứng nhân Gioan đã nói với mọi người rằng, “hãy chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3, 3).


Những cảnh báo thẳng thắn của ông như những “phát búa”, như những “nhát rìu” chém thẳng vào tận tâm can, tận đáy lòng, tận thâm tâm từng người. Nó đã đặt mỗi người trước một lựa chọn, hoặc là : “Hãy sinh những hoa quả xứng đáng với lòng sám hối”. hoặc phải đối diện với: “cơn thịnh nộ của Thiên Chúa” (Lc 3, 8).


***


Vâng, và họ đã chọn lựa.


Đã hằng bao ngàn năm, họ trông ngóng “Đấng Mesia” nay lại được ông Gioan công bố rằng “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” thì quả là một Tin Mừng cho họ.


Dòng sông Giodan dậy sóng nhưng không phải sóng nước mà là một làn sóng người “lũ lượt kéo đến xin ông Gioan làm phép rửa” hòa theo âm vang của những lởi hỏi han rằng “Chúng tôi phải làm gì đây?”


****


“Chúng tôi phải làm gì đây?”


Đối với chúng ta hôm nay, nên chăng, câu hỏi này phải được sửa là “Chúng ta phải làm gì đây?”


Xin thưa, đúng vậy. Chúng ta phải làm gì đây?


Vâng, hai tuần liền, Phụng Vụ Lời Chúa, đều nhắc đến Gioan Tiền Hô. Nhắc đến Gioan Tiền Hô, Giáo Hội muốn đưa ra câu trả lời cho chúng ta rằng, điều “chúng ta phải làm” chính là những điều Gioan Tiền Hô bảo làm.


Gioan Tiền Hô bảo làm gì ư!


Đây! Hãy tự hỏi lòng mình rằng, đã biết bao lần chúng ta cất tiếng reo vang “Nửa đêm mừng Chúa giáng sinh ra chốn nhân trần” và nói với bàn dân thiên hạ rằng “Người đem ân phúc xuống cho muôn dân lầm than” thế nhưng, đã được mấy lần chúng ta xóa kiếp lầm than, cho một người thật sự lầm than, bằng việc “có hai áo… chia cho người không có… có gì ăn thì cũng làm như vậy”?


Cho nên, thật phải đạo khi hôm nay chúng ta trở về dòng sông Giodan năm xưa, trở về dòng sông Giodan không phải để ngồi đó nhìn “thuyền ai lờ lững trôi suôi dòng” nhưng là để cùng Gioan Tiền Hô nhìn lại “con thuyền cuộc đời” của chúng ta.


Con thuyền cuộc đời của chúng ta, sau bao mùa NOEL, đã chất chứa những gì?


Phải chăng là sự vô cảm, sự lãnh đạm trước những nỗi khổ đau, trước sự nghèo túng, trước sự áp bức, trước nỗi bất công… những thứ mà ông Gioan xếp vào loại “nòi rắn độc” không thể tránh khỏi “cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”?


Hay, con thuyền cuộc đời của chúng ta đang chuyên chở một tâm hồn độ lượng, một tấm lòng nhân ái, không “tham lam vơ vét…” không “đòi hỏi quá mức ấn định” không “hà hiếp ai” không “tống tiền người ta” và “an phận với số lương của mình”?


Vâng, chính chúng ta phải có câu trả lời.


Giờ đây, chúng ta hãy trở lại dòng sông Giodan năm xưa một lần nữa. Hãy nhìn xem, có rất nhiều người “lũ lượt kéo đến xin ông Gioan làm phép rửa”. Còn chúng ta hôm nay? Con thuyền cuộc đời của chúng ta đã “cập bến Giodan-Giáo Hội” bằng Bí Tích Thanh Tẩy?


Nếu chúng ta đã cập bến, đừng quên, trong bài “giảng phòng” ông Gioan đã nói: “Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối”.


Vâng, hoa quả xứng với lòng sám hối, như lời thánh Phaolô nói, đó là, một đời sống “sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi”. Ngài nói tiếp rằng, là “những gì là chân thật cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen, thì anh em hãy để ý… hãy đem ra thực hành” (Pl 4, 8-9).


Nếu…nếu chúng ta “để ý” đến những gì thánh Gioan Tiền Hô và thánh Phaolô đã khuyên răn và “đem ra thực hành”… Vâng, đó chính là câu trả lời cho câu hỏi “Chúng ta phải làm gì đây?”


Petrus.tran


































Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Tôi đã thật sự tỏ lòng sám hối!

Tôi đã thực sự tỏ lòng sám hối…

Lịch Phụng Vụ hôm nay (09/12/2012) bước vào Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng. Bầu không khí của Lễ Giáng Sinh mỗi ngày một thêm rộn ràng. Thật vậy, nơi các xóm đạo, người ta bắt đầu tất bật giăng đèn, làm hang đá.

Nói tới việc làm hang đá, có thể nói, không nơi nào nhộp nhịp cho bằng nơi xóm đạo Bình An, Bình An Thượng v.v… Nơi đây, như một truyền thống đẹp, hễ đến lễ Giáng Sinh, nhà nhà, người người làm hang đá, làm hang đá trong tư thất chưa đủ, họ còn làm hang đá suốt dọc hai bên đường.

Ngoài những hang đá, những gì có liên quan đến Giáng Sinh đều được họ đem ra trưng bày, như cây thông Noel, như hình nhân người tuyết và đặc biệt là hình ảnh “ông già Noel”.

Ông già Noel là ai? Xin thưa, theo truyền thống cho rằng, ông già Noel được nói đến trong dịp lễ Giáng Sinh chính là hiện thân của thánh Nicola một vị thánh được Giáo Hội Công Giáo kính nhớ vào ngày 6 tháng 12 hằng năm. Ngài là giám mục tại Myra, một hải cảng trong vùng Lycea của Tiểu Á (ngày nay là Demre, Thổ Nhĩ Kỳ).

Thánh Nicôla là một người biết thương người nghèo và dành cả đời mình để phục vụ Thiên Chúa. Chuyện kể rằng, một lần, gặp ba cô gái trẻ không có người cầu hôn vì cha họ quá nghèo, thánh Nicôla liền lấy ba túi vàng và bí mật bỏ vào phòng ba cô gái nọ. Nhờ đó, họ lấy được chồng và sống rất hạnh phúc.

Thánh Nicôla còn được ca tụng là người rất yêu thương trẻ em. Ngài là người luôn mang quà đến cho trẻ em vào các dịp lễ Giáng Sinh.

Là vậy, nhưng, thánh Nicola không thể chiếm chỗ của một người, trong dịp lễ Giáng Sinh, hay nói đúng hơn, trong Mùa Vọng, người đó chính là ông Gioan, người mà chúng ta, hôm nay, quen gọi là Gioan Tiền Hô.

Vâng, kể từ khi nguyên tổ Adam và Eva phạm tội, con người mất hết ơn lành. Thiên Chúa trục xuất con người ra khỏi vườn Eden kèm theo bản án đời đời kiếp kiếp “người là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3, …19)

Thế nhưng, dẫu cho con người đã phạm tội. Thiên Chúa không vì thế mà bỏ rơi con người. Thiên Chúa vẫn luôn là “Đấng từ bi và nhân hậu: Người đại lượng và chan chứa tình thương… Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 102, 8-10).



Sự đại lượng và lòng chan chứa tình thương của Thiên Chúa được biết đến qua những lời giao ước với các tổ phụ, từ ông Ap-ra-ham cho đến ông Môse, cuối cùng với các ngôn sứ và đã được loan báo rằng : “Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1, 23).

Và khi thời kỳ đã mãn, ông Gioan Tiền Hô, chính là người được Thiên Chúa sai đi loan báo lời giao ước đó cho muôn dân.

**Vâng, Gioan-Tiền-Hô có một vai trò nổi bật trong lịch sử cứu độ. Dưới sự quan phòng của Thiên Chúa, mặc dù mẹ của ông “tuy già rồi” quá tuổi sinh con, nhưng Thiên Chúa đã nhận lời cầu xin của cha ông là Dacaria, đã cho ông ra đời một cách đặc biệt.

Khi ông Gioan được tám ngày, chịu phép cắt bì và đặt tên, thì Dacaria, cha của ông, được tràn đầy Thánh Thần và nói : “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng tối cao, con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,76).

Quả đúng như lời Dacaria nói, ông Gioan, sau những ngày sống trong hoang địa, khi có lời Thiên Chúa phán, ông liền đi khắp vùng sông Giodan với lời rao giảng kêu gọi người ta “chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3, 3).

Nghe tiềng đồn về ông, người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông rằng “Ông là ai?” ông Gioan đã trả lời rõ, rằng “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa…” và rằng “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. (Ga 1, …26-27).

Đúng, ông Gioan không phải là ngôn sứ, cũng không phải là Êlia. Sứ vụ Thiên Chúa giao cho ông chính là kêu gọi mọi người “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng…”


Kết thúc lời kêu gọi, ông nhấn mạnh rằng “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3, 6).

*** Thánh Nicôla, theo truyền thống được cho là “Ông già Noel”, ngoài ra ngài còn được gọi bằng một cái tên là “Thánh Ních vui vẻ”. Vâng, quả là thật vui vẻ khi chân dung Ngài được nhìn qua biểu tượng ông già Noel với trang phục đỏ thắm, dí dỏm với chùm râu bạc, ngồi chễm chệ trên chiếc xe trượt tuyết, có bảy con tuần lộc kéo, với một lô quà đem phát tặng cho trẻ em.

Thế nhưng, ngày nay, thật đáng tiếc “Ông già Noel” ngày càng bị xã hội thương mại hóa, “trần tục hóa” làm hoen ố tấm gương quảng đại của vị giám mục Nicola thánh thiện.

Nhắc tới chuyện này, bởi ngày nay, Lễ Giáng Sinh cũng đang dần bị con người “trần tục hóa”. Thật vậy, sự thật là thật sự có một “nhúm người” đang muốn đánh đồng lễ Giáng Sinh như một ngày “lễ hội… lễ hội dân gian”.

Nhưng điều đó cũng chưa phải là đáng ngại. Điều đáng ngại, đó là, chính chúng ta, chính cách chúng ta “dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi…” sẽ nói lên rằng, chúng ta có “trần tục hóa” lễ Giáng Sinh hay không?

Trở lại câu chuyện ông Gioan Tiền Hô.

Vâng, có bao giờ chúng ta tự hỏi, ông Gioan Tiền Hô sẽ nghĩ gì khi chúng ta “dọn sẵn… cho Đức Chúa” một cái hang đá thật vĩ đại, với một rừng ngôi sao, cờ phướn bay phất phới được điểm xuyết một dàn đèn nhấp nháy lên đến vài chục… chục triệu đồng!

Phải chăng, ngài “Tiền Hô” sẽ quay phim chụp hình rồi upload lên You Tube với lời “còm” theo điệu nhạc hip hop “good… good… good… very good”!

Hay phải chăng, ngài Gioan sẽ cho rằng, một hang đá đơn sơ, giản dị, cũng đủ để chúng ta biểu lộ “đức tin tông truyền”!

Đúng vậy, hang Belem xưa nghèo nàn tăm tối, thế nhưng vẫn chẳng có gì ngăn trở việc đem đến cho mọi người “ơn cứu độ của Thiên Chúa”.

Vì thế, đừng quên, trước hết và trên hết, hãy nghĩ đến “Hang đá Belem tâm hồn” của chúng ta.

Bởi, đó chính là nơi chúng ta phải “dọn sẵn con đường cho Đức Chúa… để Người đến”. Đó chính là nơi chúng ta phải sửa đổi những quanh-co-dối-trá trong tâm hồn. Đó chính là nơi chúng ta phải lấp những hố-sâu-tham-lam, những hố-sâu-hận-thù, những hố-sâu-chia-rẽ, những hố-sâu-đam-mê-dục-vọng.

Và cuối cùng, đó chính là nơi chúng ta phải “san cho phẳng” những-ngọn-núi-kiêu-ngạo, những đỉnh-đồi-kiêu căng…

Ngày xưa, hang Belem chỉ cần một ngôi sao lấp lánh, thế mà vẫn có thể “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.

Cũng vậy, đối với chúng ta hôm nay. Nếu hôm nay, Hang đá Belem tâm hồn của chúng ta có một ngôi sao mang tên “sám hối”, nó sẽ không chỉ mang đến cho chúng ta “ơn tha tội (và) ơn cứu độ của Thiên Chúa” mà còn giúp chúng ta có thể “đứng vững trước mặt Con Người” trong ngày quang lâm.

Hãy nghe lại một lần nữa lời thánh Luca chép về những gì Gioan Tiền Hô đã thực hiện. Vâng, thánh Luca chép rằng “Ông liền đi khắp vùng ven sông Giodan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (Lc 3, 3).

Vâng, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã “chịu phép rửa” nhưng, hãy tự hỏi lòng mình rằng, “tôi đã thực sự tỏ lòng sám hối?”

Petrus.tran



Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...