Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Đừng vô cảm...



***
Đừng vô cảm…

Kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam rất phong phú. Có thể nói rằng, nó là một kho tàng tốt cho việc giáo dục con người xưa cũng như nay. Thật vậy, có ai trong chúng ta lại không hơn một lần được dạy dỗ rằng, "thương người như thế thương thân", hoặc "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ", hay "một miếng khi đói bằng gói khi no" v.v...

Tiếc thay! có vẻ như, những lời dạy dỗ tốt đẹp đó ngày càng xa rời cuộc sống của không ít người hôm nay. 

Nhớ, ngày 13/10/2011, tại thành phố Phật Sơn, Nam Hải, Trung Quốc. Một bé gái ba tuổi tên Yue Yue đang chơi trong khu chợ, có một chiếc xe tải đi qua, chiếc xe đó cán lên người cô bé. Nhiều người qua lại nơi đây, thấy, nhưng họ vẫn dửng dưng bỏ đi. Theo dõi trên clip, có khoảng 20 người qua lại nơi tai nạn xảy ra, nhưng không ai dừng lại cứu cô bé. 

Rồi cũng trong năm 2011, tại Saigon, vào ngày 07/10, một vị bác sĩ, trong lúc lái xe bất cẩn, đã gây ra một tai nạn hàng loạt khiến cho hai người chết và mười bảy người khác bị thương. Điều đáng tiếc là, khi tai nạn xảy ra, những người hiếu kỳ thay vì đưa nạn nhân cấp cứu, họ lại nhảy vào “hôi của” cướp đồ nạn nhân…  

Tại sao lại có những chuyện như thế xảy ra? Thưa, đó chính là do “sự vô cảm”, sự vô cảm đã chế ngự con người, nó làm cho con người trở nên ích kỷ, dửng dưng, không rung động, không cảm xúc trước nổi đau, hoạn nạn của người khác... 

Nói đến sự “vô cảm”, có thể nói, hàng ngày, nó đã gây ra biết bao nhiêu “… điều trông thấy mà đau đớn lòng”, từ chuyện một chú bé “cuộc sống đói rách bơ vơ…Hỏi ai ai cho nương nhờ! Chuỗi ngày tăm tối bơ vơ…” cho tới chuyện, có những đại gia, tỷ phú… đã dám chi hàng tỷ đồng chỉ để “ăn một bữa trưa” theo sở thích của mình.

Niềm tin Kitô giáo không dạy con người sống vô cảm. Niềm tin Kitô giáo dạy rằng, một Kitô hữu không chỉ mến Chúa nhưng còn phải yêu thương người. 

Thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối: “Thứ nhất cho kẻ đói ăn.  Thứ hai cho kẻ khát uống. Thứ ba cho kẻ rách rưới ăn mặc. v.v…”
Vâng, “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc” cũng chính là điều Chúa Giêsu luôn đem ra khuyên dạy và đề cao.   

Thật vậy, với sự giàu có,  Ngài đã khuyên dạy rằng: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6, 19-21). Với những người, có “rất nhiều của cải”, như trường hợp ông thủ lãnh nhà giàu, Đức Giêsu khuyên “hãy bán tất cả những gì ông có mà phân phát cho người nghèo và ông sẽ được một kho tàng trên trời”.   

Và để cho mọi người cảm nhận rõ lời khuyên đó, Đức Giêsu đã dạy cho họ một bài học qua dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó” (x.Lc 16, 19-31).

Dụ ngôn được kể rằng: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”.(x.Lc 16, 19)  Câu chuyện sẽ không có gì để nói, nếu “trước cổng ông nhà giàu” không có “một người nghèo khó… nằm (ở đó)”. Người nghèo khó đó tên là Lazaro, anh ta trông thật thảm thương. Trên cơ thể anh ta “mụn nhọt đầy mình”. 

*Thưa bạn, bạn có bị “ghẻ” bao giờ chưa! Tôi đã bị. Năm học lớp đệ thất (lớp sáu bây giờ), chân tay của tôi  “mụn nhọt đầy mình”, phải nói rằng, nhức nhối khủng khiếp. Thế nhưng, cái nhức nhối của thể xác không sánh bằng cái nhức nhối tinh thần. Cái nhức nhối tinh thần, đó là sự cô đơn, một lớp học gần bốn mươi học sinh, nhưng không có một người nào muốn đến gần tôi. Thật ra, cũng có người đến, nhưng họ đến chỉ để nói với tôi rằng “đồ ghẻ tàu!”. 

Với “ngưòi nghèo khó tên là Lazaro” ư! Có phần chắc, anh ta cũng nhức nhối, anh ta không chỉ nhức nhối thể xác bởi mụn nhọt, bởi cái dạ dày “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”, anh ta còn nhức nhối tinh thần. Từ tâm can, anh ta nhận ra "sự vô cảm" của ông nhà giàu, phải chi ông ta đến và chỉ nói “đồ ghẻ La Mã” có lẽ anh ta cũng vui vui chút ít!    

Sự vô cảm của ông nhà giàu, có thể ví như “cục lơ Pháp”, đã được ông ta “thoa” lên “cây cơ” là đám mụn nhọt và sự đói khát trong nỗi cô đơn của anh Lazaro. Vâng, chỉ là một cách diễn tả, kết thúc hồi một, buồn thay! chỉ có “mấy con chó… đến liếm ghẻ chốc anh ta”.
 
Với hồi hai, như người ta thường nói “mồm chó vó ngựa”. Anh Lazaro, phần vì đói, phần vì mồm những con chó liếm vào những vết ghẻ của anh ta… Ôi! vết thương của anh ta, không nhiễm trùng mới là chuyện lạ! Lazaro chết, có phần chắc, vì đói và vì nhiễm trùng. Sau đó, “ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16, 22).  

Và như lời một bài kinh đã viết “sự chết chỉ là sự biến đổi chứ không hề tiêu tan”. Cuộc đời Lazaro được biến đổi, anh ta không còn cô đơn bên “mấy con chó” nhưng tràn đầy hạnh phúc “trong lòng tổ phụ”.

Còn ông nhà giàu ư! Chuyện được kể tiếp rằng: “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta…” - ông nhà giàu - lại là kẻ mong Lazaro “đừng-vô-cảm” trước sự đau khổ của ông ta.

Trước kia, nơi trần gian, Lazaro “thèm những thứ trên bàn ăn của ông rớt xuống mà ăn cho no”… Nay, dưới âm phủ, ông nhà giàu “thèm” được Lazaro “nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi (ông) cho mát, vì ở đây (ông) bị lửa thiêu đốt khổ lắm” (Lc 16, 24).

Kết thúc dụ ngôn, như đã nói ở trên, anh nhà nghèo tên là Lazaro được ở “trong lòng tổ phụ”. Còn ông nhà giàu thì “Phải chịu khốn khổ” (Lc 16, …23).

**
Qua dụ ngôn này, có thể nói rằng, “sự vô cảm” chính là con đường dẫn chúng ta đến “âm phủ”. Chính vì thế, là một Kitô hữu, chúng ta đừng quên rằng, những gì chúng ta làm hôm nay, ở đời này, sẽ là “tấm chiếu khán” đưa chúng ta đến đời sau, nơi “hỏa ngục” hay “thiên đàng”.  

Giàu có ư! Tốt, vì đó là ơn phúc Chúa ban.  Giàu có không phải là một cái tội. Câu chuyện dụ ngôn trên không thấy một câu hay một chữ nào lên án về việc “giàu có” của ông nhà giàu. Hãy nhìn xem sự giàu có của ông Gióp khi xưa. Kinh Thánh có chép rằng, Ông ta có “một đàn súc vật bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái”. Chính Xatan cũng phải công nhận Đức Chúa đã “ban phúc lành cho công việc do tay (Gióp) làm, và các đàn gia súc của (Gióp) lan tràn khắp xứ” (G 1, 10).

Chỉ có điều, nếu giàu có thì, hãy nghe tông đồ Phaolô nói: “Đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng”(1Tm 6,17). Thánh nhân thêm một lời khuyên rằng : “Phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy (sẽ) tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai”.

Cho nên,  khi ta giàu có,  “Hãy rộng lượng với kẻ nghèo hèn, đừng chần chừ khi phải bố thí. Hãy đón tiếp kẻ khó nghèo, vì họ túng quẫn, đừng để họ ra về tay trắng” (Hc 28, 8-9). Hãy nhớ, sự giàu có không ngăn cách ta đến bên “lòng tổ phụ” Apraham, sự vô cảm mới chính là “hố sâu” , là “vực-thẳm-lớn” ngăn cách ta với ngài, sau này,  cũng như với những người anh em, những người đồng loại, ngay hôm nay.

Nếu hôm nay, trong cuộc sống thường nhật,  chúng ta “không vô cảm”  với những người anh em, những người đồng loại, những người mà họ đói chúng ta cho ăn, họ khát chúng ta cho uống, họ rách rưới chúng ta cho mặc, họ bịnh hoạn chúng ta thăm viếng v.v… thì, sau này, trong ngày phán xét, Chúa cũng sẽ không nhìn chúng ta bằng ánh mắt “vô cảm”.  

Trái lại, Ngài sẽ nói với chúng ta rằng, “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các người đã cho Ta ăn; Ta khát, các người đã cho Ta uống… Ta là khách đau yếu, các ngươi đã thăm viếng…”(Mt 26, 34-36).

 “Ta” là ai? Thưa, Ta là “họ”. “Họ” là ai? Thưa, họ là những người chúng ta “không vô cảm”. 

Nói tắt một lời, để đời sau, chúng ta không phải lớn tiếng kêu, “Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con”, thì đời nay, nguyên tắc sống của chúng ta chỉ cần gói gọn trong ba chữ “đừng vô cảm”.     
                                      
Petrus.tran



Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

Chúa luôn sẵn sàng...



****

Chúa luôn sẵn sàng…

Một nhà truyền giáo có nói: “Nếu chẳng may toàn bộ Kinh Thánh bị thất lạc, và chỉ còn giữ được một câu trong Phúc Âm thánh Gioan, điều đó vẫn đủ để chúng ta trình bày cho thế giới biết rằng, có một Thiên Chúa là tình yêu”.

Câu Kinh Thánh đó chính là câu Chúa Giêsu nói với một thủ lãnh của người Do Thái tên là Nicôđêmô, rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3, 16).  

Đúng vậy, từ khi Adam và Eva phạm tội, con người bị  trục xuất ra khỏi vườn Eden với án phạt là sự chết, thế nhưng không vì thế mà Thiên Chúa bỏ rơi con người. 

Theo thời gian, qua các ngôn sứ và tiên tri, Thiên Chúa không ngừng chuyển tải đến con người những thông điệp nói lên tình yêu thương, lòng bao dung và sự tha thứ. Thiên Chúa vẫn luôn cho con người thấy, Người là Đấng “từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương”, vẫn luôn cất tiếng mời gọi con người “Hãy đến mà biện luận. Tội các người, dầu có đỏ tựa son, cũng hoá trắng như tuyết; có thẩm tựa vải điều, cũng hoá như bông”.

Đến khi Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa, trở nên người phàm và cư ngụ giữa thế gian, tình yêu thương của Thiên Chúa càng thêm sáng tỏ. 

Thật vậy, sự xuất hiện của Đức Giêsu với những lời giảng dạy, qua những dụ ngôn rất đời thường,  đã phác họa chân dung một Thiên Chúa mới, một Thiên Chúa không phải là hung thần chỉ biết luận phạt, nhưng là một Thiên Chúa thể hiện sự bao dung, tình yêu thương và sự tha thứ, một Thiên Chúa “đến để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” và để “cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18,11).

Có ba dụ ngôn đã được Đức Giêsu, cùng một lúc, kể ra,  với mục đích dập tắt những lời “xầm xì” của một nhóm người Pharisêu khi họ thấy Ngài đồng bàn với  nhóm người thu thuế và các người tội lỗi, những người đã có lần Đức Giêsu tuyên bố rằng, “họ sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31)

**
Câu chuyện đã được kể lại rằng: hồi ấy, có một số người thu thuế và các người tội lỗi thường lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 

Chuyện sẽ chẳng có gì xảy ra nếu không có nhóm người Pharisêu và các kinh sư, những ông kẹ được xem là những kẻ tọc mạch, kiếm chuyện.

Hôm ấy “những người Pharisêu và các kinh sư”  khi chứng kiến Đức Giêsu thao thao bất tuyệt trước nhóm người thu thuế và tội lỗi, ngứa mắt, họ xầm xì với nhau “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”...
Ôi trời! tại sao họ lại xầm xì như thế? Phải chăng họ tự ái khi thấy Đức Giêsu, chỉ là một anh thợ mộc, nhưng lại được mọi người thán phục về lời những giảng của Người!  

Không thấy chuyện này được nhắc đến, nhưng những lời xầm xì của nhóm Pharisêu và các kinh sư thì không sai. Những người lui tới với Đức Giêsu, hôm đó, đúng là “phường tội lỗi”, họ có rất nhiều “cái rác tội lỗi”.  

Thế nhưng, đáng tiếc là các ông ông Pharisêu và các kinh sư, hôm đó,  chỉ thấy “cái rác trong con mắt người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới” (Mt 7,3).

Cái rác-tội-lỗi nơi người thu thuế có đấy, còn cái-xà-gồ-trách-nhiệm của các ông sao các ông lại bỏ qua? Lẽ ra, là Pharisêu, những người am hiểu Thánh Kinh, các ông phải có “trách nhiệm” giảng dạy cho phường-tội-lỗi nhận biết Thiên Chúa là ai chứ! Không làm, các ông lại còn hậm hà hậm hực…

Đón tiếp phường-tội-lỗi thì đã sao! Thiên Chúa đã chẳng “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu  cũng như người tốt và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” đó sao! (Mt 5, 45). Vâng, có lẽ các ông Pharisêu và các kinh sư đã quên rằng, Thiên Chúa “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6, …35).

Hôm đó, mặc cho những lời xầm xì, Đức Giêsu tiếp tục lời giảng dạy bằng  ba dụ ngôn. Ba dụ ngôn đó là: “dụ ngôn con chiên bị mất”,  “dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất” và đặc biết nhất, đó là “dụ ngôn người cha nhân hậu” (x. Lc 15, 1-31)

***
Ba dụ ngôn này, với nhóm Pharisêu và các kinh sư, nó chính là câu trả lời cho những lời xầm xì của họ. 

Còn với nhóm bị cho là “phường tội lỗi”, ba dụ ngôn này,  có thể ví nó giống như một chiếc smartphone cao cấp, đã đem đến cho họ hình ảnh một Thiên Chúa, một Thiên Chúa “công bằng” giữa một bên là  bóng mây của lưỡi-gươm-luận-phạt và bên kia là ánh sáng của tình yêu, lòng bao dung, sự tha thứ. 

Thật vậy, với “dụ ngôn con chiên bị mất”, ánh sáng của tình yêu, một tình-yêu-vô-giá đã được thể hiện.  

Không vô giá sao được khi người mục tử đã “để lại chín mưoi chín con kia ngoài đồng hoang” để đi tìm một con chiên lạc. Không vô giá sao được, khi người mục tử “tìm được (chiên) rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai”. Không vô giá sao được, “về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: ‘Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó” (x.Lc 15, 506). 

Vâng, đừng cho rằng Đức Giêsu “cường điệu hóa” vấn đề. Đây chỉ là “dụ ngôn” và cũng như những dụ ngôn khác, thông điệp chính mà Đức Giêsu muốn nói đến, đó chính là “sự tuyệt đối”. Tình yêu của Thiên Chúa là “nhưng không tuyệt đối”. 

Với “dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất” ư! Vâng, vấn đề không phải là “con số” giữa “chín và một”, giữa “nhỏ và lớn” nhưng là cái “giá trị”, nhất là khi nói đến “giá trị của sám hối trở về”.  Điều này đã được Đức Giêsu chứng minh khi Ngài nói “Tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên quốc, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (x.Lc 15, 10). 

Còn “dụ ngôn người cha nhân hậu” thì sao? Thưa, đó chính là một bản concerto hoàn chỉnh, một sự hoàn chỉnh không thể hoàn chỉnh hơn với những giai điệu của lòng bao dung, sự tha thứ nơi Thiên Chúa qua hình ảnh “người cha nhân hậu”. 

Thật vậy, khi phần dạo đầu của bản concerto vang lên, người cha, với cảm xúc đầy bi thương  khi nghe người con thứ  “xin cho con phần gia tài con được hưởng”, ông ta đã lặng lẽ “chia của cải cho hai con”… 

Rồi đến phần hai, khi người người con thứ đang dìm tâm hồn mình chìm theo điệu nhạc “phóng đãng” không màng đến sự “ phung phí tài sản của mình” thì người cha đau đớn thả hồn theo điệu nhạc u uất đợi chờ…
Một bản concerto có ba phần, và thường thì, 
phần thứ ba chính là lúc nhạc cụ solo và dàn nhạc đã tìm được tiếng nói chung. Bản concerto mang tên “người cha nhân hậu” với phần ba, cũng đã tìm được tiếng nói chung. 

Chàng con thứ trong vai nhạc công solo đã trúc lên tiếng kèn thống hối “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha”… Tiếng kèn thống hối đó đã hòa chung với giai điệu bao dung và tha thứ của người cha, trong âm vang của sự rộn rã, người cha “chạy ra ôm cổ anh ta hôn lấy hôn để... đem áo đẹp nhất mặc cho... xỏ nhẫn vào tay và xỏ dép vào chân cậu”... 

Bốn âm điệu cuối “mở tiệc ăn mừng” như một tấm nơ hồng đính lên tâm hồn “cha và con”, để rồi, tận trong cung lòng người cha, một giai điệu rộn rã vang lên “con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15, …32).

****
Ba dụ ngôn nêu trên, có thể nói rằng, đó là một câu chuyện hay nhất, một “best story” của Phúc Âm thánh Luca. Nó hay ở chỗ có quá nhiều điều để chúng ta phải học. Nó còn hay ở chỗ, mỗi người chúng ta đều có thể thấy một nét phảng phất nào đó chính mình trong câu chuyện này. 

Chính vì thế, hãy để một phút thinh lặng và tự hỏi lòng mình rằng, tôi là ai trong số những nhân vật đã được Đức Giêsu nêu lên trong dụ ngôn? 

Có lẽ không ai trong chúng ta tự nhận mình là “người cha nhân hậu”, nhưng có phần chắc, trong một giai đoạn nào đó của đời người, rất có thể, có lúc, chúng ta trở thành người con thứ, với một chút sự bồng bột của tuổi trẻ, với một chút sự kiêu ngạo bởi nguyên tội Adam và Eva, với một ít gia tài là học vấn và kiến thức thời đại, cho rằng những giá trị truyền thống trong ngôi nhà Kitô giáo đã lỗi thời,  “trẩy đi phương xa” tìm đến những miền đất xa lạ, những miền đất đề cao tự do luyến ái, những miền đất cổ vũ tự do phá thai, những miền đất khuyến khích hôn nhân đồng tính v.v…

Rất có thể, có lúc, chúng ta chính là người con cả, sống khép kín trong ngôi nhà Kitô giáo, mặc cảm mình chỉ là kẻ “hầu hạ”, sợ sệt trước những giới răn mà quên rằng, đó chính là “sinh lộ”, là “đường, là sự thật và là sự sống”… 

*****
Những suy tư nêu trên, phải chăng là những suy tư tiêu cực? Phải chăng là những suy tư làm cho chúng ta phải buồn phiền? Thưa, không phải. 


Thật ra, nghĩ được như thế phải là niềm vui của chúng ta. Nhân ra tôi là ai trong ba dụ ngôn nêu trên phải là niềm vui của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Tôi là người chăn chiên, là người phụ nữ trong hai dụ ngôn “con chiên bị mất – đồng bạc bị đánh mất”, là “người cha nhân hậu” ư! Tất cả đều tốt. 

Tôi là người con thứ  hay tôi là người con cả ư? Quá tốt… quá tốt bởi vì tôi đã nhận ra mình là ai. Quá tốt, bởi tôi đã nhận ra mình là “người tội lỗi”. 

Có điều… có điều tôi cần biết, đó là, khi đã nhận ra mình là “người tội lỗi”, hãy vượt qua mặc cảm tự ti, và hãy như “các người thu thuế và các người tội lỗi” xưa, mà  “lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng”(Lc 15, 1) 

Vâng, với chúng ta hôm nay, qua vị linh mục, Chúa Giêsu không chỉ giảng, không chỉ ban cho ta “Bí Tích hòa giải” Ngài còn ban cho ta một bữa tiệc, bữa tiệc không phải bằng “một con bê đã vỗ béo” nhưng là bằng “Mình và Máu Thánh” của chính Ngài.

Hãy nhớ, trong nhà thờ, nơi ngôi nhà tạm, “Chúa luôn sẵn sàng” chờ ta. 

Petrus.tran


Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...