Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

Đừng để mình trở thành kẻ đa nghi…


Đừng để mình trở thành kẻ đa nghi…

Một tuần đã trôi qua,  tính từ ngày 20/04/2014, ngày

mà toàn thể Giáo Hội Công Giáo kính mừng trọng thể

Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh. 

“Một tuần qua…” Vâng,  như lời Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nói trong một bài giảng trước năm mươi ngàn thính giả tại quảng trường, rằng, “là tuần của niềm vui, chúng ta cử hành biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu, đây là niềm vui sâu xa sự thật, dựa trên sự chắc chắn rằng Chúa Kitô đã sống lại ngay lúc này, nơi Ngài sự chết không còn nữa, Ngài vẫn sống và hoạt động trong Giáo Hội và trong thế giới.

Chắc chắn rằng, Ngài ngự trong tâm hồn các tín hữu từ buổi sáng Phục Sinh, khi những người phụ nữ đã đi đến ngôi mộ của Chúa Giêsu và các thiên thần nói với họ:tại sao các người lại tìm Người Sống giữa kẻ chết’…”(nguồn: VNRs.)

Vâng, đối với toàn thể người Ki-tô hữu hôm nay, tuần

 lễ vừa qua, quả đúng là “tuần của niềm vui”, của

những lời hoan ca Alleluia - Chúa Giê-su Ki-tô đã

sống lại”.

Thế nhưng, đối với các tông đồ xưa, thì đó không phải là tuần của niềm vui, nhưng  là tuần của âu lo, của sợ hãi, của nghi nan, của ngờ vực. 

Thật vậy, sự sợ hãi được bắt đầu khi kể từ khi Đức Giêsu bị bắt tại vườn Ghết-sê-ma-ni, lúc đó, các môn đệ của Ngài chẳng khác nào những chú gà con mất mẹ.

Sau hai ngày tan tác, các ông đã tụ tập về nơi các ông thường nhóm họp. Các ông họp lại trong sự sợ hãi và hoang mang.

Trong khi đó, bên ngoài là cả một rừng những tin đồn. Nhóm thượng tế và các kỳ mục đã nham hiểm cho lính một số tiền lớn và bảo họ tung tin đồn rằng, vào ban đêm “các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác” (Mt 28, 13).

Trái ngược với những dòng tin đầy ác ý đó, các môn đệ nhận được một nguồn tin từ bà Maria Macdala là người đã chứng kiến cuộc hành hình cũng như cuộc chôn cất của Đức Giê-su.  

Hôm  đó , vào  sáng  ngày  thứ  nhất  trong tuần, sau khi ra mộ và được nghe “những điều Chúa đã nói với bà”, bà ta liền chạy đến gặp  các  môn  đệ    nói “Tôi đã thấy Chúa”(x. Ga 20, 18)

“Tôi đã thấy Chúa”. Vâng, tính từ hôm thứ-sáu-sầu-thảm , ngày Đức Giêsu bị đóng đinh trên cây thập tự tại núi Sọ, cho đến hôm nay đã là bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Sắp hết ba ngày rồi! Có lẽ nào, qua lời loan báo của bà Mác-đa-la, lời phán hứa của Đức Giêsu rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”, hôm nay sẽ ứng nghiệm sao đây!

Đang lúc các môn đệ suy đi nghĩ lại lời Đức Giêsu đã phán hứa thì một điều không tưởng đã xảy ra. “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông”, mặc dầu nơi các ông đang ẩn náu “các cửa đều đóng kín”.

Mười người, thiếu vắng một người, với mười đôi mắt rực sáng lên trong hân hoan và vui mừng. Họ “vui mừng vì được thấy Chúa” …

Thầy Giêsu đó ư! Đúng. Chính Đức Giêsu chứ không là ai khác. Trong giây phút lịch sử đầy linh thiêng đó, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Bình an cho anh em” (Ga 20, 19).

Vâng, chẳng những thấy, hôm đó, các môn đệ còn được Đức Giê-su “cho các ông xem tay và cạnh sườn” của Ngài. Đúng  “Bách văn bất như nhất kiến - Trăm nghe không bằng một thấy”. 

Hôm đó, tiếc rằng, thiếu vắng tông đồ Tôma. Chính sự vắng mặt của ông đã khiến ông không tin sự kiện Đức Giêsu hiện đến với các bạn đồng môn của mình.

Không tin, ông còn lớn tiếng nói với các bạn đồng môn của mình, rằng “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).

Để rồi, tám ngày sau, ông mới thấy sự hồ nghi của mình quả là đáng trách. Không trách sao được, bởi có lời chép rằng “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”…

Giờ đây, sự hồ nghi đã biến khỏi tâm hồn của Tôma, thay vào đó là một tâm hồn tan vỡ, một tâm hồn mở ra. Nhìn Thầy Giê-su uy nghi trong sự Phục Sinh, ông đã cất lên một lời thần phục trước mặt Thầy của mình, rằng, “Lạy Chúa của tôi… Lạy Thiên Chúa của tôi”. (Ga 20, 28).
**

Đức Giêsu Phục Sinh đã nói gì với tông đồ Tôma? Xin thưa, Ngài nói rằng “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin”. Và phải chăng đây là lời Đức Giêsu trách cứ Tôma?

Thực ra, nếu phải trách cứ, Đức Giê-su có rất nhiều điều để mà trách cứ, không chỉ Tô-ma, mà luôn cả nhóm mười người còn lại.

Anh cả Phê-rô, với ba lần chối Thầy không đáng trách sao!  Còn Giacôbê, “con của sấm sét”… khi Thầy nói “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống?”, rõ ràng anh đã trả lời “Thưa được”. Sao lúc Thầy bị bắt, anh lại “chém vè”!

Chín anh còn lại, sao không chạy đến, mỗi người tay đỡ tay nâng, phụ vác thập giá cho Thầy! Sao lại để cho một anh “ngoại đạo” tên là Simon xứ Kyrene làm công việc đó!

Không! Đức Giêsu Phục Sinh và hiện đến không phải để “tính sổ” các ông. Càng không phải để trách móc những yếu đuối của các môn đệ.

Đức Giêsu Phục Sinh và hiện đến là để chứng tỏ cho các ông biết rằng, Ngài đã chiến thắng sự chết, như lời Ngài đã phán rằng “Ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy”.

Đức Giê-su đến còn là để biểu lộ lòng xót thương qua việc “Ban Bình An” cho các ông. Một thứ bình an không theo kiểu thế gian ban cho. Một thứ bình an chỉ thật sự bình an “nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,…31).

Còn sự hoài nghi của Tô-ma ư! Thưa, Tôma muốn được dùng chính “thị giác” hơn là “thính giác” để biểu lộ lòng tin của mình thì có gì là đáng trách!

Vâng, có gì phải đáng trách chứ! Chính việc tông đồ Tôma có nhu cầu “nhìn sự thật” hơn là “nghe sự thật” nên nhờ đó Đức Giêsu ưu ái tặng cho các môn đệ và cũng là cho chúng ta hôm nay thêm một lời chúc phúc: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, …29).

***

Hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh không quá thiên vị, Ngài vẫn hiện đến với chúng ta qua “Bí Tích Thánh Thể”.

Trước giây phút người tín hữu bước tới bàn Tiệc Thánh để “thấy và cầm” Đức Giêsu Phục Sinh, qua vị linh mục chủ tế, Đức Giêsu Phục Sinh cũng sẽ nói với chúng ta lời chúc phúc như xưa, rằng, “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”. 

Thưa Bạn, Bạn đã Gặp Đức Giê-su Phục Sinh và thật sự được “Bình An trong Chúa”?

Nếu chưa! Vâng, hình ảnh mẫu mực nhất,  mà chúng ta cần noi theo, để được gặp Đức Giê-su Phục Sinh và nhận được sự “Bình An trong Chúa” đó chính là hình ảnh cộng đoàn tiên khởi “luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2, 42).

Lm Charles E. Miller gọi sự hiệp thông của các tín hữu xưa là một “ngày đại hội”, ngài có lời khuyên, rằng; “Anh chị em không được vắng mặt tại ngày đại hội này như tông đồ Tô-ma tại buổi họp đầu tiên của các môn đệ”.

Đừng bao giờ hỏi tông đồ Tô-ma lý do nào ngài đã “vắng mặt”, vì đó là điều không còn cần thiết. Nếu có hỏi, hãy hỏi mỗi chúng ta hôm nay.

Lý do nào khiến chúng ta “vắng mặt” trong ngày Lễ Chúa Nhật?

Phải chăng là, như lời Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nói, là do “bị quyến rũ bởi những quyền lực thế gian và những gì thuộc thế giới này?” Ngài nói tiếp, phải chăng là do “chúng ta đặt niềm tin của chúng ta vào phù phiếm của thế gian, tiền bạc , hay sự thành công?”

Và cuối cùng, ngài nhấn mạnh, rằng: “Tại sao bạn đang tìm kiếm những thứ đó, nó không thể cung cấp cho bạn cuộc sống, nó sẽ cho bạn niềm vui một ngày một tuần một tháng một năm và sau đó…? Tại sao bạn tìm kiếm một cuộc sống trong vòng kẻ chết ? Câu này cần phải thấm nhập vào trái tim của chúng ta..

Trở lại câu chuyện Phục Sinh của Đức Giê-su, vâng, hôm Maria Mác-đa-la, ra mộ Chúa Giê-su, “Bà đã khóc”. Nhìn thấy Đức Giê-su, nhưng bà ta lại không nhận ra Ngài, bà ta chỉ nhận ra rằng đó là Chúa Giêsu khi Ngài gọi chính tên bà; “Maria” (x.Ga 20, 16)

Nhắc lại chuyện này, để nói về chúng ta hôm nay. Hôn nay, làm sao để thấy Chúa Giê-su Phục Sinh? Làm sao để Chúa Giê-su Phục Sinh gọi tên của mình?

Để thấy Chúa Giê-su Phục Sinh, để Chúa Giê-su Phục Sinh gọi tên của mình… Vâng, tất nhiên, không nhất thiết phải  tìm  đến “ngôi mộ trống” ở Giê-ru-sa-lem năm xưa. Nơi cần đến, chính là ngôi nhà thờ, tại bàn Tiệc Thánh Thể,  nơi đây, Đức Giê-su, qua vị linh mục, sẽ nói với chúng ta rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.  

Đừng quên, lời phán hứa của Đức Giê-su, rằng “Ai ăn … sẽ được sống muôn đời”.

Chúng ta, đã là một Ki-tô hữu, đã đặt niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh, Lm Charles E. Miller nói: “Chúng ta đừng để mình trở thành kẻ đa nghi, và cũng đừng vắng mặt như Thánh Tô-ma”.

Vâng, “đừng để mình trở thành kẻ đa nghi…” bạn nhé!

Petrus.tran

 

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

Gặp Đức Giê-su Phục Sinh…

Gặp Đức Giê-su Phục Sinh…

Đức Giê-su Ki-tô từ trong cõi chết, Ngài đã Phục Sinh.  Vâng, đó là điều mà hôm nay, khoảng hai tỷ người tin và đón nhận như là cứu cánh cho cuộc đời mình.

Sự Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô là nền tảng đức tin Kitô giáo. Sự Phục Sinh cũng là đề tài được Đức Giêsu nói đến nhiều lần trong những ngày Ngài ra đi rao giảng Tin Mừng. Và sự Phục Sinh của Đức Giê-su chỉ được sáng tỏ sau khi Ngài “sống lại từ trong kẻ chết”.
Với người Kitô hu hôm nay, để tuyên xưng nim tin Đức Giê-su Phc Sinh tht gin d. Qua đc tin tông truyn, mi Chúa Nht, người Kitô hu đến nhà th tham d Thánh L và sau phn Phng V Li Chúa, tt c cng đoàn cùng tuyên xưng đc tin – tôi tin Đc Giêsu “Người chu kh hình và mai táng. Ngày thứ ba Người sng li tht như li Thánh Kinh”.     

Thế nhưng, với các môn đệ xưa, tin vào sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh không là những lời tuyên xưng, nhưng là sự cảm nghiệm, một sự cảm nghiệm được chạm, được thấy, được nhìn, được nghe chính Thầy của mình, nói tắt một lời, đó là  được “gặp Đức Giê-su Phục Sinh”.

Trong mười một môn đệ còn lại, Phê-rô và Gioan có thể được coi như là những người sớm nhận được cảm nghiệm về sự Phục Sinh của Đức Giê-su. Câu chuyện “Ngôi mộ trống” được chép trong Tin Mừng Gioan đã cho thấy nhận định nêu trên là đúng.

Thật vậy, câu chuyện đó đã được kể rằng:  sau cái chết của Thầy Giê-su vào hôm thứ sáu trên đồi Golgotha, những người môn đệ của Ngài đã sống trong tình trạng hồn xiêu phách lạc với những đêm chờ sáng. Trong sự lo lắng, trong hy vọng và đợi chờ, Phê-rô và Gioan ngồi trầm tư mặc tưởng.

Với Phê-rô, ông không bao giờ quên khung cảnh vườn Ghết-sê-ma-ni hôm đó. Người anh em Giuđa, tệ thật, chỉ vì ba mươi đồng bạc, y bán đứng Đức Giê-su. Và để thực hiện tốt cho mưu đồ, y đã cùng với một nhóm người đông đảo mang gươm giáo gậy gộc đến bắt Thầy Giêsu.  

Ngồi đây, nhìn xuyên thủng màn đêm, Phêrô vẫn ấm ức với những câu hỏi tại sao! Tại sao lại có thể xảy ra như thế được! Tại sao với sức mạnh quyền năng, đã có lần Thầy Giê-su  “băng qua giữa họ mà đi” khi bị vây bắt (Lc 4,30)… thế mà, hôm nay,  tại Ghết-sê-ma-ni,Thầy Giêsu vẫn không phản ứng, vẫn an nhiên tự tại để cho họ bắt và điệu đến thượng tế Caipha!  

Tại sao có thể xin cấp ngay “hơn mười hai đạo binh thiên thần” đến để giải vây, thế mà Thầy Giêsu vẫn cứ “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu… không che mặt khi người ta phỉ nhổ” (Is 50, 6). 

Nghĩ về kẻ phản bội, Phê-rô không khỏi bối rối và hối hận về vic ông đã phi “th đc” trước mt người t gái rng, ông không biết Thy Giêsu là ai.

Còn Gioan. Ông đang để cho hồn mình chìm vào khung cảnh của Golgotha, nơi Thầy Giêsu bị đóng đinh. Làm sao ông có thể quên được hình ảnh “một tên lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn” Người. Ngồi đây, Gioan vẫn ám ảnh về hình ảnh Thầy Giêsu chết thảm thiết trên ngọn đồi máu đó…  

Đêm nay, đã là hai đêm… Đã hai đêm chờ sáng…  Chẳng lẽ lời phán hứa của Thầy Giêsu rằng: “ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9,31) là lời phán hứa “cuội” sao đây!?

Hôm nay, bình minh của  ngày thứ nhất trong tuần sắp đến. Nếu Thầy Giêsu không sống lại, chắc hẳn thế quyền Roma lẫn thần quyền Do Thái đắc chí lắm đây…
Khi Phêrô và Gioan đang miên man chìm theo những dòng suy nghĩ trên thì có những tiếng chân chạy cùng những tiếng lao xao đưa hai ông về với thực tại.  

Một người phụ nữ xuất hiện. Với khuôn mặt đầy sự căng thẳng, bà ta lắp ba lắp bắp nói với Simon Phêrô: “(tôi) thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”. Giọng nói của bà ta mỗi lúc một dồn dập hơn: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” (Ga 20,1-2).

Người ph n này chính là bà Maria Mác-đa-la. Bà ta là người đã được Đức Giê-su trừ quỷ và chữa bệnh. Hôm đó, hôm Đức Giê-su bị bắt và bị giết chết, bà ta đã theo chân Người sut con đường t dinh Philato đến tn đnh đi Golgotha. Chính mt bà chng kiến cnh hành hình và cái chết ca Ngài.

Bà quả quyết rằng, bà không thể lầm nơi Đức Giêsu được chôn cất. Đó là gần nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, trong mảnh vườn ấy có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai.
Hôm ông Giosep, người Arimathe, được tổng trấn Phi-la-tô cho phép nhận thi hài Đức Giê-su để chôn,  “bà và một bà khác cũng tên là Maria…” cũng có mặt ở đó. (x. Mt 27, 61).

Vậy mà hôm nay, sáng sm ngày th nht trong tun, lúc tri còn ti, khi đến m, bà Maria Mác-đa-la thy “ngôi m trng”

Mặc cho những lời kể của Maria Mác-đa-la thực hư ra sao, thế nhưng, nó cũng đủ sức trở thành một cái đòn bẩy, “bẩy” Phê-rô và Gioan ra khỏi căn nhà đang bị phủ trùm đầy những khắc khoải sầu thương.  

Câu chuyện được kể lại rằng: “Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai ông cùng chạy”. Khi tới ngôi mộ, nơi Thầy Giêsu đã được mai táng. Một cảnh tượng khác thường đã xảy ra. Các ông thấy “những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại…” (Ga 20,..7). 
Đúng là có sự khác thường. Khác thường khi những “băng vải tẩm thuốc thơm quấn thi hài Đức Giêsu” nay đã được “xếp riêng ra một nơi”…  

Dù chưa thấy con người Phục Sinh của Đức Giê-su, nhưng qua những dấu chỉ đó, Phê-rô và Gioan “đã tin” (Ga 20, 8).

***
Các ông đã thấy gì để rồi các ông tin!?  
Thưa, các ông chẳng thấy gì cả. Chẳng thấy Đức Giêsu Phục Sinh… Có chăng, các ông chỉ thấy khăn liệm, băng vải đã được xếp ngay ngắn và ngôi mộ trống. 
Vâng, ngôi mộ trống như là dấu chỉ về nguồn ánh sáng Phục Sinh, nó chiếu toả vào tâm hồn các ông, nó tác động lên niềm tin các ông, nó hé mở cho các ông hiểu rõ hơn về những điều Kinh Thánh đã chép rằng “Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết”(Ga 20, 9). 

Và chính niềm tin “đơn sơ” vào hiện tượng “tảng đá đã lăn khỏi mộ” và “ngôi mộ trống” nó như chiếc chìa-khóa-vàng để Phêrô cũng như các môn đệ khác, mở cánh cửa tâm hồn của mình, đón nhận một  Đức Giêsu, Đức Giê-su Phục Sinh, khởi đầu cho lời tuyên tín tông truyền, rằng: tôi tin: “Người chịu khổ hình và mai táng. Ngày thứ ba Người sống lại thật như lời Thánh Kinh”.

Thật ra, khi trở về nhà, niềm tin của các ông lại trở nên “nửa tin nửa ngờ”.
Thật vy, sự “hoài nghi” v vic Thy Giêsu đã sng li vn còn n cha trong tâm hn các ông. Vì thế đã có ln khi Đc Giêsu hin ra: “đng gia các ông… các ông kinh hn bt vía, tưởng là thy ma” (Lc 24, 36-37).

Nếu Đc Giêsu không “dùng nhiu cách đ chng t cho các ông thấy là Người vn sng sau khi đã chu kh hình”… Nếu Đc Giêsu không “hin ra nói chuyn vi các ông v Nước Thiên Chúa”… Nếu Đc Giêsu không “…m trí cho các ông hiu Kinh Thánh (rng) Có li Kinh Thánh chép: Đng Kitô phi chu kh hình, ri ngày thứ ba, t cõi chết sng li, phi nhân danh NGƯỜI mà rao ging cho muôn dân”. (Lc 24,45).

Vâng, không chắc sau này, tông đ Phêrô đã can đm rao ging v Đc Giêsu mt cách mnh m rng: “H đã treo Người lên cây g mà giết đi. Ngày th ba, Thiên Chúa đã làm cho Người tri dy, và cho Người xut hin t tường, không phi trước mt toàn dân, nhưng trước mt nhng chng nhân Thiên Chúa đã tuyn chn t trước, là chúng tôi, nhng k đã được cùng ăn cùng ung vi Người, sau khi Người t cõi chết sng li” (Cv 10, 40-41).
****
Trở lại niềm tin Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh của các môn đệ, có thể kết luận rằng: đúng là các ông đã có scảm nghiệm, một sự cảm nghiệm được chạm, được thấy, được nhìn, được nghe chính Thầy của mình, nói tắt một lời, các ông đã thực sự được “gặp Đức Giê-su Phục Sinh”.

Nhắc tới điều này để làm gì? Thưa, là để nhìn lại niềm tin Đức Giê-su Phục Sinh của mỗi chúng ta.  

Đã có biết bao nhiêu lần Mùa Phục Sinh đến, chúng ta đã nghe nhiều lần về ngôi mộ trống, chúng ta đã được nghe kể về những chứng tích chứng thực sự Phục Sinh của Đức Giêsu.  Nói cách khác, chúng ta cũng “đã thấy đã tin” , đã lớn tiếng tuyên xưng “Người sống lại thật như lời Thánh Kinh”. thế nhưng, c ó thật sự là tôi đã “gặp Đức Giê-su Phục Sinh”?

Đừng nói rằng, Đức Giê-su đã về trời nên chúng ta không thể gặp Ngài nhé! Không…  Đức Giê-su vẫn còn ở bên cạnh mỗi chúng ta như lời Ngài đã phán “Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Hãy nhìn kìa! Ngài đang ở bên cạnh chúng ta qua hình hài của những đứa trẻ nhỏ cơ nhỡ, qua hình hài một người đau yếu bệnh hoạn,  qua hình hài một kẻ đói ăn thiếu mặc…

Hãy nhìn kìa! Đức Giê-su – Ngài vẫn đang bên cạnh chúng ta, qua tấm thân một anh thương phế binh cụt tay, cụt chân hoặc mù hai đôi mắt, đang lê lết trên khắp nẻo đường phố Saigon, mưu sinh bằng cách bán vé số, hoặc lượm lặt ve chai v.v…

Đừng quên, chính Đức Giê-su, khi còn tại thế, Ngài đã nói những con người bất hạnh đó “là những người anh em bé nhỏ nhất của Ta”. (Mt 25, …40)
*****
Vâng,  hôm nay, Chúa Nhật 20.04.2014, chúng ta kỷ niệm mừng Chúa Giê-su Phục Sinh.  Chúng ta đã gặp Đức Giê-su Phục Sinh trong thánh lễ, qua những bài đọc, thánh thư cũng như Phúc Âm. Chúng ta đã gặp Đức Giê-su Phục Sinh  trên bàn Tiêc Thánh Thể.

Thế nhưng, sẽ là tốt hơn nữa, nếu chúng ta gặp gỡ Ngài ngay trên đường phố, qua hình hài những người đồng bào của chúng ta, họ ôm trên tay mình, đứa con đang thập tử nhất sinh bởi căn bệnh sởi, nhưng vẫn  phải  “ngồi nghếch mắt trông chờ, nghe những uỷ ban hội đồng nói vu vơ”, rằng thì-là-mà “chưa đủ yếu tố để công bố dịch”…  họ đang bị bủa vây bởi biết bao nhiêu “lực lượng tiên tri giả dối”,  để cho họ niềm hy vọng, để cho họ tình yêu thương, chân lý , niềm tin và sự bình an.

Sẽ là tốt hơn, nếu chúng ta gặp gỡ Ngài, ngay trong gia đình chúng ta, qua hình hài một người chồng hay người vợ, với tất cả tình yêu thương, một tình yêu “hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu”, và với tất cả sự trung thành “sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly”.

Là một Ki-tô hữu, chúng ta, như lời thánh Phaolo nói, “…đã được trỗi dậy cùng Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới”, thánh nhân nói tiếp “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”  (x.Cl 3, 1-2)

Những việc làm như “để cho họ tình yêu thương, chân lý , niềm tin và sự bình an” hoặc  “hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu”… vâng, ai dám phủ nhận khi  làm những việc làm như thế không là “hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới”!

Cho nên, là một Ki-tô hữu, nếu chúng ta mỗi ngày một kiện toàn những  yêu cầu, những việc làm  nêu trên, chúng ta sẽ là người có đủ tiêu chuẩn được đứng chung hàng ngũ những người đã “gặp Đức Giê-su Phục Sinh”.
Petrus.tran













Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...