Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

Tôi là người thân cận của ai?



Tôi là người thân cận của ai?

Người Roma xưa có câu “Homo homini lupus” nghĩa là “Con người đối xử với nhau chẳng khác gì chó sói”. Thoạt nghe câu nói trên, nó làm cho chúng ta có cảm tưởng lời nói đó quá khắt khe. Nhưng, quả thật, nhìn vào thực tế của xã hội hôm nay, chúng ta không khỏi giật mình vì cách đối nhân xử thế của con người.  Chúng ta không khỏi bàng hoàng về phẩm hạnh của con người ngày một xấu đi.

Thật vậy, theo dõi trên truyền thông đại chúng, có thể nói, không ngày nào mà không có một án mạng xảy ra. Gần đây nhất, ngày 8/7/2013, là chuyện một người cháu trai “đi chơi về thấy cửa khoá nên leo cổng theo lan can lầu một vào trong và bị ông ngoại mắng. Tức giận, Tú (tên người cháu trai) đạp vào ngực và vật lộn với ông. Do khoẻ hơn nên đứa cháu bất nhân thắng thế, lấy máy nghe nhạc gần đó đập vào đầu rồi bóp cổ ông ngoại đến tắt thở”. (nguồn: vnexpress)

Xa hơn nữa là chuyện vợ giết chồng, mẹ giết con, rồi đến chuyện “mạng chó đổi mạng người” mà khi nghe đến, chúng ta không khỏi ngao ngán và tự hỏi: giữa con người với con người… “tình người” nay còn đâu?

**
“Tình người” hay nói đúng hơn “Tình yêu thương”… Vâng, đó là một trong những giáo lý căn bản mà một người Kitô hữu phải biết đến và thực thi. Trong Mười Điều Răn Đức Chúa Trời, chúng ta được truyền dạy rằng, “Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.

“Mến Chúa”… vâng, thật dễ dàng. Còn “Yêu người” quả là không dễ chút nào.  Thế nhưng, nếu chúng ta chỉ Mến-Chúa mà không Yêu-người, như thế, chúng ta chưa làm trọn lệnh truyền của Chúa, chúng ta chỉ mới giữ một nửa điều răn của Chúa.

Kinh thánh đã dạy chúng ta rằng, “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).

Nói tới “yêu thương người”… Tạ ơn Chúa vì Người đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về “tình người” qua dụ ngôn “Người Samaria tốt lành”.

***
Câu chuyện “Người Samaria tốt lành” được chép trong Tin Mừng Luca (10, 25-37). Thật ra, nếu được phép, vâng, chúng ta có thể nói rằng, đây là một câu chuyện “2 trong 1”. Gọi như thế là bởi câu chuyện “Người Samaria tốt lành” là câu trả lời cho câu chuyện trước đó.

Câu chuyện trước đó được kể lại rằng, Có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp’” (Lc 10, 25).

Đây không phải là lần đầu tiên có người tìm đến Đức Giêsu để hỏi Ngài một câu hỏi với nội dung như thế. Trước đây, cũng đã có một chàng thanh niên giàu có đến với Đức Giêsu cũng với nhã ý nêu trên.

Với chàng thanh niên giàu có, Đức Giêsu đã đưa ra những lời khuyên anh ta, để nhờ đó, anh ta có thể đón nhận được điều anh ta muốn có. Ngược lại, với người thông luật, thay cho lời khuyên, Ngài đã đưa ra một câu hỏi, một câu hỏi ngầm ý như một lời trách cứ, rằng “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”

Vâng, làm sao không trách cứ anh chàng thông luật này cho được. Người thông luật, chính là thầy thông giáo, thầy thông giáo chính là người am hiểu, rành rẽ luật Môse, luật Môse được ghi trong ngũ thư là những cuốn sách nói rất rõ về Mười Điều Răn, về lề luật, về lễ nghi thờ phượng Đức Chúa Trời.

Nói cách khác, là thầy thông luật, ông ta dư biết “đáp án” cho câu hỏi của ông ta. Thật vậy, sau khi nghe câu hỏi của Đức Giêsu, vị thông luật đã trả lời “ngọt sớt” rằng “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Trời, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”.

Qua cách trả lời của ông ta như thể chính ông ta là người ra câu hỏi.
Thế nhưng, điều đáng trách hơn nữa, ông thầy thông luật này đã thâm hiểm khi biến câu trả lời của mình thành câu hỏi, một câu hỏi hóc búa, trước là để thử Đức Giêsu, sau là để chứng tỏ mình-có-lý. 


“Nhưng ai là người thân cận của tôi ?” Ai! “Ai là người thân cận của tôi ?” 


Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Đức Giêsu, một lần nữa, đã dùng một dụ ngôn, một dụ ngôn cho đến ngày nay, giới luật pháp quốc tế đã biến nó thành một đạo luật mang tên “luật người Samari nhân hậu”.  


Lm. Jude Siciliano, OP. mở đầu bài giảng về chủ đề “người Samari nhân hậu” cho biết “Trong thế giới luật pháp có ‘luật người Samari nhân hậu’,  luật này yêu cầu bảo vệ hợp pháp với những ai giúp đỡ chính đáng cho người khác khi người đó bị thương tích, đau yếu hoặc trong những tình cảnh hiểm nghèo. Luật người Samari nhân hậu này nhằm khuyến khích người khác trợ giúp những ai lâm cảnh hoạn nạn”.

Thì đây, câu trả lời của Đức Giêsu cho vị thông luật, qua dụ ngôn “người Samari nhân hậu” đã  mô tả rõ nét “Ai là người thân cận của tôi”. 


Ba nhân vật được đề cập trong dụ ngôn, lần lượt là thầy tư tế, rồi đến một thầy Lêvi, cuối cùng là một người Samari. Cả ba, kẻ trước người sau, đều đi trên một lộ trình, lộ trình từ “Giêrusalem xuống Giêricô” (x.Lc 10, 30).


Cả ba đều nhìn thấy cảnh bi đát của một người lữ khách. Anh ta “bị rơi vào tay kẻ cướp…bị lột sạch… bị đánh nhừ tử…” và bị quẳng ra nằm rên rỉ giữa ngã ba đường làng.


Không thể tin được! Dù trông thấy người lữ khách đang nằm “nửa sống nửa chết”… Nhưng cả thầy tư tế lẫn thầy Lêvi đều “tránh qua bên kia mà đi”.


Người Samari. Vâng, người Samari “cũng thấy và chạnh lòng thương”.  Sự chạnh lòng thương của anh chàng Samari không dừng ở đôi mắt, không dừng ở tấm lòng, nó được lan tỏa tới đôi chân và đôi tay. 


Chuyện kể rằng “Ông ta lại gần”. Lại gần làm gì? Để xem trên con người bất hạnh này còn thứ gì quý giá “hốt hụi chót” chăng!  Thưa không. “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc” (Lc 10, 34)


Viết tới đây, tôi chợt nhớ lại, cách đây khá lâu, ngay tại Saigon (dường như ở bùng binh ngã sáu Chợ lớn thì phải), có một người bị cướp, bọn cướp giật túi tiền của anh ta, anh ta giật lại được, nhưng xui xẻo thay! túi tiền đó bị rách do sự giằng co giữa anh ta và kẻ cướp, tiền văng tung tóe trên đường. 


Lúc đó nhằm giờ tan sở, rất nhiều người dừng xe lại lượm tiền rơi vãi, thế nhưng, thay vì gom lại trả cho khổ chủ, tệ thật! những kẻ dừng lại lượm tiền coi đó như là “của trời cho” họ, họ ung dung đút tiền vào túi và lên xe “Dzọt”… 


Hay như câu chuyện một ông bác sĩ lái xe gây ra tai nạn hàng loạt trên đoạn ngã tư đường Lý Thái Tổ - Sư Vạn Hạnh. Trong khi rất nhiều nạn nhân đang oằn oại rên siết vì chấn thương, thay vì nhanh chóng đưa nạn nhân đi cấp cứu, nhiều người giở trò lưu manh lục soát ví tiền, cốp xe nạn nhân, cướp tiền cướp tư trang của họ. 


Thật buồn thay! “tình người” trong thời buổi “xã nghĩa” là như vậy đó! 


Trở lại câu chuyện dụ ngôn. Câu trả lời đã rõ. 


“Ai là người thân cận của tôi ?”. Đối với thầy thông luật cũng như toàn thể  người Do Thái, họ quan niệm rằng “người thân cận” chính là người-đồng-đạo, đồng hương và đồng chủng tộc.


Với Đức Giêsu, qua dụ ngôn, Ngài không chỉ gửi đến thầy thông luật một “đáp án” mà còn để lại nơi ông ta một quan niệm mới về “tình người”.


“Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” Thầy thông luật với một nhãn giới mới về “tình yêu thương” ông ta đã không ngần ngại trả lời rằng “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. 


****


Câu chuyện “người Samari nhân hậu”, qua lăng kính thần học, Lm. Charles E. Miller đã chia sẻ rằng, “Tội lỗi ‘mai phục’  trên đường đi của nhân loại, chực tước đoạt nhân phẩm của chúng ta, trấn lột chúng ta và cướp đi ân điển của Thiên Chúa. Tội đánh đập ta nhừ tử, rồi bỏ mặc ta dở sống dở chết. Chúa Giêsu đến nâng ta dậy, không phải để đặt lên lưng một con vật nào đó, mà là lên vai của Người và đưa ta về nhà Giáo Hội. Nơi đây, chúng ta được chăm sóc cho đến lúc Người lại đến trong vinh quang trong ngày chúng ta được sống lại”


Vâng, là một Kitô hữu, chúng ta chẳng khác gì người lữ khách đi trên con đường về Trời-Mới-Đất-Mới. Vẫn còn đó, những “bọn cướp” tìm đủ mọi cách để cướp đi cuộc-sống-đức-tin của chúng ta, bằng những chủ thuyết vô thần lừa lọc và dối trá, bằng những thú đam mê dục vọng, bằng tiền tài danh vọng, bằng một nền văn hóa sự chết.  


Vì thế cho nên, đừng rời xa Giáo Hội, nơi mà  “Nhờ máu (Chúa Giêsu) đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an” cho chúng ta, sự bình an đó giúp chúng ta có thể vững tin để trở nên “người Samari nhân lành”.


Một khi chúng ta trở nên “người Samria nhân lành”,  dù ở một lãnh vực nào, ở một ơn gọi nào, chúng ta vẫn có thể nhận ra “ai là người thân cận của tôi” .


Nói cách khác, dù tôi là Giám Mục hay Linh Mục, là bác sĩ hay kỹ sư, là nông dân hay công nhân, là một người chồng hay người vợ, là sinh viên hay học sinh v.v.. tôi vẫn có thể nhận ra “tôi là người thân cận của ai”. 


Petrus.tran    





Thứ Năm, 4 tháng 7, 2013

Cái giá của người môn đệ Chúa Giêsu.



*****
Cái giá của người môn đệ Chúa Giêsu.

Ngày 24/06/2013 vừa qua, toàn thể Giáo Hội Công Giáo long trọng mừng kính sinh nhật thánh Gioan Tiền Hô. Nói tới Gioan Tiền Hô, không ai trong chúng ta lại không một lần nghe tới tiếng “hô” cảnh tỉnh của ngài khi bắt đầu thi hành sứ vụ: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi”…

“Hãy sửa đường cho thẳng…” Vâng, cảm hứng từ tiếng “hô” này, linh mục Charles E.Miller chia sẻ: “Trước khi có thể mở một con đường mới, các công nhân phải dọn sạch bất cứ thứ gì trên lộ trình của nó. Đôi khi cây cối phải đốn hạ, đá to phải di dời đi nơi khác và đồi cao phải san bằng. Bất cứ gì cản trở công trình xây dựng con đường ấy, người ta đều phải dẹp bỏ”.

“Đức Giêsu…” linh mục E. Miller nói tiếp: “… Ngài cũng tâm niệm những điều tương tự khi mời gọi những ai muốn đi theo mình. Người đòi hỏi họ phải từ bỏ mọi sự trong đời sống thường nhật, từ bỏ bất cứ gì ngăn trở họ trên con đường trở thành môn đệ của Người”.

Những điều Đức Giêsu đòi hỏi đã được “minh bạch hóa” trong cả bốn sách Tin Mừng. Và hôm nay, chúng ta hãy trở về với sách Tin Mừng Luca (9, 51-62), nơi đây, chúng ta sẽ được nhìn rõ những đòi hỏi mà Đức Giêsu đã đòi hỏi những ai muốn trở nên môn đệ của Ngài.

**
Chuyện kể rằng, hôm đó, trong lúc Đức Giêsu cùng với các môn đệ đang “tay đan tay nhịp bước đi trên… đường” thì bỗng nhiên, có người đến  bên Người và thưa rằng:  “Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng  xin đi theo”.

Thầy đi đâu tôi cũng  xin đi theo ư! Vâng, trong ba năm Đức Giêsu ra đi rao giảng Tin Mừng,  có rất nhiều người xin đi theo Ngài. Ngoại trừ nhóm mười hai các môn đệ, khi xin theo Đức Giêsu, họ đều “ra đi không vương thê nhi”, còn hầu hết những người khác, khi nghe đến những điều kiện “ắt có và đủ” để trở thành môn đệ của Ngài, họ đều thối lui.

Nhớ, có lần, cũng giống như lần này, khi Đức Giêsu vừa lên đường đi, thì có một chàng thanh niên đến và ngỏ lời muốn theo Ngài, nhưng khi vừa nghe Đức Giêsu đưa ra điều kiện “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo… rồi hãy đến theo tôi”… Thiệt tình… khi anh ta nghe lời đó, chuyện kể rằng, “anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi…”

Hôm nay, với những nhân vật xin đi theo,  Đức Giêsu không chỉ đưa ra điều kiện, Ngài còn nói lên tình trạng về cuộc sống mà người môn đệ đi theo Ngài sẽ phải đón nhận, một tình trạng tồi tệ hơn cả sự tồi tệ, rằng,  “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”.

Hơn thế nữa, những biểu hiện “buồn vui” của cuộc đời, người môn đệ theo Đức Giêsu đã được Ngài cho một lời khuyên, một lời khuyên hàm chứa sự “xác định” cho một “quyết định”, không áp đặt nhưng chỉ là mời gọi mà thôi..

Xin theo Ngài, chuyện gia đình chớ còn vấn vương.  Với người chết ư! Đức Giêsu nói: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa”. Chuyện từ biệt ư! Đức Giêsu bảo “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”.

Vâng, tất cả những đòi hỏi nêu trên, chính là “Giá phải trả để trở nên môn đệ Đức Giêsu”.

***
Khi nói tới những cái “giá phải trả” nêu trên, đừng coi đó như là “Những lời  bí ẩn”. Lm. E . Miller chia sẻ rằng “Những lời bí ẩn này không hàm ý (Chúa) phản đối việc chôn cất các thân nhân đã chết, mà Người muốn nói rằng, ai bác bỏ Người, thì, về mặt nào đó, cũng giống như những người chết bởi lẽ họ đã bác bỏ Chúa-sự-sống. Đồng thời, đây cũng là cách nói của Chúa Giêsu, rằng, chúng ta phải xác định không có gì quan trọng hơn là hết lòng hết dạ với Người”.
Tấm gương những người môn đệ đầu tiên là Anrê, Simon Phêrô, Gioan và Giacôbê, khi đáp lời mời gọi của Đức Giês, hẳn là một bài học tốt cho những ai muốn “Theo Chúa”. Chuyện kể lại rằng: các ông đã “lập tức… bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4,22).
Đức Giêsu không “hoan nghênh” thái độ lấp lửng “xin phép cho tôi về… xin phép cho tôi từ biệt…” (Lc 9, 59…61)… rồi tôi sẽ v.v…và v.v…
Cái giá phải trả để theo Chúa chính là “sự từ bỏ”. Vâng, Đức Giêsu đã nói : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình…”(Lc 9,23).
Thánh Phaolô, sau này, có thể nói, chính là tấm gương mẫu mực của người môn đệ theo Chúa. Là một công dân Roma, một thứ quyền “phải tốn bao nhiêu tiền của mới mua được quyền công dân ấy” thế mà ngài dám “Từ bỏ” để trở nên người môn đệ của Chúa.

****
Giá phải trả để trở nên người môn đệ Chúa Giêsu chính là sự từ bỏ.

Một tuần chỉ dành cho Chúa bốn mươi lăm phút bằng việc tham dự thánh lễ, thế mà lại cứ đi trễ do tại-vì-bị đủ thứ lý do,  phải chăng, như thế, có khác gì chúng ta “xin Chúa, cho phép tôi về chôn cất những cái tại-vì-bị đó trước đã”?

Tự do, tự nguyện “Quỳ bên nhau trước Đấng Tối Cao. Hứa yêu nhau trao câu thề chung sống trọn đời” … thế mà,  một ngày đẹp trời nào đó, vô tình gặp một nàng-tiên-cá nào đó, để rồi trầm tư mặc tưởng… để rồi có những ước muốn bất chính… phải chăng, như thế, có khác nào chúng ta không từ bỏ chính mình, có khác nào chúng ta “đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau…”?

Và còn nhiều điều khác nữa, như tật kiêu ngạo, hoặc tính vị kỷ thống trị chúng ta, nếu chúng ta không biết “từ bỏ” nó sẽ là một thảm họa cho chính đời sống chúng ta. Mà cái thảm họa lớn nhất, đó là, chúng ta mất đi danh hiệu “người môn đệ của Chúa Giêsu”. 

Petrus.tran


Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...