Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014

Hãy đi làm vườn nho…

Chúa Nhật XXVI – TN – A

Hãy đi làm vườn nho…

“Hứa…”  là gì? Thưa, theo tudien.com, nghĩa là: “Nhận sẽ làm gì tuy có khó khăn”. Còn theo tự điển tiếng Việt phổ thông định nghĩa, thì: hứa, là nói với ai đó, với ý thức tự ràng buộc mình, sẽ làm điều gì đó theo yều cầu mà người đó đang cần.

Hứa...  Vâng, trong cuộc sống giao tế hàng ngày, chúng ta không thể không sử dụng đến lời hứa. Có thể nói rằng, từ lúc bình minh cho tới lúc hoàng hôn, có ai trong chúng ta lại không một lần thốt lên một lời hứa. Ví dụ, trước khi đi làm, hứa chiều nay, sau giờ tan sở sẽ dẫn con đi ăn, đi chơi . Hoặc, hôm nay hứa với bạn hàng sẽ giao hàng đầy đủ và đúng giờ v.v…  . 

Hứa, hay có thể gọi là hứa hẹn, nó có một sức mạnh khủng khiếp. Nó có thể đem đến cho con người niềm vui và hạnh phúc. Tiếc thay, không ít người đã không biết sử dụng lời hứa. Đôi khi, có thể là vô tình và cũng có khi do cố ý, con người đã làm tổn thương nhau chỉ bằng một lời hứa.  

Tại sao lời hứa có thể làm tổn thương nhau? Thưa, bởi vì, lời hứa đó được sử dụng như là một phương cách để  tránh phải đối đầu, để đối phó tình thế, để trốn tránh trách nhiệm, hoặc để làm vui lòng nhau, và trăm ngàn lý do khác nữa.

Chính vì sử dụng những lời hứa hẹn như là những phương cách nêu trên, cho nên, những lời hứa đó đã trở thành “cái bẫy”, một cái bẫy làm tổn thương hơn là đem đến niềm hy vọng, sự tin tưởng. Chính “cái bẫy” đó, nó làm cho lời hứa hẹn trở thành lời “hứa hão, hứa cuội, hứa lèo, hứa hươu, hứa vượn v.v…”

Đối với Đức Giê-su, những kẻ “hứa hão, hứa cuội, hứa lèo, hứa hươu, hứa vượn v.v…”, nói tắt một lời, những kẻ “hứa cho nhiều rồi lại quên”, Ngài mạnh mẽ lên án họ là “kẻ giả hình”, và để mọi người có thể nhận ra chân dung kẻ giả hình, Đức Giê-su đã kể một dụ ngôn, dụ ngôn mang tên “Hai người con”.

Vâng, dụ ngôn đã được thuật lại rằng “Một người kia có hai con trai”. Một hôm, ông ta đến gặp hai người con, kẻ trước người sau,  vào bảo với hai con của ông  rằng : “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho” (x.Mt 21, 28)

Với người con thứ nhất, chuyện kể rằng: “Nó đáp: Con không muốn đâu!”. Rồi khi “Ông đến gặp đứa thứ hai và cũng bảo như vậy”. Nó đáp, rất trịnh trọng, rằng : “Thưa ngài. Con đây!”.
Nếu câu chuyện dừng tại đây, có phần chắc, ai trong chúng ta cũng nhận xét rằng, người con thứ hai, chắc chắn “sẽ đi làm vườn nho”.

Thế nhưng, sự thật thì ngược lại. Người con thứ nhất, không “hứa” nhưng sau đó, “lại đi”.  Tại sao anh ta lại đi? Thưa, là bởi,  khi anh ta  “nghĩ lại” lời nói của mình  với người cha, anh ta “hối hận” (Mt 21, …29). Vâng, anh ta  hối tiếc về lời nói quá phũ phàng với người cha. Cuối cùng, anh ta vâng lời người cha “nên lại đi” làm vườn nho

Còn người còn thứ hai thì sao! Thưa, phải đặt lại tên cho anh ta là “anh ba hứa”. Vâng, cứ tưởng rằng,  với lời nói trịnh trọng “Thưa Ngài”, anh-ba-hứa, một cách nào đó, đã  hứa với người cha của anh ta qua hai tiếng “thưa vâng”. Cứ tưởng rằng, khi anh-ba-hứa nói: “con đây” có nghĩa là cha bảo gì con sẽ tuân lệnh. Hóa ra, “con đây”… con chính là “con ma nhà họ Hứa”, con đến chỉ là để “trình diện” với cha thôi! Chuyện đi làm vườn nho ư! Để con “xem lại”, cuối cùng anh ta “không đi”…

Hôm đó, sau khi cho mọi người biết thái độ của hai người con, Đức Giê-su đã đưa ra một câu hỏi, hỏi rằng “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”

Như một cuộc đố vui có thưởng, không đợi tới ba mươi giây, cũng không cần “quyền trợ giúp”, họ đã trả lời rằng: “Người thứ nhất”.
Người-thứ-nhất, vâng, ngay hôm đó, khép lại dụ ngôn, Đức Giê-su đã cho mọi người biết chân dung của những kẻ được ví là “người con thứ nhất”, họ chính là “những người thu thuế và những cô gái điếm”, họ chính là những người “vào Nước Thiên Chúa trước”. Họ là những người “nói chín làm mười”. Tiêu biểu trong số họ, chính là “cán gộc” ngành thuế tên là  Dakêu, một con người đã dám đem “phân nửa tài sản … cho người nghèo, và sẽ đền gấp bốn” cho những ai đã bị ông ta chiếm đoạt tài sản.

 Da-kêu đã “phản tỉnh”.  Ông ta đã “hối hận” như người con thứ nhất trong dụ ngôn đã hối hận. Nói cách khác, ông ta đã vâng nghe lời mời gọi “hãy đi làm vườn nho”, ông ta “hứa là làm”.

Qua tấm gương Da-kêu, chúng ta có thể hiểu tại sao Đức Giêsu gọi “những người thu thuế và những cô gái điếm …” là những người đã “tin” vào con đường  “công chính”.

Còn người con thứ hai! Vâng, họ chính là những ngài biệt phái và kinh sư, những “quan lớn” thượng tế và kỳ mục. Vâng, họ tự hào là những nhà lãnh đạo tôn giáo, họ chính là “dân riêng”, là đội quân ưu tú của Đức Chúa Trời, thừa sự nhiệt thành và sự tận hiến. Họ “không như bao kẻ khác : trộm cắp, bất chính, ngoại tình hoặc như (những) tên thu thuế…”(Lc 18,11).

Thế nhưng! Thật đáng tiếc, khi Thiên Chúa phán, qua miệng lưỡi Gioan Tẩy giả, rằng : “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết… Ngài chính là Chiên Thiên Chúa… Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1, 26, 29). Họ nghe và hiểu nhưng “vẫn không chịu hối hận mà tin” (Mt 21, …32).

Thưa bạn, bạn có Kinh Thánh không? Nếu có, chúng ta hãy mở ra, (Mt 21, 28-32), hãy chậm trải mà đọc, đọc và tự hỏi: “Tôi là ai? Là nhân vật nào trong dụ ngôn hai-người-con?“ 

Chúng ta sẵn sàng “đi làm vườn nho”? Hay chúng ta là một bản sao của người con thứ hai, đáp lời mời gọi “Thưa Chúa, con đây… Con là Hồng, là Huệ, là Ngoan, là Hiền v.v… nhưng rồi lại không đi?”

Thật ra, đã là một Ki-tô hữu, đương nhiên, chúng ta đang là một người thợ trong “vườn nho Giáo Hội”.

Thế nên, câu hỏi mà chúng ta tự hỏi sẽ không còn là “tôi là ai, là nhân vật nào trong dụ ngôn”! Câu hỏi của chúng ta sẽ  lệ thuộc vào vai trò của chúng ta trong vườn nho ấy.

Ví dụ, vai trò của tôi trong vườn nho là một người chồng, hoặc một người vợ, tôi và em đã “quỳ bên nhau trước Đấng Tối Cao. ‘Hứa’ yêu nhau trao câu thề chung sống trọn đời”. Thế nhưng, có những lúc “đời buồn vui”, có những khi gặp “sương mù và giá lạnh”… tôi hoặc em, có vì thế mà cất tiếng ca, ca rằng “thôi là hết anh đi đường anh, tình duyên mình chỉ bấy nhiêu thôi”?

Còn rất nhiều ví dụ. Ví dụ vai trò của tôi trong vườn nho là một tu sĩ, là một linh mục… Thế nhưng, có những lúc “đời buồn vui”, có những khi gặp “sương mù và giá lạnh”… tôi có muốn rút lại lời thề hứa, hứa “tự ý không kết hôm vì Nước Trời”?

Đưa ra những ví dụ nêu trên, không phải là để chúng ta “lo sợ”, nhưng là để chúng ta “cảnh giác” và tự hỏi rằng: làm thế nào để tôi  vững vàng đi vào vườn nho trong vai trò của mình.

Về nan đề này, Lm. Jude Siciliano, OP có lời khuyên, rằng: “Người con thứ nhất có hoàn thành bổn phận mà cha nó yêu cầu hay không? Dụ ngôn hôm nay thật lạ vì nó không cho ta biết điều đó. 
Điều Đức Giêsu muốn nói không phải là mức thành công mỹ mãn cho bằng nhắm đến sự sẵn lòng đáp lại lời mời gọi phục vụ. Có lẽ ước muốn phục vụ của chúng ta là những gì Thiên Chúa mong chờ và chính ước muốn đó và những cố gắng của chúng ta tạo ra một khoảng trống cho Thiên Chúa bước vào và khỏa lấp mọi thiếu hụt”.

Vâng, vấn đề là “sự sẵn lòng” của ta,  là “ước muốn” của ta, là “một khoảng trống cho Thiên Chúa bước vào và khỏa lấp mọi thiếu hụt”, mọi lo lắng của ta.

Thánh Phao-lô, trong thư gửi tín hữu Phi-lip-phê có thêm lời khuyên, ngài khuyên rằng: “Hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su”. Tâm tình đó chính là “sự phó thác – Lạy Cha, con xin phó thác”

“Lạy Cha, con xin phó thác”, Vâng, một lời cầu nguyện “liên kết với Đức Ki-tô”, một sự liên kết đủ giúp chúng ta vững tin đáp lời mời gọi, lời mời gọi của Chúa, rằng “con hãy đi làm vườn nho”.

Petrus. tran



Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2014

Đừng ganh tị nhau.

Chúa Nhật XXV – TN – A

“Đã yêu mến nhau, đừng gieo cay đắng cho nhau…”

Đừng  ganh tị nhau.

Vào lúc 20 giờ ngày 29/7/2014, một vụ án mạng đã xảy ra tại khu phố 8, P.Long Phước, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước. Nạn nhân tên là Dương Quốc Lịch. Thủ phạm tên là Phạm Văn Anh.

Phạm Văn Anh và Dương Quốc Lịch là hai người bạn đồng hương, cùng làm công nhân tại xưởng chế biến hạt điều Sơn Loan, thuộc khu phố 8, phường Long Phước, thị xã Phước Long. Thời gian gần đây, cả hai có sự mâu thuẫn với nhau. Văn Anh thường xuyên tỏ ý ganh tị vì thấy  Quốc Lịch được chủ xưởng quan tâm hơn.

Theo lời nhân chứng là chị Đỗ Thị Loan, chủ xưởng, thì, vài ngày trước khi xảy ra án mạng, Văn Anh viện lý do Quốc Lịch nhác làm, thường nằm ngủ một góc khuất trong xưởng để tránh camera chủ xưởng cài đặt theo dõi công nhân làm việc, nên đã to tiếng với Lịch. Bực tức vì Văn Anh mới chính là người lười biếng nên Quốc Lịch liền cãi lại.

Khoảng 20 giờ ngày 29/7, hai bên lời qua tiếng lại với nhau, được một hồi, Văn Anh bất ngờ dùng tay đấm vào mặt Quốc Lịch. Anh Lịch né được cú đấm rồi dùng chân đạp thẳng vào bụng Văn Anh.

Được mọi người hết lời khuyên can nên cả hai đều có vẻ nguôi cơn nóng giận. Sau đó, anh Lịch vẫn ở lại trong xưởng trò chuyện với mọi người, còn Văn Anh bỏ về phòng trọ. Do bị dính cú đạp vào người nên Văn Anh vô cùng cay cú.

Về đến phòng trọ, càng nghĩ cơn giận càng bùng lên, Văn Anh liền lấy con dao Thái Lan quay trở lại tìm anh Lịch “tính sổ”. Vừa trông thấy anh Lịch, Văn Anh đã cầm dao xông tới. Do không lường trước được sự việc nên Lịch lĩnh trọn nhát dao vào người, đổ gục xuống.

Anh Lịch được mọi người đưa đến bệnh viện đa khoa thị xã Phước Long cấp cứu. Tuy nhiên, do vết thương quá nặng, nạn nhân đã tử vong ngay sau đó. Sau khi gây án, Văn Anh bỏ trốn, nhưng đến trưa ngày hôm sau, thủ phạm đã đến công an phường Long Phước đầu thú. (nguồn; internet)

Ganh tị… Vâng, chỉ vì lòng ganh tị nhỏ nhặt thường ngày, nó đã gây hậu quả hết sức đau lòng, như sự việc trên đây.

William Shakespeare, một nhà viết kịch và cũng là nhà thơ, qua vở  bi kịch Othello, có bảo rằng: lòng ganh tị giống như “con quái vật mắt xanh.”
Nói tới con-quái-vật-mắt-xanh, có thể nói, nó đã xuất hiện ngay từ tạo thiên lập địa. Câu chuyện Ca-in và A-ben là ví dụ điển hình. Chuyện kể rằng: Ca-in tức giận khi Đức Chúa Trời  chấp nhận lễ vật của A-ben, nhưng lại không chấp nhận lễ vật của ông. Ca-in có thể khắc phục hoàn cảnh này, thế nhưng, chỉ vì  sự ghen tị trong lòng ông quá lớn; lớn đến nỗi ông không thể kiềm chế, để rồi ông lừa A-ben ra đồng vắng và đã giết em mình (St 4, 4-8).

Không lạ gì khi Kinh Thánh gọi Ca-in “là người thuộc về Ác Thần”, tức là Sa-tan! (x. 1Ga 3, 12).

Trong  “Tam quốc chí diễn nghĩa”, tướng nhà Ngô là Chu Du,  vì ghen tị thừa tướng Gia Cát Lượng của nhà Thục tài trí hơn mình, ông ta đã bao lần tìm cách hãm hại, nhưng không được, cuối cùng vì uất hận, ông ta  hộc máu mồm mà chết. Câu chuyện đó cũng chính là một điển hình về lòng ganh ghét, đố kỵ.
Nói tới ganh tị, có phần chắc, ai trong chúng ta lại không hơn một lần ganh tị với người khác! Đối với các môn đệ của Đức Giê-su xưa, cũng không là ngoại lệ.

**

Thật vậy, trong ba năm theo Thầy Giêsu, các ông cũng không ít lần nổi cơn ganh tị. Các ông không chỉ ganh tị với những người không cùng nhóm mình, mà còn ganh tị với chính cả những người đồng môn.

Chuyện kể rằng, một ngày nọ, cũng vì mang tâm trạng “con gà tức nhau bởi tiếng gáy” nên ông Gioan, người môn đệ yêu quý của Đức Giê-su, bất bình và đến thưa với Ngài rằng: “có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ”, chưa hết, người môn đệ này còn khoe chiến tích của mình rằng “Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta” (Lc 9, 49)

Rồi một hôm khác, chỉ vì “hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gioan” xin Đức Giêsu cho “một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” nên đã khơi dậy lòng ganh tị của mười môn đệ kia, để rồi dẫn đến tình trạng giữa các ông “đâm ra tức tối” với nhau. (Mc 10,37 …41).  Mang tâm trạng tức tối, rất có thể, vì thế, các ông quên rằng, Kinh Thánh có chép “lòng ganh tị tựa chứng bệnh mục xương” (Cn 14, 30).

Để tâm hồn các môn đệ không bị “mục rỗng” do lòng ganh tị gây ra, Đức Giê-su đã kể một dụ ngôn. Dụ ngôn mang tên “Thợ làm vườn nho”.(x. Mt 20. 1-16)

Dụ ngôn được kể rằng : “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình” (Mt 20, 1).
Có rất nhiều toán thợ được thuê vào vườn nho làm việc theo từng khoảng thời gian nhất định trong ngày. Về tiền công thợ, mọi người đều được ông chủ thỏa thuận “hợp lẽ công bằng”. 

Rồi khi chiều đến, lúc thanh toán tiền công, có một số thợ “cằn nhằn gia chủ”. Tại sao họ cằn nhằn gia chủ? Thưa, vì cách thức chi trả tiền công của gia chủ.

Đúng vậy, với những người “mới vào làm lúc giờ mười một”, chuyện kể rằng, họ “lãnh được mỗi người một quan tiền”. Còn với  “những người vào làm trước nhất… cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền”.

Chính vì thế, họ ganh tị và cằn nhằn gia chủ rằng, “mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20, 12).

Cứ tưởng rằng, lời ta thán của họ, gia chủ sẽ tăng thêm tiền công. Thế nhưng, đó là lời ta thán phi lý, cho nên, đáp lời ta thán, gia chủ đã nói với họ rằng, “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền hay sao?”

Đúng như Tây phương người ta thường nói “Ghen tị với người khác nuốt chửng chúng ta”, hôm đó, lương tri của nhóm thợ phản đối ông chủ đã bị sự ganh tị nuốt  chửng. Họ không còn nhìn thấy lòng quảng đại của ông chủ, người “có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của mình”.

Khép lại dụ ngôn “người thợ làm vườn nho”, Đức Giê-su phán rằng, “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”.

Nói lên phán quyết này, Đức Giê-su muốn gửi đến mọi người một thông điệp, thông điệp rằng: lòng ganh tị không có chỗ đứng trong “Vườn Nho Nước Trời”, và rằng: “Ông Chủ Vườn Nho”, Người quảng đại và là Đấng “xót thương hết mọi người”(Kn 11, 22).
***

Lòng ganh tị không có chỗ đứng trong “Vườn Nho Nước Trời”, và rằng: “Ông Chủ Vườn Nho”, Người quảng đại và là Đấng “xót thương hết mọi người”.
Là một Ki-tô hữu, một cách nào đó, chúng ta chính là những người được “sai vào vườn nho làm việc”, và dù là kẻ vào làm “khoảng giờ thứ ba” hay “khoảng giờ thứ sáu” hoặc “giờ thứ chin… thứ mười một”, thì, chúng ta đều “thuộc về ông chủ Vườn Nho là Đức Ki-tô Giê-su”. "Thuộc về Đức Ki-tô Giê-su", thánh Phao-lô có lời khuyên rằng: “Đừng ganh tị nhau”.

Đừng ganh tị với nhau ư! Vâng, sẽ không ít người trong chúng ta bị dằn vặt về điều này. Chúng ta thừa biết ganh tị là một con quái vật, và tất nhiên không ai trong chúng ta muốn con quái vật đó ngự trị trong lòng chúng ta.

Biết ganh tị là một tính xấu, không một ai hoan nghênh, thế nên, khi ganh tị ngự trị trong ta, chúng ta tìm cách che dấu. Và khi nó nổi lên, chúng ta thường lấp liếm bằng đủ mọi hình thức, bằng cả một “rổ” danh từ…

Chính vì thế, lòng ganh tị luôn tồn tại trong ta, sự nguy hiểm của nó chẳng khác nào như một quả bom  hẹn giờ, chỉ chờ tới đúng giờ sẽ phát nổ.
“Lòng ganh tị”, nói cách khác “Ghen tương và đố kỵ”, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nói,  “nónhư những cánh cửa mà qua đó ma quỷ xâm nhập vào thế giới”. Ngài nói tiếp rằng: Chính Kinh Thánh đã khẳng định như thế: “qua những đố kỵ của ma quỷ mà cái ác đã nhập vào thế giới”.

“Cái ác đã nhập vào thế giới ư!” Đúng vậy, nó đã len lỏi vào khắp mọi nơi, trong gia đình, nơi  học đường và thậm chí, ngay cả trong giáo đường…

Chúng ta phải làm gì trước thực trạng này? Phải chăng là, mỗi chúng ta hãy "…Xem xét việc làm của chính mình, và bây giờ sẽ có lý do hãnh diện vì chính mình, chứ không phải vì so sánh với người khác...”? (x.Gl 6, 4)  

Thưa, đúng vậy. Chính những lúc “không phải vì so sánh với người khác”,  chính lúc đó, đức mến, một nhân đức được Đức Giê-su cho là “cao trọng”, sẽ nảy nở trong tâm hồn ta. Nói cách khác, để triệt tiêu sự ghen tương và đố kỵ, sức mạnh của  bạo lực không phải là một phương pháp tối ưu. “Đức Mến - Tình Yêu Thương” mới chính là vũ khí tuyệt hảo nhất để tiêu diệt chúng.

Thưa bạn, bạn đang là một người thợ trong “Vườn Nho Giáo Hội”? Nếu bạn đang là… hãy tự hỏi lòng mình, “đức mến” có đang nảy nở trong tâm hồn tôi không?

Nếu có, thì, người thợ của "Vườn Nho Nước Trời" cần phải  “Đừng ganh tị nhau”.(Gl 5, 26)

Petrus.tran

Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2014

Thánh Giá: Sức Mạnh Của Thiên Chúa.

Chúa Nhật XXIV – TN – A (Suy Tôn Thánh Giá)

Thánh Giá: Sức Mạnh Của Thiên Chúa.

Theo tây lịch, hôm nay là Chúa Nhật 14/09/2014. Đối với một số người, hôm nay là ngày nghỉ cuối tuần như bao ngày nghỉ cuối tuần khác. Một số người khác, họ coi ngày này như một ngày để giải trí hay đi mua sắm. Với các bạn trẻ, đó là một ngày  của gặp gỡ, của hẹn hò.
Thế nhưng, đối với người Công Giáo, Chúa Nhật không chỉ là ngày để nghỉ ngơi, để mua sắm, để hẹn hò, nó còn là ngày đến nhà thờ để thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa. Riêng Chúa Nhật hôm nay (14/09), đó là một ngày đặc biệt, ngày toàn thể Giáo Hội  “tôn vinh Thánh Giá” – Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô.

Thánh Giá là gì? Lý do gì Giáo Hội Công Giáo lại tôn vinh Thánh Giá?

Thưa, Thánh Giá chính là cây thập giá, một dụng cụ thời xưa, dùng để xử tử những tử tội. Lịch sử đã ghi lại rằng: Roma xưa đã dùng hình phạt này cho những kẻ phạm tội như: trộm cướp, giết người hoặc phản loạn.  Những phạm nhân là người nô lệ, là  những dân tộc dưới ách thống trị của họ, thì bị xử bằng hình phạt này, còn công dân Roma thì không..

Thường thì, phạm nhân bị đánh đòn, phải vác thập giá tới nơi hành hình và cuối cùng bị đóng đinh cả tay và chân vào thập giá. Sau đó thập giá được dựng đứng lên. Người tử tội bị treo như thế cho đến chết.

Nói về hình phạt này, Cicéron, một nhà hùng biện Roma xưa đã phải thốt lên rằng: “crudelissimum et teterrimum supplicium -  cực hình, ghê rợn và độc ác”.

Đức Giê-su Ki-tô, người mà hôm nay chúng ta tôn thờ, Ngài cũng đã bị đóng đinh vào thập giá dưới thời Phong-xi-ô Phi-la-tô. Thế nhưng, cái chết trên thập giá của Đức Giê-su không phải là một cái chết bình thường của một tên tử tội, cái chết của Ngài là “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”. Và đó chính là lý do, vì sao hôm nay chúng ta “tôn vinh Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô”.

**
Vâng, kể từ khi nguyên tổ Adam và Eva phạm tội bất tuân, con người mất hết ơn lành. Con người bị trục xuất ra khỏi vườn Eden,  điều tệ hơn hết, con người đã phải nhận lãnh án phạt nặng nề, đó là sự chết.

Thế nhưng, như lời Kinh Thánh có chép: “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu: Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 102, 8-10). Sự từ bi và nhân hậu đó đã được Thiên Chúa bày tỏ nhiều lần nhiều cách. Thuở xa xưa là qua các ngôn sứ, nhưng vào thời kỳ sau hết là qua chính Thánh Tử, Con Một  của Người, là Đức Giê-su.

Hơn hai ngàn năm xa trước đó, Đức Giê-su “Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”.

Khi còn tại thế, trong một lần đàm luận với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do Thái, Đức Giê-su đã công bố rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. (Ga 3, 16)

Và để cho con người thấy rõ tình yêu của Thiên Chúa, Đức Giê-su đã nhấn mạnh rằng: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3, 17)

“Được cứu độ”. Vâng, ít nhất, vào thời điểm đó, đó là điều toàn dân Israel mong đợi.  Họ mong đợi một Đấng cứu thế đến để giải thoát họ khỏi ách thống trị của Roma. Họ mong đợi Đấng cứu thế, nếu đúng là Ngài, hãy lập ngay một quốc gia Do Thái với tất cả sức mạnh nơi quyền năng của Ngài..

Thế nhưng, với Đức Giê-su, đó không phải là lý do để Ngài đến thế gian này. Không dưới một lần, Ngài đã nói với các môn đệ của mình rằng: “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (x. Mt 16, 21)

Đấng Cứu Thế sẽ bị giết chết. Đó là lý do Đức Giê-su có mặt ở Giê-ru-sa-lem. Cái chết của Đức Giê-su, một cái chết treo trên thập giá, đã được kể lại, rằng, Ngài bị bắt, bị làm nhục, bị nhạo báng, bị đánh đập, và sau cùng, người ta làm một cây thập giá, bắt Ngài vác, từ dinh quan tổng trấn cho tới đồi Golgotha, tại đó, người ta đóng đinh Ngài trên cây thập giá. (x.Mc 15, 16).

Cách chết trên thập giá của Đức Giê-su, đã được Ngài mô tả  với ông Ni-cô-đê-mô, rằng: “Như ông Mô-se đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15).

Đối với người Do Thái, câu chuyện “giương cao con rắn trong sa mạc” là câu chuyện họ thuộc nằm lòng, một trải nghiệm sống của cha ông, tổ tiên của họ.

Còn chuyện “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”, đối với người Do Thái thời đó là chuyện hoang đường.

Vâng, nếu là chuyện hoang đường thì hôm nay, chúng ta sẽ không có chuyện tôn vinh Thánh Giá.

Sự thật thì, hôm đó, hôm Đức Giê-su  “phải được giương cao”, một hiện tượng kỳ diệu đã xảy ra “Bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ. Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy”. (x. Mt 27, 51-52).

Riêng tại hiện trường, nơi Đức Giê-su bị hành hình, “viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói: ‘Quả thật ông này là Con Thiên Chúa’…”

Vâng, những gì Đức Giê-su đã nói với ông Ni-cô-đê-mô và những gì đã xảy ra tại Golgotha, đó chính là những dấu chỉ cho chúng ta thấy rằng, thập giá hành hình Đức Giê-su đã trở nên “Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô” một Thánh Giá Cứu Độ, một Thánh Giá mà hôm nay  chúng ta long trọng “Kính nhớ và Tôn Vinh”.

***
Nói về “Tôn Vinh Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô”, thật ra, không phải bây giờ Giáo Hội mới tôn vinh.

Ngay những ngày đầu khai sinh Giáo Hội,  niên trưởng Phê-rô, với ơn Thánh Thần Chúa, ngài đã có những lời hùng hồn tôn vinh Thánh Giá Chúa Ki-tô, rằng: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết”. (Cv 2, 23-24)

Rồi đến tông đồ Phao-lô, một trí thức Do Thái, một công dân Roma, thế mà ngài chẳng hãnh diện về điều đó, “ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô” (x. Gl 6, 14). Trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô đã có lời xác tín rằng: “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa” (1Cor 1, 18)

Đúng. Nếu không là “Sức Mạnh Của Thiên Chúa” thì, kể từ ngày đầu tiên, ngày tông đồ Phê-rô lớn tiếng tôn vinh Thánh Giá Chúa Ki-tô, rằng: “Toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô”, cho tới hôm nay, Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô sẽ không thể tồn tại, trước nhiều ngàn năm bị bắt bớ và hủy diệt.

****
Là một Ki-tô hữu, có phần chắc, không ai trong chúng ta lại không biết đến  “Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô”. Tuy nhiên, “biết” chưa đủ. Tại sao? Thưa, bởi, Sa-tan và bè lũ của chúng, cũng biết. Chúng thừa “biết” rằng Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô là Thánh Giá Cứu Độ, thế nhưng, chúng nó đâu có “mến” và đâu có “yêu”. Ngược lại, “biết” ở đâu có Thánh Giá Chúa Giê-su, bọn chúng liền đem giáo mác, búa liềm đến triệt hạ, không chỉ triệt hạ Thánh Giá mà “triệt” luôn cả người yêu mến Thánh Giá, ngay lập tức…

Vâng, về điều này, Lm Giuse Đinh lập Liễm, trong một bài giảng cho quý nữ tu dòng Mến Thánh Giá, nhân ngày “Lễ kính Thánh Giá Chúa Ki-tô”, đã chia sẻ rằng: “…Phải yêu nữa. Vì nếu chỉ mến thôi, người ta còn ở xa, ‘kính nhi viễn chi’, người ta suy phục nhưng có thể chưa hy sinh cho người mình mến. Nhưng nếu yêu ai thì tình yêu ấy có thể thúc đẩy nguời ta hy sinh cho người mình yêu: ”Không có tình yêu nào cao trọng cho bằng chết vì người mình yêu”.

Rất dí dỏm, hôm đó. Lm Liễm giảng rằng: “Dòng Mến Thánh Giá!  Dòng mang tên thật đẹp mà nếu trong đời sống hằng ngày mà không thực yêu thánh giá thì phải gọi là “DÒNG KHIẾP THÁNH GIÁ”, hay còn tệ hơn nữa là “DÒNG GHÉT THÁNH GIÁ”. (hết trích)

Phải “Yêu” nữa chứ! Thế nhưng, “yêu” Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô, phải chăng là “phải chết” như Chúa Giê-su đã chết trên Thập giá năm xưa?

Thưa, vào một thời điểm nào đó, có thể, một ai đó, vì đức tin, cũng phải chấp nhận điều này. Ví dụ: như các thánh tử đạo Việt Nam, như những người anh em Ki-tô hữu Irak đang bị tàn sát bởi nhóm “ISIS” cực đoan, chỉ vì họ “yêu” Thánh Giá Chúa Ki-tô và nhất định không từ bỏ Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô.

Nhắc tới thảm cảnh này, chúng ta hãy dành một phút cầu nguyện cho họ. Vâng, hãy cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa chúng con, vì dấu Thánh Giá, xin cứu những người anh em Irak, cho khỏi kẻ thù. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Amen”

Vâng, “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”, đó là cách “bày tỏ” yêu mến Thánh Giá Chúa Giê-su được hầu hết mọi người Công Giáo chúng ta thực hiện hằng ngày.

Tuy nhiên, đừng yêu mến và đừng bày tỏ chỉ ngoài môi miệng, nhưng phải là với tất cả tâm tình chiêm ngắm, suy niệm Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô.

Chiêm ngắm và suy niệm điều gì? Thưa, là những điều Chúa Giê-su đã trải nghiệm, đã nói, đã nguyện cầu… trên Thập giá năm xưa.

Về điều này, những nhà nghiên cứu Kinh Thánh đã tổng hợp được bảy điều Đức Giê-su đã nói và đã cầu nguyện trên thập giá. Người ta gọi những lời này là “Bảy di ngôn trên Thánh Giá”.

Là người Công Giáo, làm dấu Thánh Giá mỗi ngày, chúng ta có suy niệm, nói cách khác, chúng ta nghĩ gì về “Bảy di ngôn trên Thánh Giá” mà Chúa Giê-su đã nói trên thập giá năm xưa?

Chúng ta nghĩ gì khi Chúa nói "Tôi khát”?

Vâng, với di ngôn này, Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An chia sẻ rằng, Đây là lời ngắn nhất trong bảy Di Ngôn, chỉ vỏn vẹn một tiếng, Ta khát. Tận đáy tâm hồn Chúa chỉ bật ra một nỗi thao thức: Ta Khát” .

“…Hiện tượng khát nước là sự kiện bình thường của một người tử tội bị đóng đinh trên thập giá, do việc người đó mất quá nhiều máu trong người. Nhưng ở đây, chắc chắn tông đồ Gioan không có ý nói tới điều đó mà nói đến nghĩa thiêng liêng.

Trong Phúc âm Gioan, từ ngữ ‘khát’ thường chỉ nguyện vọng sâu xa của con người ‘khát mong’ những hồng ân của Thiên Chúa. Chữ ‘khát’ hàm một ý nghĩa tâm linh, như  ‘Ai uống nước Ta ban thì đời đời sẽ không còn khát nữa, nước Ta ban sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời’ (Ga 4,13); hoặc ‘Ai đến với Ta sẽ không hề đói,và kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ’ (Ga 6,35);  hay ‘Ai khát hãy đến với Ta, ai tin vào ta hãy đến mà uống! Như kinh thánh đã nói: Tự lòng Ngài sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống’(Ga 7,37)”

Lm Nguyễn Hữu An kết luận: “…Như thế Di Ngôn ‘Ta Khát’ chính là nguyện vọng sâu thẳm của Chúa muốn mọi người lãnh nhận ơn cứu độ mà cuộc khổ nạn Ngài đem đến cho thế gian”.

*****
Vâng, sau khi đọc xong những dòng chia sẻ nêu trên, chúng ta có “khát” không? Dĩ nhiên, nếu là “khát nước’’ hãy bước đến tủ lạnh và lấy một chai nước mà uống.

Còn nếu chúng ta “khát” những gì liên quan đến phần “thuộc linh” hãy mở Kinh Thánh ra và hãy đọc lại “Tám mối phúc thật”, một sứ điệp đã được Đức Giê-su “chúc phúc”, tất nhiên, không chỉ đọc mà còn phải thể hiện nơi cuộc sống đức tin của mình, thì mới được là “có phúc”, và mới có thể thỏa lòng cơn “khát thuộc linh” của mình.

Giờ đây, chúng ta hãy trở lại bảy lời di ngôn của Đức Giê-su. (*) Hãy đọc, hãy suy niệm… từng lời... từng lời… Và nếu… nếu chúng ta xem đó như là hành trang và thực hiện nó trong cuộc sống đức tin của mình, hãy tin, “sức mạnh của Thiên Chúa” sẽ ngự trị trong chúng ta. Cuối cùng, đó chính là cách tốt nhất cho việc “Tôn Vinh Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô”.

Nói cách khác, nếu có “Tôn Vinh Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô”, hãy tôn vinh bằng cách suy niệm và thực thi những lời di ngôn của Ngài. Bởi vì, những lời di ngôn của Ngài chính là “Sức Mạnh Của Thiên Chúa”.

Petrus.tran
********
(*) Tìm đọc trong bốn sách Phúc Âm.

Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2014

Xin đặt con làm người canh gác.

Xin đặt con làm người canh gác.


Người xưa có câu: “nhân vô thập toàn”. Đúng vậy, con người với bản chất mỏng dòn và yếu đuối, suốt một đời người có ai mà không hơn một lần sai lầm, vấp ngã.


Khi nói tới sai lầm và vấp ngã, văn hào Pháp La Fontaine cũng thừa nhận rằng: “Ai cũng có những sai lầm mình luôn lặp lại…”, và  ông ta nhấn mạnh thêm rằng: “…sợ hãi hay xấu hổ đều không chữa khỏi chúng”.

Chính vì sợ hãi hay xấu hổ, cho nên, rất ít người đủ can đảm để thừa nhận sai lầm của chính mình. Đứng trước vấn nạn này, nhiều nhà hiền triết, nhiều bậc vĩ nhân đã đưa ra những lời khuyên, những lời khuyên để con người vươn lên, không còn sợ hãi hay xấu hổ trước những sai phạm, trước những khiếm khuyết mà mình đã vấp phạm, hầu có thể vươn tới một cuộc sống hoàn thiện. Những lời khuyên đó, tựu trung, khuyên con người phải  “biết nhận lỗi”, phải biết “thừa nhận sai lầm”


Với Đức Giê-su, để có thể sửa chữa sai lầm, sữa chữa những vấp ngã, Ngài không chỉ đưa ra những lời khuyên, mà còn đề ra những “nguyên tắc sống”, có thể gọi đó là những “nguyên tắc vàng”, trong việc đối nhân xử thế.


Nguyên tắc Đức Giê-su đã đề ra, đó là, con người  không chỉ cần tự “biết nhận lỗi và biết thừa nhận sai lầm” mà còn cần phải biết “sửa lỗi lầm cho nhau”.


Saint J.Chrysistome có nói: “Con ong được ca tụng vì nó làm việc không phải cho chính mình nhưng cho tất cả”.  “Sửa lỗi lầm cho nhau” cũng vậy, cũng “không phải cho chính mình” nhưng là, làm công việc của một “người canh gác”, người canh gác cảnh cáo những ai đang vấp ngã, hãy “từ bỏ con đường xấu xa… từ bỏ con đường của nó mà trở lại” (x. Ed 33, 7-9)  

**

Vâng, Đức Giê-su, trong một dịp tâm tình riêng tư với các môn đệ, Ngài có dạy rằng: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi” (x.Mt 18, 15)


Tại sao chỉ là “một mình anh với nó?”. Thưa, về điều này, Lm Giuse Nguyễn Hữu An chia sẻ rằng: “Một mình với anh em là rất kín đáo. Sửa lỗi cá nhân, tôn trọng và giữ thể diện, biểu lộ sự tin tưởng giữa hai người không để người thứ ba đựoc biết. Đây là cuộc nói chuyện riêng tư, không phải hạ nhục người có lỗi nhưng là giúp người ấy nhận ra lỗi lầm của mình. Phải nói sự thật, nhưng có những sự thật không nên nói hết.”


Tuyệt! Quả là một lời giải thích rất giá trị. Thế nhưng, khi đã ở trong tình trạng “một mình anh với nó”, thì anh sẽ nói gì với nó? Phải chăng, anh sẽ nói với nó bằng những lời chỉ trích đắng chát? Hay anh sẽ theo lời khuyên của  Dale Carnegie, tác giả  cuốn Đắc Nhân Tâm, một cuốn sách thuộc hàng bán chạy nhất và được biết đến nhiều nhất cho đến tận ngày nay, rằng, hãy “dùng cách đặt câu hỏi để khuyên bảo người ta”?


Với lời chia sẻ và lời khuyên của nhị vị được nêu trên, theo Bạn, có bao nhiêu phần trăm “người anh em của anh trót phạm tội”, sẽ hối cải nhận lỗi?


Thưa, câu chuyện được kể sau đây sẽ là câu trả lời. Nhưng, trước hết, chúng ta đừng quên ba chữ được Đức Giê-su nêu lên trong trường hợp này, đó là: “trót phạm tội”. Trót khác với cố ý. “Trót” có tỷ lệ hối cải nhiều hơn là “cố ý”.


Vâng, câu chuyện xảy ra “vào một buổi chiều”. Chiều hôm đó, “Vua Đa-vít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc tuyệt vời” (x. 2Sm 11, 2).


Chỉ là một sự tình cờ, không chủ định. Nhưng chính sự tình cờ đó đã làm đảo lộn con người vua Đa-vít, người được mệnh danh là “người công chính”, chỉ một cái nhìn, ông ta trở thành con người “bất chính”.


Chuyện kể tiếp rằng: “Vua Đa-vít sai người đi điều tra về người đàn bà, và người ta nói: đó chính là bà Bát Se-va, con gái ông Ê-li-am, vợ ông U-ri-gia người Khết”. Mặc cho người đàn bà đã có chồng, vua Đa-vít vẫn không buông tha. Rồi chuyện gì đến cũng đã đến. “Vua Đa-vít sai lính đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng”. Và kết quả là: “Nàng thụ thai”…


Vâng, kể từ khi để cho “hồn lỡ sa vào đôi mắt em”, vua Đa-vít ngày càng “sa lầy” vào vòng vây của tội lụy. Cao điểm của hành vi tội lụy, đó là, nhà vua đã gián tiếp gây ra cái chết của ông U-ri-gia – chồng nàng Bát Se-va.


Mọi hành vi của Đa-vít không qua khỏi đôi mắt của ngôn sứ Na-than. Ngôn sứ Na-than đã “một mình” đến “sửa lỗi” vua Đa-vít. Ngôn sứ Na-than đã có một “cuộc nói chuyện riêng tư, không hạ nhục người có lỗi nhưng là giúp người ấy nhận ra lỗi lầm của mình”.


Vâng, bằng phương pháp “dùng cách đặt câu hỏi để khuyên bảo người ta”, ngôn sứ Na-than đã thành công trong việc “chinh phục được người anh em”.


Hôm đó, vua Đa-vít, sau khi nghe Na-than kể một câu chuyện ví von đầy bi ai, ông ta đã thốt lên rằng: “Tôi đã đắc tội với ĐỨC CHÚA”. (x. 2Sm 12, 1-13).


***

Giả sử nếu vua Đa-vít không nghe lời sửa lỗi của “một mình” ngôn sứ Na-than thì sao? Rất may là đã không có sự “giả sử” đó.


Nhưng, nếu điều đó xảy ra đối với chúng ta hôm nay! “Nếu nó không chịu nghe”? Thưa, Đức Giê-su dạy: “Nếu nó không chịu nghe, thì đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba nhân chứng” (x Mt 18, 16).


Vâng, “Đây không phải là gây áp lực”; Lm Nguyễn-Hữu-An chia  sẻ tiếp rằng: “Sự hiện diện của các chứng nhân bảo đảm cho tính khách quan và cộng đoàn. Luật Môsê dạy: ‘Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào, phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét’ (Đnl 19,15). Tuy nhiên, chỉ thị của Chúa Giêsu nói đây không phải là nhân chứng buộc tội nhưng là những người trợ lực có uy tín để giúp tội nhân dễ dàng sữa lỗi. Cần kiên nhẫn đối vơi người cố chấp”.


“Đem theo một hay hai người nữa” thì đã sao! Bởi, với tâm tình sửa lỗi nhau trong tình yêu thương, thì đó cũng là cách, như lời tông đồ Phao-lô nói, cách thể hiện tinh thần “tương thân tương ái” (x. Rm 13, 8).


Trở lại với những nguyên-tắc-vàng của Đức Giê-su. Hôm đó, Đức Giê-su còn đưa ra một nguyên tắc nữa, đó là: Nếu một hay hai người đến “sửa lỗi” với tinh thần tương thân tương ái mà người phạm lỗi không nghe, Đức Giê-su dạy rằng: “Hãy đi thưa Hội Thánh”


 “Hãy đi thưa Hội Thánh sao!”. Đúng vậy. Ở một vài thời điểm, một ai đó có thể từng bước, từng bước “trót phạm tội”, những tội vi phạm đến giới luật “một vợ một chồng”, hoặc những tội vi phạm đến giới luật “độc thân” trong đời tu v.v… Thưa ra Hội Thánh, Lm Nguyễn Hữu An nói: “không phải để bị xét xử nhưng để tỏ lòng sám hối và sẽ được ân xá”.


“Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe” thì sao? Thưa, Đức Giê-su nói: “thì hãy kể nó như một người ngoại” (x Mt 18, 17) Thật ra, theo dòng lịch sử của Hội Thánh, thì, với trường hợp này, nếu có thực thi thì cũng chỉ là “giọt nước tràn ly”, là một sự bất khả kháng, mà thôi…


****


Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay (CN XXIII – TN – A) kêu gọi chúng ta ý thức rằng, ta phải có trách nhiệm đối với nhau. Trách nhiệm đó chính là “sửa lỗi cho nhau”. Vẫn biết rằng, sửa lỗi cho nhau, rằng, sửa lỗi một ai đó đang “sa lầy” vào một vũng lầy tội lỗi, không phải là một chuyện dễ dàng.


Thế nhưng, như ngôn sứ Ê-dê-ki-en xưa, được ĐỨC CHÚA đặt “làm người canh gác cho nhà It-ra-en”, thì, hôm nay, cũng vậy đối với chúng ta. Chúng ta cũng được  Thiên Chúa đặt làm người canh gác những “người anh em của chúng ta”, chí ít, là những người cùng mái ấm gia đình của chúng ta.


Mỗi năm, cơ quan NASA của Hoa Kỳ chi hơn 1,8 tỉ dollar để nghiên cứu về trái đất. So với các nghiên cứu về các hành tinh khác, thì đây là một sự chi tiêu kỷ lục. Nhờ sự nghiên cứu này, người ta có thể dự đoán động đất, núi lửa, cháy rừng và bão,  để rồi, nhờ đó, họ có thể đưa ra những lời cảnh báo sớm, hầu con người có thể phòng tránh.


Với chúng ta, cũng vậy, mỗi ngày chúng ta cũng cần tiêu tốn một ít thời gian, chỉ cần một ít thời gian, để tìm xem có “cơn bão” nào đó xuất hiện, cơn bão mang tên “nghiện ngập thuốc lá, nghiện ngập rượu mạnh, nghiện ngập ma túy, nghiện-sex” v.v… đang chuẩn bị tàn phá mảnh đất tâm hồn lẫn thể xác  của con em chúng ta, để mà đưa ra những lời cảnh báo sớm, để mà  phòng tránh, để mà chế ngự nó.


Không thể viện dẫn lý do này khác, chẳng hạn như: “Ồ! Đã có nhà trường lo, đã có nhà thờ lo v.v…” Không thể viện dẫn lý do rằng: nước đổ là khoai, rằng, nó có thèm nghe đâu…


Tại sao nó không thèm nghe? Phải chăng là vì những thú vui của trần gian quá hấp dẫn?


Hay, phải chăng là bởi, cách mà chúng ta  cảnh báo và sửa trị thiếu thuyết phục, nhưng lại đầy thô bạo, đầy độc đoán và thiếu công bằng?


Hãy tự hỏi, mỗi khi cảnh báo hay sửa trị con em mình, chúng ta dùng lời lẽ  “khuyên bảo” hay “chửi bới đánh đập”? Chúng ta có công bằng trong sự khen thưởng hay sửa phạt? Chúng ta có vì giận vợ, giận chồng mà đánh con, “giận cá chém thớt” đánh con để “dằn mặt” hàng xóm? Chúng ta có đem lỗi lầm của con cái rêu rao khắp bàn dân thiên hạ?


Nếu có, thì đó không phải là cách “sửa trị” hay, trái lại nó chỉ làm cho con em chúng ta “tức giận”.


Đừng quên lời khuyên của thánh Phao-lô, ngài khuyên rằng: “Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái tức giận…”


 Hãy nhớ rằng, con cái là “tài sản” của Thiên Chúa, là những người được “tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”. Chính vì thế, cách sửa trị tốt nhất, cách giáo dục tốt nhất, đó là  “hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6, 4).


Chúa Giê-su nói: “Hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngụ trên trời, sẽ ban cho” (Mt 18, 19).


Hôm nay, trong thánh lễ, “hai người trong anh em”, nói rõ hơn, hai vợ chồng bạn hợp lời cầu xin điều gì?  Vâng, có lẽ, không có lời cầu xin nào cần thiết hơn lời cầu xin, “…xin đặt con làm người canh gác”, một người canh gác khôn ngoan, để có thể hướng dẫn, sửa trị, dạy bảo con cái mình nên hoàn thiện.


Vâng, Lạy Chúa, xin đặt con “làm người canh gác”. 
Amen.

Petrus.tran


Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...