Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2014

Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?

Chúa Nhật XIII – TN – A
Còn anh em,  anh em bảo Thầy là ai? 
*** ***
Ngôn ngữ Việt Nam có nhiều câu thành ngữ rất hay. Trong ngôn ngữ ngoại quốc cũng vậy và người ta gọi đó là “proverb”.  Có một proverb tiếng Anh viết rằng: “Bad news travels fast”. Dịch thoáng qua ngôn ngữ Việt Nam, chúng ta có thể hiểu rằng:   “tiếng lành đồn xa – tiếng xấu còn đồn xa hơn”. Có thể nói, câu thành ngữ này hoàn toàn đúng ở tất cả mọi quốc gia, mọi chủng tộc trên thế giới.

Khi nói tới “tiếng đồn” thì, những người nổi tiếng thường là đích ngắm cho những lời đồn đãi, khi có dịp tiện. Đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô là một ví dụ điển hình. Thì đây, khi còn là Tổng Giám Mục của tổng giáo phận Buenos Aires, mấy ai biết rằng, vào ngày lễ thứ năm tuần thánh, trong nghi thức rửa chân, ngài đã rửa và hôn lên chân các bệnh nhân ở nơi tạm trú Hogar de Cristo. Thế nhưng, sau khi đã trở thành Giáo Hoàng Phanxicô đương nhiệm, thì, ôi thôi! tiếng đồn về việc ngài rửa và hôn chân trong ngày lễ tiệc ly tràn lan trên báo chí, trên web, trên blog, trên hè phố, nơi chợ búa, trong quán cà phê, nói tắt một lời, trên khắp toàn cầu. Cũng may, đây là tiếng đồn lành…

**
Đức Giêsu, khi còn tại thế, ngài cũng là đích ngắm cho những lời đồn đại của người đương thời.

Thật vậy, trở về hơn hai ngàn năm xa trước đó, Kinh Thánh có ghi lại rằng: Sau ba mươi năm sống ẩn dật tại quê làng Na-da-rét, Đức Giê-su bắt đầu ra đi loan báo Tin Mừng.  Sự xuất hiện của Đức Giêsu trước công chúng lập tức trở thành một sự kiện. Và sự kiện này đã được “đồn ra khắp xứ Xy-ri” (Mt 4, 24)

Công chúng đã đồn đãi gì về Đức Giê-su? Thưa, người ta đồn rằng “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền… Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền”.

Uy quyền đó không chỉ dừng nơi lời giảng dạy mà còn được Đức Giêsu thể hiện qua những phép lạ Ngài làm.

Đúng vậy, bất cứ ai ốm đau, bệnh hoạn tật nguyền, kể cả bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt v.v… đem đến Đức Giêsu, họ đều được Ngài chữa khỏi. Không ai có thể quên chuyện xảy ra ở “địa hạt Tia”. Hôm đó, Đức Giêsu đã chữa lành con gái một bà gốc Phê-ni-xi xứ Xyri khỏi bị quỷ ám” (Mc 7, 24). Rồi một anh “vừa điếc vừa ngọng… ở miền Thập tỉnh”. Thêm một “anh mù ở Bêt-sai-đa” (Mc 8, 22).

Và đúng như lời người xưa nói: tiếng lành đồn xa. Sau những phép lạ tỏ tưởng, một làn sóng những lời đồn đãi về một ông Giê-su bùng lên và lan tỏa. Từ Caphacnaum cho tới vùng Thập Tỉnh, từ Giêrusalem cho tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giodan, nói tắt một lời, là khắp Palestina, đâu đâu cũng nghe tiếng đồn về Đức Giê-su.

Những lời đồn đãi đó đã được Đức Giêsu chú ý đến. Chính vì thế trong một dịp  Thầy và trò “đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Philipphe”, Đức Giêsu đã có một thăm dò dư luận qua việc hỏi han các người môn đệ của Ngài. Hôm đó Ngài đã hỏi các môn đệ  rằng “Người ta nói Con Người là ai?” (Mt 16, …13).

“Con Người” là ai ư! Có lẽ, trong ba năm theo Thầy Giê-su, chưa có lúc nào bầu không khí trong nhóm các môn đệ lại sôi động như lúc này. Để trả lời cho câu hỏi Đức Giê-su đưa ra, một bản tường trình tổng hợp đã được các môn đệ liệt kê. Các ông tường trình rằng, “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ”. (Mt 16, 14).

Khi những lời tường trình của các môn đệ chấm dứt, thay cho việc xác định hay phủ định, Đức Giê-su hướng mắt nhìn các ông, và Ngài gửi đến các ông một câu hỏi, một câu hỏi như để thẩm định lại nhận thức của chính các ông, nhận thức về Ngài sau những ngày tháng các ông đã tin và đã đi theo Ngài.  Câu hỏi rằng: “Còn anh em,  anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16, 15)

Thầy là ai ư! Vâng, khi câu hỏi được Đức Giê-su đặt ra, mười hai vị môn đệ đưa mắt nhìn nhau trong thinh lặng. Chỉ duy nhất một người môn đệ tên là Si-mon Phêrô, một Si-mon Phêrô như là đại diện cho nhóm mười hai, đã trả lời với Đức Giêsu rằng, “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. 

***

“Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Thật ra, không phải chỉ ông Si-mon Phêrô mới có lời tuyên xưng này. Tại Giêrusalem, dân chúng Israel cũng đã có những tranh luận về “Con Người” của Đức Giêsu. Có người coi Ngài như một vị ngôn sứ không hơn không kém. Nhưng cũng có người nói Ngài chính “là Đấng Kitô” (Ga 7, 41).

Tuy nhiên, giữa lời tuyên xưng của ông Si-mon Phê-rô và lời nhận định của một số người Do Thái tại Giê-su-sa-lem hoàn toàn khác.

Với người Do Thái tại Giê-su-sa-lem, họ tuyên bố trong sự “nghi ngờ”. Thật vậy, chính một số người trong nhóm của họ đã tuyên bố; “Đấng Ki-tô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao?” (Ga 7, 41).

Còn với ông Phê-rô, đó là một lời tuyên xưng, một lời tuyên xưng với tất cả niềm tin, tin thật vào “Con Người thật” của Đức Giê-su, một “Con Người” mà ông và những người bạn của ông đã dám “bỏ hết mọi sự và đi theo Ngài”.

Tại sao chúng ta có thể nhận định về ngài Phê-rô như thế? Thưa, đó là dựa vào lời nhận định của chính Đức Giê-su.

Đúng vậy, lời tuyên xưng của ông Phê-rô không phải là một thứ “thông tin”, không phải là dựa vào một lời “đồn đãi”, như những thông tin, những lời đồn đãi đời thường, trước một người nổi tiếng. Trái lại, lời tuyên xưng của ông đã được Đức Giêsu nhìn nhận là một lời tuyên xưng không phát xuất do “phàm nhân mặc khải” nhưng là do Cha của Ngài “Đấng ngự trên trời” đã mặc khải.

Vào một lần khác, chỉ vì “nuốt không trôi” mặc khải về bánh-hằng-sống, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Đức Giêsu. Si-mon Phêrô, lại là Phêrô, ngài đã thay mặt nhóm mười hai, tuyên xưng niềm tin của mình trước Thầy Giêsu, rằng: “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”(Ga 6, 69).

“Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa - Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”... Vâng, Simon đã hai lần xác tín, hai lần tuyên xưng, chính vì thế, hôm đó, Đức Giêsu không ngần ngại gọi ông là Phê-rô, “là Tảng Đá”, một thứ “Tảng Đá” mà Ngài sẽ dùng để “xây Hội Thánh” của Ngài.

****

Bạn có tham gia “facebook” không? Nếu có, hãy tưởng tượng, Đức Giê-su có mở một trang facebook và trên timeline Ngài post dòng chữ “Còn anh em,  anh em bảo Thầy là ai?” cộng với lời kêu gọi các blogger Công Giáo trả lời. Bạn sẽ trả lời chứ!?

Vâng, bước vào thế kỷ 21, một thế kỷ với phương tiện truyền thông hiện đại như hôm nay. Chúng ta đã được nghe cả trăm, cả triệu, cả hằng triệu câu trả lời.

Nhưng thật là đáng tiếc, hằng trăm, hằng triệu câu trả lời đó, đã trả lời một cách méo mó, một cách vu vơ, một cách sai lạc, thậm chí một cách hỗn xược về Chúa Giêsu.

Không thiếu những bài viết hết sức văn vẻ “bảo rằng” Đức Giêsu chỉ là một nhân vật tưởng tượng của tôn giáo. Không thiếu những tên tự nhận mình là “đỉnh cao trí tuệ” phóng bút mô tả tôn giáo, nhất là Công Giáo, chỉ là “thứ thuốc phiện ru ngủ dân chúng” v.v... và v.v…
Chính vì thế, là một người môn đệ của Đức Ki-tô, chúng ta phải có trách nhiệm trả lời, không chỉ trả lời cho Thầy Chí Thánh Giê-su mà còn cho tất cả bàn dân thiên hạ.

Trả lời như thế nào ư!? Phải chăng là copy “nguyên con” câu của tông đồ Phê-rô xưa đã trả lời Đức Giê-su, rằng “Thầy là Đấng Kitô. Con Thiên Chúa hằng sống” rồi “paste” lên phần comment của chúng ta? Vâng, nếu đó là câu trả lời của chúng ta! Xin thưa, tông đồ Gia-cô-bê nói:  “cả ma quỷ cũng tin như thế…” (Gc 2, …19)

Tạ ơn Chúa. Linh mục Jude Siciliano, OP, đứng trước nan đề nêu trên, ngài có lời khuyên rằng: “Vào những giai đoạn khác nhau trong đời, chúng ta cũng bị chất vấn những câu như thế và chúng ta phải trả lời chứ không chỉ dừng lại công thức tuyên xưng đức tin hay câu trả lời mà chúng ta học được từ các lớp giáo lý khi còn là trẻ con, nhưng phải là câu trả lời từ một đức tin trưởng thành được nuôi dưỡng bởi các bí tích, bài đọc, các cơ hội học hỏi trong giáo xứ, qua cầu nguyện, suy tư Lời Chúa – cũng như những gì chúng ta học được từ nỗ lực nhằm trả lời cho những thiếu thốn của con người và thế giới quanh ta”.

Đúng vậy, nếu câu trả lời của chúng ta chỉ là những câu tuyên xưng ngoài môi miệng thì, chẳng khác nào, như lời tông đồ Giacôbê nói “mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì” (Gc 2, 14)

Là một Ki-tô hữu, đương nhiên, chúng ta “có đức tin” vào Đức Giê-su Ki-tô. Có đức tin mà không hành động theo đức tin là bởi chúng ta chưa “Mặc lấy Đức Ki-tô”.

Thế nào là mặc-lấy-Đức-Ki-tô? Thưa, dĩ nhiên không phải là chúng ta sẽ theo lối ăn mặc xưa của Ngài nhưng là mặc lấy cung cách sống của Ngài. Nói rõ hơn, mặc lấy Đức Ki-tô, đó là mặc lấy cung cách yêu thương của Ngài, đó là mặc lấy cung cách nhân từ của Ngài, đó là mặc lấy cung cách tha thứ của Ngài.

Cung cách yêu thương của Đức Giê-su, đó là: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”… đó là “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em”.

Cung cách nhân từ của Ngài, đó là “Đừng xét đoán… đừng lên án… “. Cung cách tha thứ của Ngài, đó là, phải tha đến “bảy mươi lần bảy” (x. Mt 18, …22).

Đừng quên, Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng: “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu: Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (x.Tv 102,  8-10).

Thế nên, để trả lời cho câu hỏi của Thầy Chí Thánh Giê-su cũng như cho bàn dân thiên hạ biết “Ngài là ai?” không gì tốt hơn là  chúng ta phải sống đúng cung cách yêu thương của Ngài, sống đúng cung cách nhân từ của Ngài, sống đúng cung cách tha thứ của Ngài.

Đây không phải là chuyện dễ thực hiện. Thế nhưng, với kinh nghiệm từng trải trên con đường loan báo cho bàn dân thiên hạ biết Đức Giê-su là ai, thánh Phao-lô chia sẻ rằng: “Có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4, 17).”

Thưa Bạn… Bạn có thấy sống đúng cung cách sống của Đức Giê-su là điều khó thực hiện? Nếu chúng ta cảm thấy khó? Vậy, chúng ta hãy theo kinh nghiệm của thánh Phao-lô, cùng nhau nguyện rằng: Lạy Chúa Giê-su. Xin Ngài đứng bên cạnh chúng con, ban sức mạnh cho chúng con, để nhờ đó mà việc rao giảng của chúng con được hoàn thành  và tất cả các dân ngoại được biết “Thầy là ai”.

Petrus.tran

Thứ Hai, 23 tháng 6, 2014

Thánh Thể: Thần Lương Nhiệm Mầu

Thánh Thể: Thần Lương Nhiệm Mầu

Yêu và được yêu là nhu cầu không thể thiếu của con người. Chính vì thế, có người đã nói: cuộc sống của con người là một chuỗi những tháng ngày tìm kiếm tình yêu. 

Đối với con người, khi đến với tình yêu, trước tiên, người ta thường chú trọng đến việc ai sẽ là  người-mình-yêu-nhất. Chưa hết, người ta còn tính toán, ai sẽ là người-yêu-mình-nhất. Và cuối cùng, người ta ước mong rằng, giữa người-mình-yêu-nhất và người-yêu-mình-nhất sẽ là cặp đôi hoàn hảo cùng đồng hành với  nhau trong suốt cuộc đời mình. 
Thế nhưng, thực tế trong cuộc sống, để gặp được mối tình như thế, đó là điều không đơn giản. Không đơn giản, bởi, có không ít trường hợp, người-bạn-yêu-nhất không thích bạn. Không đơn giản còn bởi, cũng có trường hợp, người-yêu-bạn-nhất lại không phải là người-bạn-yêu-nhất, để rồi, người-bạn-đời của ta đôi khi chỉ là người-xuất-hiện-vào-lúc-thích-hợp-nhất-trong-đời-ta.

Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, dĩ nhiên,  không theo cung cách như con người. Đối với Thiên Chúa, tình yêu của Người, như lời tông đồ Gioan nói, “… cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4, 10). Tiếp lời thánh Gioan, tông đồ Phao-lô nói: “Bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, đó là, Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân” (Rm 5, 8).

Với Đức Giê-su, khi nói về tình yêu của Thiên Chúa, Ngài không chỉ thể hiện qua việc làm  phép lạ chữa lành bệnh tật, cho kẻ chết sống lại, mà còn truyền đạt bằng ngôn từ cho mọi người biết, rằng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). 

Để được sống muôn đời, ngoài việc tin vào “Con của Người”, con người còn phải tiếp nhận một thứ “thần lương”, một thứ thần lương nhiệm mầu, để “ai ăn sẽ được sống muôn đời”. 

Tại Caphanaum, “thần lương nhiệm mầu” đó đã được  Đức Giê-su hé mở khi Ngài lớn tiếng công bố, rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51).

Vâng, hơn hai ngàn năm xưa, Caphanaum trong một ngày không êm ả, từng đoàn người bên kia Biển Hồ tràn qua hội tụ nơi đây, khi họ biết rằng, có sự hiện diện của Đức Giêsu.

Nguyên nhân sâu xa của cuộc hội tụ này, là do trước kia, vào những ngày đầu Đức Giêsu thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, họ đã chứng kiến quyền năng của Ngài qua việc chữa lành “mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 4,24).

Nguyên nhân gần, đó là, do vài hôm trước, vào một buổi chiều tà, Đức Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để cứu đói họ. Vì thế, hôm nay, họ lại “đi Caphanaum tìm Người”. Họ đi tìm Đức Giê-su với ước muốn rằng, biết đâu, một lần nữa, Ngài lại dùng quyền năng để làm một việc gì đó cứu đói họ chăng?

Thế nhưng, thật đáng tiếc, ước muốn đó đã không thành sự thật.  Đối với họ, chuyện sống còn “dưới đất” là điều thật khẩn thiết. Nhưng, với Đức Giêsu, Ngài  lại muốn họ nhận ra rằng, còn có sự sống “trên trời”. Sự sống đó không thể được nuôi dưỡng bởi những thứ “lương thực mau hư nát” nhưng phải được nuôi bởi thứ “lương thực thường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh” (Ga 6, 27).

“Lương thực thường tồn đem lại hạnh phúc trường sinh” không là điều bí ẩn, nó đã được Đức Giê-su công bố trước bàn dân thiên hạ, rằng: “Tôi là bánh trường sinh…. Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết”.

Lời công bố đó như một quả bom tấn, nó đã làm nổ tung những thành kiến về Đức Giê-su, vốn đang tiềm ẩn nơi người Do Thái. Chuyện kể rằng: “Họ liền tranh luận với nhau. Họ nói: làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”

Bất chấp những lời xầm xì phản đối của họ. Bất chấp những lời tranh luận giữa họ với nhau. Bất chấp họ nghi ngờ về việc “(Ngài) có thể cho (mọi người) ăn thịt của (Ngài)”. Đức Giêsu vẫn xác quyết rằng: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” 

Có lẽ, nhóm người Do Thái quên mất vai trò và sứ vụ của Đức Giêsu. Ngài đến thế gian không để trở thành nhà ảo thuật, biến “đá thành bánh”. Bởi nếu có làm như thế thì tấm bánh đó cũng chẳng khác nào “manna xưa, tổ tiên họ đã ăn và đã chết” .

Vai trò và sứ vụ của Đức Giêsu đến thế gian, là “để cho thế gian được sống”. Được-sống-muôn-đời bằng một thứ manna mới. Manna mới đó chính là Mình-và Máu của Ngài, như lời Ngài đã nói “thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống”(Ga 6,55).

Hôm đó, khép lại cuộc tranh luận, Đức Giê-su lớn tiếng tuyên bố, rằng: “Đây là bánh từ trời xuống…  Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. (Ga 6, 58).

***
Với tất cả những gì Đức Giê-su đã công bố, có thể nói rằng, quả thật, Ngài đã ban cho con người một thứ “thần lương nhiệm mầu”. Sự nhiệm mầu không chỉ ở chỗ “Ai ăn…  sẽ được sự sống muôn đời” mà còn, như lời tông đồ Phao-lô đã nói với những người tín hữu tại Cô-rin-tô, rằng: “Khi ta cùng bẻ Bánh Thánh đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?”. 
Sau đó, thánh nhân nói tiếp rằng: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cor 10, 16-17).

Nói cách khác “Thần Lương nhiệm mầu” mà hôm nay, Giáo Hội gọi là “Bí Tích Thánh Thể” chính là chất xúc tác, tạo “sự kết hiệp – sự hiệp nhất” hồng phúc với nhau trong Đức Ki-tô. 

Chính vì thế, hãy tự hỏi lòng mình, rằng: hai mươi năm, ba mươi năm, bốn mươi năm hay nhiều hơn thế nữa, mỗi khi lãnh nhận Thần Lương, chúng ta thật sự “kết hiệp- hiệp nhất” hồng phúc với nhau trong Đức Ki-tô? 

Nếu chưa, hãy tự hỏi, điều gì khiến cho ta chưa kết hợp, chưa hiệp nhất!? Có phải vì ta đón nhận Thần Lương như một thói quen, như một cái “mốt” để chứng tỏ đẳng cấp đạo đức của ta?

Về điều này, thánh Phao-lô cảnh cáo; “Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình” (1Cor 11, 28-29).

Chúng ta đừng quên, trước giờ chịu nạn, Đức Giê-su đã cầu nguyện rằng: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17, 20-21).

“Để tất cả nên một”. Vâng, năm nay, như chúng ta đã biết, là năm “Tân Phúc Âm hóa” gia đình. Có cách nào Tân Phúc Âm hóa gia đình tốt hơn cách hãy tạo một gia đình “nên một” trong Chúa, mọi lúc mọi nơi? Làm thế nào để có một  gia đình nên một trong Chúa? 

Vâng, xin mượn ý tưởng của một blogger ẩn danh thay cho câu trả lời. Ý tưởng rằng: “Muốn liên kết, chúng con phải cắt bỏ những chứng tật cố hữu, phải hy sinh trong mọi lúc. Thế nhưng, nhờ những hy sinh này, chúng con sẽ nên một trong Chúa và sẽ được chiêm ngắm quyền năng vinh quang Chúa hành động”.

Một gia đình nên một trong Chúa, được chiêm ngắm quyền năng vinh quang Chúa hành động, có phần chắc, gia đình đó, anh em hòa thuận. Một gia đình nên một trong Chúa, được chiêm ngắm quyền năng vinh quang Chúa hành động, có phần chắc, gia đình đó, vợ chồng ý hợp tâm đầu. 

Một gia đình nên một trong Chúa, được chiêm ngắm quyền năng vinh quang Chúa hành động, có phần chắc, gia đình đó được kết hợp bằng  Mình-và-máu-Chúa; một thứ “Thần Lương Nhiệm Mầu”.

petrus.tran

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014

Sáng danh Ba Ngôi Thiên Chúa.

Lễ Chúa Ba Ngôi.

Sáng danh Ba Ngôi Thiên Chúa.

***   
Tông đồ Gioan khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thật vậy, Kinh Thánh chép rằng: “Từ ban đầu Thiên Chúa sáng tạo trời và đất” (St 1,1). Hơn thế nữa, Thiên Chúa còn “làm ra con người theo hình ảnh (Thiên Chúa) và để cho con người làm bá chủ trên mặt đất” (St 1,26).

Buồn thay! con người đã phạm tội bất tuân. Chính tội lỗi con người phạm đã phá hủy chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Nó  hủy diệt ơn phước và tình yêu thương Thiên Chúa đã dành cho con người. Vì đã phạm tội nên con người sợ hãi để rồi trốn chạy Thiên Chúa. Vì phạm tội,  sự chết đã thống trị con người. “Là bụi đất, (con người) sẽ trở về với bụi đất” (St 3,…19). Điều đau buồn hơn hết, chính vì tội lỗi đã phạm, nên con người phải lìa xa Thiên Chúa. Mất đi hồng phúc làm con Thiên Chúa.

Dẫu là vậy, nhưng, như lời Kinh Thánh đã ghi, Thiên Chúa vẫn luôn “… là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giầu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi.” (Tv 103, 8-9).
**
Quả thật, nhiều lần và nhiều cách, tình yêu thương của Thiên Chúa vẫn luôn được biểu lộ trong suốt chiều dài lịch sử con người. Và cái cách biểu lộ tuyệt vời nhất, như lời tông đồ Gioan nói, đó là: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 1, 9)

“Con Một của Người” chính là Đức Giê-su. Ngài đã đến thế gian và tái khẳng định với con người rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).

Trong ba năm thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu, qua những lời giảng dạy, Ngài đã gửi đến con người nhiều thông điệp, một trong những thông điệp đó đã được Ngài công bố rằng: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).

Để minh họa cho thông điệp, Đức Giê-su đã kể một dụ ngôn, một dụ ngôn đã làm ngất ngây cử tọa, đó chính là “dụ ngôn người cha nhân hậu” (x.Lc 15, 11- 32)

Trong dụ ngôn, qua nhân vật người cha, Đức Giêsu đã cho mọi người thấy rõ nét về một Thiên Chúa Cha nhân hậu và bao dung. Một Thiên Chúa luôn “chạnh lòng thương xót” trước những hối nhân trở về.

Với nhân vật người con thứ, Đức Giêsu đã gửi đến mọi người một thông điệp rằng, con người chỉ có thể đón nhận lòng nhân hậu và sự bao dung của Thiên Chúa với điều kiện, đó là “tin”, tin vào sự tha thứ, đó là, đứng lên và đi về với Thiên Chúa, như người con hoang đàng đã “tin” và đã “đứng lên, đi về cùng cha”.

Vâng, “Như người cha chạnh lòng thương con cái. Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn”, hôm đó, để khép lại bản thông điệp về tình yêu, Đức Giê-su đã khẳng định rằng: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18).

** *
Đến thế gian, Đức Giê-su không chỉ giới thiệu đến con người một “Thiên Chúa là tình yêu” nhưng còn mạc khải cho con người biết rằng, ngoài Thiên-Chúa-là-tình-yêu còn có một “Thiên Chúa Ba Ngôi”.

Mạc khải này đã được chính Đức Giêsu bảy tỏ trong đêm Ngài trò chuyện với ông Nicôđêmô.

Trong đêm đó, khi  nói chuyện về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô về một “Đấng” mà nếu không bởi Ngài thì sẽ không thể vào Nước Thiên Chúa và ông ta đã ngớ người ra khi nghe Đức Giêsu nói về Đấng đó, rằng : “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần”. 

Chúa Thánh Thần là ai? Thưa, hôm đó, Đức Giê-su đã giải thích với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3, 8).

Và quả thật, điều Đức Giê-su nói đã trở thành sự thật sau khi Ngài về trời. Sự thật đó đã xảy ra vào ngày lễ Ngũ Tuần, khi các môn đệ đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.  Chuyện được kể lại rằng,  các môn đệ đã nhìn thấy “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một”.  Và từ đó, các ông “được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2 ,2).

“Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian…”  Con-của-Người nói: “Tôi và Chúa Cha là một”… Con-của-Người còn phán hứa: “Nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em,  nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh  em” (Ga 16,7)

Vâng, với tất cả những lời Đức Giê-su tuyên phán, không ai có thể thể phủ nhận rằng, Đức Giê-su đã mạc khải cho con người mầu nhiệm về “Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

Phaolô sau khi trở thành tông đồ của Chúa, Ngài cũng nhận đã nhận ra mạc khải trọn vẹn về “Ba Ngôi Thiên Chúa”. Thánh nhân đã không quên chia sẻ mạc khải này trong thư gửi cho cộng đoàn Roma.

Thư được viết rằng: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5, 5). Và hơn thế nữa, thánh nhân luôn “cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Thánh Thần” (2Cor13,13).

****


Hôm nay, toàn thể Giáo Hội Công Giáo mừng kính trọng thể lễ Chúa Ba Ngôi.

Nếu… nếu hôm nay, chúng ta được mời đến một cộng đoàn, hoặc một nhóm nhỏ,  để nói về Ba Ngôi Thiên Chúa… Vâng, chúng ta sẽ nói gì ?

Phải chăng chúng ta sẽ “bổn cũ soạn lại” theo chân những nhà thần học xưa cố gắng diễn tả cho mọi người nhận biết mầu nhiệm “Một Chúa Ba Ngôi” theo nhiều cách thế khác nhau! 


Phải chăng chúng ta sẽ diễn tả Ba Ngôi Thiên Chúa giống như H2O, tuy ở ba dạng thể: thể lỏng (nước lỏng), thể rắn (nước đá),và thể khí (hơi nước) nhưng tất cả đều được gọi là “nước”?


Phải chăng chúng ta sẽ nói về một quả trứng. Nó có vỏ bọc, có lòng đỏ và có lòng trắng, nhưng cũng chỉ là quả trứng? Phải chăng chúng ta không quên hình ảnh về mặt trời nơi phát ra ánh sáng và sức nóng nhưng cũng chỉ được gọi là mặt trời?


Thiên Chúa là Đấng vô hạn, chính vì thế, chúng ta không thể  dùng những vật thể hữu hạn để mà so sánh về Người. Và Thiên Chúa nào có cao xa… Người đã mặc lấy xác phàm và đang cư ngụ giữa chúng ta kia mà!


Vâng, nói về Ba Ngôi Thiên Chúa, không gì tốt hơn là hãy học theo Thầy Giêsu, dùng ngôn ngữ tình yêu để mà diển tả về Người.


Thế nào là ngôn-ngữ-tình-yêu? Thưa, đó chính là hãy bày tỏ được lòng bao dung, sự chậm giận và hay tha thứ trong cuộc sống của mình.


Thật vậy, lòng bao dung, sự chậm giận và hay tha thứ có nơi chúng ta, chúng ta mới có thể  “đem yêu thương vào nơi oán thù – đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp”. 


Và khi chúng ta thực hiện trọn vẹn một trong những điều nêu trên, hãy nghĩ xem, phải chăng hình ảnh về một Đức Chúa Cha, qua chúng ta,  đang phảng phất trước đôi mắt mọi người!


Lòng bao dung, sự chậm giận và hay tha thứ có nơi chúng ta, chúng ta mới có thể “tìm an ủi người hơn được người ủi an – tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết – tìm yêu mến người hơn được người mến yêu”.

Vâng, khi chúng ta thực  hiện tốt một trong những điều nêu trên, hãy nghĩ xem, làm sao mọi người lại không thể không nhìn thấy hình ảnh Đức Chúa Con, một Đức Chúa “dám liều mạng sống vì người mình yêu”!

Thưa Bạn, khi bạn bày tỏ lòng bao dung, sự chậm giận và hay tha thứ, trong lòng bạn sẽ cảm nhận được gì? Phải chăng, tâm hồn bạn sẽ cảm thấy bình an, hoan lạc, hiền hòa, nhân hậu, từ tâm?


Đúng, bạn sẽ cảm thấy tâm hồn mình bình an, hoan lạc, hiền hòa, nhân hậu, từ tâm.  Khi có được một tâm hồn như thế… Ôi! tuyệt diệu thay! tâm hồn bạn đang tỏa sáng “Hoa quả của Thần Khí”. 


Tỏa sáng “Hoa quả của Thần Khí”, chẳng ai có thể phủ nhận bạn đang tuyên xưng "Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Chúa và là Ðấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh với Chúa Cha và Chúa Con; Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy".


*****


Khi  nói về Ba Ngôi Thiên Chúa bằng “ngôn ngữ tình yêu”, phải nhìn nhận rằng, đó  không phải là những lời nói dễ thực hiện. Thế nhưng, “ngôn ngữ tình yêu” lại là “điều kiện ắt có và đủ” cho bất cứ ai muốn trở thành môn đệ Chúa Giê-su.


Chính vì thế, để có thể thực thi “ngôn ngữ tình yêu”, chúng ta hãy cùng nhau ca nguyện rằng; “Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người thương thăm viếng hồn con. Ban xuống cho con hồng ân chan chứa, trau dồi cho đáng ngôi thánh đường”. 


Vâng, hãy cầu xin Chúa Thánh Thần làm cho “Ngôi thánh đường” tâm hồn chúng ta tràn ngập “ngôn ngữ tình yêu”, bởi nhờ đó chúng ta mới có thể làm “Sáng Danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”. Nói cách khác, làm sáng danh “Ba Ngôi Thiên Chúa”.


Petrus.tran






Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2014

Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Hồn con đang mong chờ Ngài…

Hàng năm, sau lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một trong bốn lễ trọng của phụng vụ Công Giáo.

Bốn ngày lễ trọng đó gồm: Lễ Giáng Sinh – Lễ Phục Sinh – Lễ Thăng Thiên và Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Nếu được phép, có thể ví bốn ngày lễ này như bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông.

Chúng ta hãy thử nghĩ xem, lễ Chúa Giêsu Giáng Sinh có khác gì mùa xuân, vì mùa xuân là mùa của hoa đâm chồi, cây kết trái. Đức Giê-su xuống thế làm người là “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”, đó chính là một sự “đâm chồi - kết trái” hoàn hảo, để thế gian hễ ai tin vào Ngài “thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (x.Ga 3, 16).

Lễ Chúa Giê-su Phục Sinh có khác gì mùa hạ, vì mùa hạ là mùa nắng vàng trong xanh, cây trái chín rộ. Cái chết và sự Phục Sinh của Đức Giê-su nói lên rằng, “Ơn Cứu Độ” đã chín rộ khắp toàn cõi Giê-ru-sa-lem cho tới tận cùng trái đất.

Lễ Chúa Giê-su Thăng Thiên có khác gì mùa thu, vì mùa thu là mùa lá thu rơi với bao cảnh sắc sinh động, một bước khởi đầu của sự đổi mới. Sự kiện Ngài “thăng thiên” chính là khởi đầu cho sự “đổi mới”, đổi mới bằng sự ra đi của Đức Giê-su, “ra đi” như lời Đức Giê-su đã nói, là để “có lợi cho anh em”, cái lợi đó, Đức Giê-su đã bày tỏ, rằng “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở… Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.

Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có khác gì mùa đông,bởi mùa đông chính là mùa của  tưởng nhớ, nhớ về tình cảm người thân dành cho ta, nhớ về những lời dạy dỗ  của người thân yêu dành cho mình. Thì đây,  Chúa Thánh Thần hiện xuống, Người đã  làm cho các môn đệ “nhớ lại mọi điều” Chúa Giê-su đã nói với các ông.

Vâng, nếu bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông đem lại cho  con người một vòng tuần hoàn thời tiết hoàn hảo, thì bốn ngày lễ: Giáng Sinh – Phục Sinh – Thăng Thiên và Chúa Thánh Thần Hiện Xuống chính là   những “toa tàu” không thể thiếu trên “con tàu cứu rỗi” trong chương trình cứu độ  của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Đáng tiếc rằng, một số ít người tín hữu Công Giáo coi  sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời sống đức tin là điều không mấy hệ trọng. Đa số tín hữu Công Giáo chỉ biết đến Chúa Thánh Thần trong ngày “lễ thêm sức”, rồi sau đó, khi trưởng thành thì thường lãng quên vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống đức tin của mình.
Đó là một suy nghĩ sai lầm hết sức nghiêm trọng. Đức Giê-su, ngay những ngày đầu ra đi loan báo Tin Mừng, Ngài đã cho mọi người thấy tầm quan trọng của Chúa Thánh Thần.  
 
**
Thật vậy, chuyện được kể lại rằng, trong một dịp nói chuyện với ông Nicôđêmô về Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đã nói với ông ta rằng, “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần” (Ga 3,7).

Riêng với Nhóm Mười Hai, là những người  môn đệ của Ngài, Đức Giêsu đã cho các ông biết vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống đức tin như thế nào.

Hôm đó, hôm Thầy và trò cùng dự bữa tiệc mừng lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ rằng  “Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh  em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh  em” (Ga 14,26).

Hôm đó cũng là hôm Đức Giê-su loan báo về sự “ra đi” của Ngài. Lời loan báo đó đã làm cho các môn đệ xao xuyến. Và để trấn an, Đức Giêsu nói tiếp: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác để ở với anh  em luôn mãi”.

Lời hứa đó đã trở thành hiện thực vào ngày thứ nhất trong tuần, ngày Đức Giê-su Phục Sinh.

Vâng, hôm đó đúng “vào chiều ngày thứ nhất trong tuần”, Đức Giêsu đã hiện đến với các môn đệ, mặc dù nơi các ông ở “các cửa đều đóng kín”. Sự hiện đến của Ngài đã làm tan biến những lời huyền hoặc do truyền thông thế quyền Roma lẫn thần quyền Do Thái, cáo gian rằng, các ông đã lợi dụng ban đêm lén đến “lấy trộm xác” rồi phao tin rằng Thầy của họ đã sống lại từ cõi chết.(Mt 28,13).

Hôm đó, khi nhìn thấy Đức Giê-su Phục Sinh, những nỗi âu lo của các ông tan biến, thay vào đó, các ông cảm nhận được sự “Bình An” do chính Thầy của mình đem lại. Sự bình an đó không chỉ dựa vào lời chúc của Đức Giêsu: “Bình an cho anh em”, nhưng còn được củng cố bởi Thánh Thần Chúa khi Đức Giêsu “Thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).

***
“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Vâng, lời hứa mà Đức Giê-su đã hứa nay đã được Ngài thực hiện. Và hơn thế nữa, những lời dặn dò của Ngài với các môn đệ, rằng “không được rời khỏi Giêrusalem nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa” cũng đã được sáng tỏ.

Hôm đó,  đúng vào ngày lễ Ngũ Tuần, không ai có thể tưởng tượng được, một hiện tượng lạ xảy ra “từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp” (Cv  2,2).

Kinh Thánh thuật lại rằng,  các môn đệ đã nhìn thấy “những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một”.  Và từ đó, các ông “được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2 ,2).

Khi đã được tràn đầy ơn Thánh Thần, một phép lạ xảy ra, đó là: con người nơi các môn đệ đổi mới toàn diện.

Sự đổi mới thứ nhất và quan trọng nhất, đó là: sự nhát đảm của các ông được đổi mới bằng sự can đảm. Các ông không còn đóng kín cửa vì sợ người Do Thái nữa. Niên trưởng Phêrô đã hiên ngang “đứng chung với nhóm mười một… chứng thực sứ mạng của (Đức Giêsu)” cho mọi người nghe.

Sự biến đổi thứ hai, đó là: Thánh Thần Chúa đã biến đổi ngôn ngữ của các môn đệ. Các ông có thể “nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho”.

Hôm đó, thật không thể tin được “các dân thiên hạ” phải  “kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình” (Cv 2,6). Dù là “người Roma hay người Do Thái… người đảo Cơrêta hay ngưởi Ảrập” tất cả mọi người đếu được nghe các môn đệ “dùng tiếng nói của họ mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2,11).

Sự  biến đổi thứ ba, như lời Đức Giêsu đã nói “Khi (Đấng Bảo Trợ) đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính” (Ga 16,8).

Thì đây, vào ngày lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần Chúa, qua miệng lưỡi các tông đồ, đã cáo trách mọi người “Hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội”. Và quả thật, những lời cáo trách đó đã làm cho nhiều người “đau đớn trong lòng”. Thánh Thần Chúa đã tác động tâm hồn “khoảng ba ngàn người”, Ngài đã biến đổi họ từ người chưa tin Chúa Giê-su trở thành “người tin” (Cv 2,…41).


****
Thời đại Thiên Chúa sáng tạo đã qua. Thời kỳ Thiên Chúa cứu chuộc đã hoàn tất qua biến cố “Chết và sống lại” của Đức Giê-su Ki-tô. Và hôm nay, chúng ta đang sống trong thời kỳ cuối cùng – thời kỳ Chúa Thánh Thần.

Chính vì thế, hãy tự hỏi mình rằng, là một Kitô hữu, tôi đã nhận lấy Chúa Thánh Thần chưa?

Nếu chưa? Vâng, làm sao chúng ta có được “Ơn khôn ngoan” để mà phân biệt đâu là lẽ phải, đâu là điều gian ác?

Nếu chưa, làm sao chúng ta có được “Ơn hiểu biết” để mà nhận biết đâu là lẽ thật để được hưởng sự sống đời đời?

Nếu chưa, làm sao chúng ta có được “Ơn sức mạnh – Ơn thông minh” để mà vượt qua những cám dỗ, những cạm bẫy tràn lan trong một xã hội duy vật vô thần như hôm nay?

Nếu chưa, làm sao chúng ta có được “Ơn đạo đức – Ơn kính sợ Thiên Chúa” để mà tôn kính sự công bằng và quyền phép của Người?

Nói cách khác, nếu chúng ta chưa “Nhận lấy Chúa Thánh Thần” chúng ta không thể có được những hoa trái Chúa Thánh Thần, hoa trái “ bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5, 22) !

Không có hoa trái Chúa Thánh Thần, làm sao chúng ta có thể “đem chân lý vào chốn lỗi lầm… đem tin kính vào nơi nghi nan… chiếu trông cậy vào nơi thất vọng.. dọi ánh sáng vào nơi tối tăm…đem niềm vui đến chốn u sầu”?

Không có “hoa trái của Thánh Thần” làm sao chúng ta có thể “tân Phúc Âm hóa” gia đình – một lời mời gọi khẩn thiết của Giáo Hội hôm nay?

Chúng ta hãy trở lại lời Đức Giê-su đã phán với các môn đệ năm xưa, rằng: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.

Thưa Bạn, bạn có tin, đây cũng là lời phán của Chúa Giê-su đối với chúng ta? Nếu tin, và nếu chúng ta chưa nhận lấy Chúa Thánh Thần, thì hôm nay, ngay bây giờ, đứng chần chờ gì nữa, chúng ta hãy ngước mắt lên trời cùng ca nguyện rằng “Thánh Thần! khấn xin ngự đến. Hồn con đang mong chờ Ngài”.

Vâng, Lạy Chúa Thánh Thần. “Hồn con đang mong chờ Ngài”.


Petrus.tran 

Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2014

Sao còn đứng nhìn trời?



Chúa Nhật VII - A  - Lễ Thăng Thiên.
Sao còn đứng nhìn trời?

Mùa Phục Sinh đã khép lại. Và hôm nay, toàn thể Giáo Hội Công Giáo mừng Lễ Thăng Thiên. Thăng Thiên là gì? Thưa, có nghĩa là lên trời và đây là nói về Đức Giê-su, không ngoài ai khác, rằng: Ngài đã lên trời.  

Vâng, người tín hữu Công Giáo tin rằng, Đức Giêsu “…Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết…”

Đây là niềm tin tông truyền, các tông đồ chính là chứng nhân.

Thật  vậy! Sau khi Đức Giêsu phục sinh và đã hiện ra nhiều lần, nhiều cách với các môn đệ,  có thể nói rằng, các ông đã dần dần phục hồi lại niềm tin vào Thầy của mình. Những lúc “buồn buồn với chán chường”, cùng với những nỗi thất vọng của các ông như bị đẩy lùi và thay vào đó là một niềm tin tưởng. Nhóm mười một các môn đệ tin rằng rồi đây Thầy Giêsu sẽ “khôi phục vương quốc Israel ” trong nay mai. 
Thế nhưng, đó không phải là điều Đức Giê-su sẽ thực hiện. 

Bốn mươi ngày qua, kể từ khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu không ngừng hiện ra với các môn đệ.  Và mỗi khi hiện ra với các ông, ngoài những việc làm như ăn và uống để chứng minh rằng Ngài không phải là ma, nhưng đã thật sự sống lại, Đức Giêsu còn chú trọng đến những lời dạy dỗ các môn đệ. Một trong những điều dạy dỗ quan trọng, đó là Đức Giêsu đã “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”. 

Ngoài việc mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, Đức Giê-su không quên nhắc lại cho các ông nhớ đến “Đấng Bảo Trợ” mà các ông sẽ “nhận được”, đó chính là  “sức mạnh của Thánh Thần khi người ngự xuống” trên các ông.

“Nhận được sức mạnh của Thánh Thần” Đức Giê-su nói tiếp “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”

Hôm đó, Đức Giê-su, sau những lời dặn dò các môn đệ, “Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1, 9).

**
Có bao giờ chúng ta tự hỏi: Tại sao, sau khi sống lại, Đức Giê-su lại lên trời! Sao Ngài không ở lại thế gian, với quyền phép và chứng cứ chết đi sống lại của mình, một chứng cứ đủ thuyết phục để mọi người tin theo?

Thưa, nếu câu hỏi này được gửi đến Đức Giê-su,  có phần chắc Ngài sẽ nói: “tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của phàm nhân”.

Vâng, Đức Giê-su lên trời, như Ngài đã nói trong bữa tiệc mừng Lễ Vượt Qua, là để: “có lợi cho anh em”. Cái “lợi” đó, Đức Giê-su nói tiếp rằng: “Nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em”. 

Không chỉ có thế, Đức Giê-su còn cho các môn đệ biết rằng: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.  

 Về điều này, các môn đệ đã được xác nhận sau khi Đức Giê-su “được cất lên ngay trước mắt các ông”.  Vâng, hôm đó, “Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh mà nói: ‘Hỡi những người Ga-li-lê sao còn đứng nhìn trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1, 10-11) 

***
Thánh Phao-lô khi nói tới biến cố Đức Giê-su lên trời, ngài chia sẻ rằng: “Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt bên hữu Người trên trời” (Ep 1, …19-20).

Còn chúng ta, hôm nay, kính trọng thể lễ Chúa Giê-su thăng thiên, chúng ta nghĩ gì? 

Vâng, tác giả bài suy niệm “Rồi Ngài sẽ trở lại”, chia sẻ rằng: “Mừng Mầu Nhiệm Chúa về trời,  bạn bước vào một mùa vọng mới, mùa mong đợi Đức Ki-tô lại đến. Chúng ta, ‘những người Ga-li-lê’ ngày nay, không được phép cứ đứng nhìn trời mà không làm gì cả, nhưng hãy quay trở lại công trường của mình là cuộc sống trần thế này, sắn tay áo xây dựng nó xứng tầm với “thành đô Giê-ru-sa-lem mới” trong ngày Đức Ki-tô lại đến.” (nguồn: 5 phút Lời Chúa tháng 6/2014)

****
“…Sắn tay áo xây dựng nó” như thế nào? Thưa, chỉ cần thực hiện bốn chữ “Hãy đi và làm…”. Vâng, Đức Giê-su, trước khi về trời, Ngài đã truyền dạy rằng, “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho anh em”(Mt 28, 19)

Đây là một lệnh truyền không dành riêng cho ai.  Không nhất thiết phải là một giáo sĩ, một giám mục hay một linh mục mới có thể “hãy đi và làm”.  

Theo tông huấn Giáo hội tại Châu Á ở số 45, do  Đức Gioan Phaolo II viết, thì: “Như Công đồng Va-ti-can II đã chỉ rõ, ơn gọi của người giáo dân đặt họ ngay vào trong thế giới để thi hành những phận vụ đa dạng nhất, chính tại đây họ được mời gọi truyền bá Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô  (x. Hiến chế “Ánh sáng muôn dân”, 31). 

Do ơn sủng và do tiếng gọi của bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, mọi giáo dân đều là nhà truyền giáo; và địa bàn truyền giáo của họ là cả một thế giới rộng lớn và phức tạp như : chính trị, kinh tế, công nghiệp, giáo dục, truyền thông, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật và thể thao…

Tôi xin gửi lời cám ơn của toàn thể Giáo hội đến họ, và tôi khuyên tất cả các giáo dân hãy nhận lấy vai trò riêng của mình trong đời sống và sứ mạng của Dân Chúa, là làm chứng cho Đức Ki-tô ở bất cứ nơi nào mình có mặt”. (nguồn: Tông Đồ Giáo Dân Thực Hành).

*****
“…Làm chứng cho Đức Ki-tô ở bất cứ nơi nào mình có mặt”. Vâng, không nhất thiết chúng ta phải có mặt ở Phi Châu, ở Trung Đông hay một nơi nào đó trên thế giới, trước nhất và quan trọng nhất, đó chính là trong gia đình chúng ta.
Ai trong chúng ta lại không biết rằng, gia đình là rường cột xã hội, là nền tảng cộng đồng, là chiếc nôi sự sống và là nhà giáo dục đầu tiên. Chính vì thế, hãy để trong tâm hồn ta một câu hỏi, hỏi rằng: “tôi có là một chứng nhân của Đức Giê-su ngay trong gia đình của tôi?”

Nói rõ hơn, tôi có dạy bảo con tôi tuân giữ mọi điều Chúa đã truyền dạy cho tôi? Tôi có dạy bảo con tôi rằng, Chúa đã phán “Được cả thế gian mà mất linh hồn thì nào ích gì?” Trong một xã hội cổ súy chủ nghĩa duy vật vô thần, tôi có dạy bảo con tôi rằng: Chúa Giê-su – Ngài chính là “Đường, là Sự Thật và là Sự Sống?”. Tôi có nói với người bạn trăm năm của tôi rằng, phá thai là vi phạm vào điều răn thứ năm mà Đức Chúa Trời đã truyền dạy? v.v…

Hãy tưởng tượng, nếu chúng ta, gia đình chúng ta cùng dạy bảo nhau “những điều Chúa đã truyền dạy” thì điều gì sẽ xảy ra!? Vâng, chắc chắn rằng, láng giềng chúng ta sẽ thân thiết, anh em chúng ta sẽ hòa thuận và vợ chồng chúng ta sẽ ý hợp tâm đầu. 

Láng giềng thân thiết, anh em hòa thuận, vợ chồng ý hợp tâm đầu - Kinh Thánh nói – “cả ba điều này đều đẹp lòng Đức Chúa và người ta” (Hc 25, 1)

Một khi làm “đẹp lòng Đức Chúa và người ta”, vâng, đó chính là lúc chúng ta thực thi trọn vẹn lệnh truyền của Đức Giê-su năm xưa, rằng “Hãy đi và làm”. Và nếu… nếu chẳng may “hai người đàn ông mặc áo trắng” năm xưa có thấy những gì chúng ta làm, có phần chắc, hai vị này sẽ không nói với chúng ta, rằng: Hỡi các anh “sao còn đứng nhìn trời?”

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...