Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2014

Mến Chúa - yêu người: đừng tách rời trong hành động của chúng ta.

Chúa Nhật XXX  - TN – A

Mến Chúa - yêu người: đừng tách rời trong hành động của chúng ta.

Thành phố Saigon trong những ngày qua đã hứng chịu nhiều trận mưa rất lớn. Đi tới đâu, bất cứ con đường nào, người ta cũng đều thấy nước và nước, nước tràn ngập khắp mọi nơi. Hậu quả là nhiều đường phố cũng như nhà của cư dân biến thành những con sông, những ao hồ.  Trong đôi mắt người dân, không ai mà không ngao ngán nhìn cảnh “tràn ngập” sông hồ bất đắc dĩ đó.

Tuy nhiên, có một vấn nạn khác còn ngao ngán hơn, nó không chỉ “tràn ngập” tại thành phố này, mà còn ở tại hầu hết trên khắp đất nước, đó là sự tràn ngập của tội lỗi.  Cái tội mà xưa nay hiếm thấy, thì nay lại thấy nhan nhản bất cứ nơi đâu, đó là tội giết người.

“Chưa bao giờ người dân cảm thấy bất an như hiện nay. Mạng sống của con người rất dễ bị tước đoạt vì những lý do rất vu vơ.”. Vâng, đây là “tít” của một bản tin do VOV.VN đăng tải trên mạng lưới điện toán vào ngày 09/10/2014 vừa qua.

Bản tin chi tiết ghi rằng: “Thời gian gần đây, tại TP liên tiếp xuất hiện nhiều vụ giết người hết sức man rợ gây xôn xao dư luận. Những kẻ gây án có tuổi đời từ 20 đến trên 40 tuổi và đều tự mình gây án với một thái độ hết sức thản nhiên. Chính điều này đã khiến dư luận đặt câu hỏi: tại sao cái ác lại dễ bộc phát đến như thế? Vì sao các vụ án giết người đang ngày càng gia tăng và rất dã man?”

Không ai có thể tin được rằng, đã có kẻ, theo lời VOV.VN tường thuật, “Giết bạn học bằng cách cho uống thuốc ngủ rồi bỏ vào bao vứt xuống sông; giết chị dâu, chặt xác ra làm nhiều khúc bỏ vào bao tải vứt ra đường; giết vợ rồi suýt giết cả con chỉ vì ghen tuông; đâm chết bạn gái chỉ vì bị từ chối tình yêu…”

Lý giải cho câu hỏi “vì sao có nhiều vụ giết người dã man xảy ra trong thời gian gần đây?”, tác giả bài báo viết “các chuyên gia tâm lý và xã hội học tại thành phố cho rằng, những kẻ gây án này đều có khiếm khuyết về nhân cách hoặc có vấn đề về rối loạn hành vi, rối loạn về nhận thức.”

Một số ý kiến khác thì nói rằng,  “…giáo dục gia đình không trọn vẹn thì những đứa trẻ lớn lên sẽ có xu hướng sử dụng hành vi bạo lực”, và rằng “…do hàng ngày tiếp cận với nhiều bạo lực từ phim, ảnh và ngay cả các phương tiện truyền thông hiện nay cũng đề cập quá chi tiết về hành vi giết người đã ảnh hưởng đến không ít người trẻ tuổi”(trích nguồn VOV.VN)

Vâng, còn rất nhiều ý kiến cho rằng thì-là-mà v.v.. và v.v… để biện minh, để che đậy, mà người ta quên rằng,  nguyên nhân căn bản dẫn đến hành vi phạm tội chính là con người phủ nhận Thiên Chúa và những luật lệ Người đã ban cho con người.

Nguyên tổ Adam và Eva là một ví dụ điển hình. Chuyện kể rằng,  khi hai ông bà  muốn mình “sẽ nên như những vị thần” và phủ nhận rằng, chỉ có một vị thần chính là Thiên Chúa, lập tức hai ông bà phạm tội, vi phạm luật lệ Thiên Chúa đã ban ra.
Luật lệ Thiên Chúa, tông đồ Gioan nói “có nặng nề gì đâu”.

Xưa, Thiên Chúa phán “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn”. Và sau này, khi Đức Giê-su đến thế gian, Thiên Chúa, qua lời truyền dạy của Ngài, cũng chỉ đặt nơi con người một điều luật duy nhất,  đó là, “mến Chúa và yêu người”, mà thôi.

**  

“Mến Chúa và yêu người”, đó chính là điều đã được Đức Giê-su phán truyền trong  dịp có một nhóm Pha-ri-sêu tìm đến Ngài để chất vấn những thắc mắc liên quan đến luật lệ.

Hôm đó, rút kinh nghiệm cho những lần thất bại trước qua việc chất vấn Đức Giê-su về luật lệ. Nhóm Phariseu họp nhau lại để đưa ra đối sách mới. Một thầy thông luật trong nhóm của họ dầy dạn kinh nghiệm về luật được cử đến gặp Đức Giêsu.

Không như những lần trước, họ thường đặt thẳng vấn đề với Đức Giêsu về việc thực thi luật lệ. Ví dụ như, tại sao Ngài “không giữ ngày sa-bát!” Hoặc là, tại sao môn đệ Thầy “không rửa tay trước khi ăn?” v.v…

Lần này, khi vị thông luật đến, ông ta tung một đòn hỏa mù bằng một câu hỏi đầy lắt léo, ông ta hỏi rằng: “Thưa Thầy,  trong sách Luật Mô-se, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”

Trời ạ! Điều nào là điều trọng nhất ư! Do Thái giáo dựa trên 10 điều răn. Trải qua nhiều thế hệ, những thầy thông giáo chú giải thêm, thêm đến 613 lề luật. Trong số 613 lề luật, những thầy thông giáo lại chia thành 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Có thể nói rằng, mỗi ngày là có một luật cấm…

Vâng, giả sử ông Mô-se có sống lại, có lẽ, ông ta sẽ hỏi rằng, tại sao hồi trên núi Sinai xuống, ông chỉ truyền cho có “Mười Điều Luật”, nay, ở đâu lại lòi ra  613 điều là làm sao hở mấy ông kẹ Pha-ri-sêu?

Thật ra, khi đặt câu hỏi này, ông thầy thông luật đã đặt Đức Giê-su vào một cái bẫy. Một cái bẫy được giăng ra. Thật vậy, trong bối cảnh Israel thời đó,. mỗi một phe nhóm như Xa-đốc, kinh sư, luật sĩ, Phariseu v.v… họ thích điều luật nào thì cho điều luật đó quan trọng hơn cả.

Nếu Đức Giêsu trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng, Ngài sẽ bị “chụp mũ” là về phe nhóm này, chống nhóm kia. Và điều hiển nhiên là các nhóm khác sẽ gân cổ lên đối chất với Ngài…

Thế nhưng, dù ông thầy thông luật có ngụy trang cái bẫy đầy mầu sắc đạo đức, nó vẫn không làm cho Đức Giêsu sập bẫy.

“Điều răn nào là điều răn trọng nhất ư?”. Đức Giêsu đáp “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Người nói tiếp rằng : “Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất” (Mt 22, 37-38).

Ông thầy thông luật đã hố to khi đem luật ông Môse ra “thử” Ngài. Những điều Đức Giêsu nói cho ông thông luật nghe cũng chính là những điều khi xưa ông Môse đã nói trước toàn dân Israel, “Nghe đây, hỡi Israel! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”. (Dnl 5,5).

Có lẽ ông thông luật quên lời Môse đã dặn rằng “Những lời tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi tạc vào lòng… phải nói lại cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường…”(Dnl 6, 6-7).


Đúng! ông thông luật đã  quên.  Ông quên rằng, luật cũng đã nói: “ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,..18). Ông quên nhưng Đức Giêsu không quên. Ngài nhắc lại cho ông biết rằng : Đó là “điều răn thứ hai, cũng giống điều răn thứ nhất”.
Kết thúc phần chất vấn, Đức Giê-su kết luận rằng: “Tất cả Luật Môse và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều ấy”.


***
Một lần nọ, khi nói tới lề luật, Đức Giê-su có nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-se hoặc các lời ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5, 17). 

Và hôm nay, đúng là Ngài đã kiện toàn. Một sự kiện toàn tuyệt hảo. “Mến Chúa” không chưa đủ, còn phải “Yêu người”,  bởi vì yêu người  chính là “dấu” để thiên hạ biết “anh em là môn đệ của Thầy”.

 “Yêu người” còn là thước đo đời sống đức tin cho chúng ta hôm nay, và còn là “vật chứng” để chúng ta đem ra trình diện trong ngày phán xét.

Tông đồ  Gioan đã nói “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (1Ga 4,21). Chúng ta sẽ được phán xét dựa vào tình yêu tha nhân, bằng sự phục vụ, chứ không phải là yêu Chúa bằng hình thức, trên môi miệng.

Thật vậy, chính Đức Giêsu đã nói rằng : “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy"(Mt 25, 40).

“Làm như thế cho một trong những người bé nhỏ” là làm gì ?

Xin thưa, chính là “Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Cho khách đỗ nhà. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết”.

Thực thi những điều nêu trên, đó chính là cách minh chứng rằng, chúng ta đã “yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”.

**** 
 “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.”  Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (x.Mt 22, 37-40).

Là một Kitô hữu, chúng ta nghĩ gì về hai điều răn Đức Giêsu cho là quan trọng nhất?

Hãy tạ ơn Chúa…  Hãy tạ ơn Chúa vì Ngài đã rút từ 613 điều luật, thật khó “học thuộc lòng”  cũng như thật khó thực thi, để hôm nay chỉ còn có hai điều luật, một, đó là “mến Chúa”, hai, đó là “yêu người”.

Vâng, chỉ có năm chữ “mến Chúa và yêu người” quả là quá dễ học và dễ nhớ. Thế nhưng dễ nhớ và dễ học vẫn chưa đủ để chứng thực chúng ta là một Ki-tô hữu, một người môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô.

Để chứng thực là một Ki-tô hữu, chúng ta không chỉ “học” mà còn phải “hành”, chưa hết, việc thực hành của chúng ta còn phải ở múc độ “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”.

Kitô giáo là một tôn giáo được xây dựng trên nền tảng tình yêu thương. Và tình yêu thương mà Kitô giáo truyền dạy chính là sự  luôn sẵn sàng dấn thân, dẫu biết rằng để thể hiện sự dấn thân đó, đôi lúc sẽ phải “chết trong lòng một ít”, và đôi khi sẽ phải  “cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu”.

Chính vì thế, để chứng tỏ mến Chúa và yêu người  “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” chúng ta không được phép “yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”, mà ngược lại, chúng ta cần phải  “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 43-44).

Một cách thế khác, để chứng tỏ mến Chúa và yêu người  “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”, chúng ta chỉ cần “làm một việc bình thường với một tình yêu phi thường”.(Mẹ Têrêsa Calcutta) 

“Làm một việc bình thường” đó là việc gì? Thưa, rất giản dị, đó là, “nhẫn nhục, hiền hậu, không làm điều bất chính, không vênh vang, không tự đắc, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù…” với tha nhân, với tất cả mọi người chung quanh ta.

Nói cách khác, khi chúng ta thực hiện những điều giản dị nêu trên, thì đó chính là lúc chúng ta thể hiện một cách hoàn hảo giới răn “Mến Chúa và yêu người”.
“Mến Chúa và yêu người”. Vâng, với hai điều răn này, Lm Charles E Miller, CM có lời khuyên rằng: “chúng không được tách rời trong tâm hồn hoặc trong hành động của chúng ta”.

petrus.tran


Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2014

Trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”.




Chúa Nhật XXIX – TN – A

Trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”.  




Vu khống là gì? Thưa, theo Wiktionary có nghĩa là: “Bịa đặt chuyện xấu, vu cho người nào đó để làm mất danh dự, mất uy tín”.  Vu khống xuất hiện từ khi nào? Thưa, có thể nói rằng, nó đã có ngay từ thời tạo thiên lập địa. Nói cách khác, ngay khi có sự sống của con người, sự vu khống cùng lúc xuất hiện.   

Kinh Thánh kể rằng, thuở đó, con người, một thụ tạo do Thiên Chúa tác tạo, họ được sống trong vườn Eden và được làm bá chủ mọi loài “cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật mặt đất”, chỉ trừ “trái của cây cho biết điều thiện điều ác”. Thế nhưng, thảm hại thay, chỉ vì con người xiêu lòng trước lời vu khống vô căn cứ của con rắn, rằng: “Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần…”, kể từ đó, lịch sử của con người trở thành lịch sử của biết bao nỗi khổ đau. 

Vâng, nói tới vu khống, có thể nói rằng, không một ai trên thế gian này mà không hơn một lần là nạn nhân của nó. Lên google gõ hai chữ “vu khống”, thật kinh hãi, hơn năm triệu kết quả hiện ra, và đó là hơn năm triệu câu chuyện người này vu khống người kia, người kia vu khống người nọ. 

Có một điều mà ai cũng phải công nhận, đó là, với những ai là người nổi tiếng, là người lãnh đạo, (đời cũng như đạo), thì sự vu khống luôn là mối đe dọa, luôn là thủ đoạn của những người đối nghịch, của phe đối lập, của những người chống đối.

Thì đây, có ai mà không biết câu chuyện Tổng Giám Mục Ngô Quang KIệt, cách đây vài năm, đã phải xấc bấc xang bang  bởi những lời “vu khống” của  những người chống đối ngài.

Đức Giê-su, khi còn tại thế, Ngài cũng là nạn nhân của sụ vu khống. Các kinh sư và nhóm Pha-ri-sêu luôn rình rập tìm sự sơ hở trong tiếp xúc, trong lời ăn tiếng nói của Ngài để mà vu khống.

Một lần nọ, khi Đức Giê-su tiếp xúc với một người thu thuế tên là Lê-vi và sau đó có dùng bữa tại nhà ông ta cùng nhiều người thu thuế và tội lỗi khác, lập tức, những ông luật sĩ và biệt phái vu khống Ngài thân thiện với kẻ tội lỗi. Thế nhưng, Đức Giê-su đáp phá tan sự vu khống đó bằng một lời nói khiến mọi cử tọa hôm đó phải nín lặng, Ngài nói rằng: “Những người khoẻ mạnh không cần gì đến thầy thuốc, nhưng là những người đau yếu. Ta không đến để kêu gọi những người công chính, mà kêu gọi những người tội lỗi".

Không thành công lần này, họ tìm cách vu không Đức Giê-su lần khác. Họ liên kết thành một liên minh kinh sư-Phariseu, dùng chiến thuật “xa luân chiến” hết nhóm này đến nhóm khác tìm sự sơ hở về lời giảng dạy hoặc lời nói của Ngài để hạ độc thủ.

Khi thì họ chất vấn Ngài về luật giữ ngày Sabat. Lần khác họ đòi xin Ngài “một dấu lạ” từ trời. Nặng ký hơn, họ đòi Đức Giêsu chứng minh rằng “Ai đã cho Ngài quyền” rao giảng Tin Mừng! (Mt 21, 23).

Đức Giêsu luôn là người chiến thắng trước những cuộc tranh luận hay chất vấn của họ. Thế nhưng, như những con đỉa đói, họ vẫn bám chặt đôi chân của nhà truyền giáo Giêsu để tìm cách hãm hại Ngài.

Một hôm, quá tức giận vì Đức Giêsu đã ví họ như “những tá điền sát nhân”. Nhóm Phariseu rất muốn bắt Đức Giêsu nhưng vì sợ dân chúng phản đối. Thay đối kế hoạch, họ “bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy” (Mt 22, 5).

Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê lập thành một liên minh. Một liên minh giữa “đạo và đời”.

Liên minh “Phariseu-Hêrôđê” đến gặp Đức Giêsu. Rút kinh nghiệm của những lần trước. Lần này, họ không tấn công Đức Giêsu trực diện bằng những câu hỏi “tại sao Thầy làm thế này!  tại sao môn đệ Thầy làm thế kia! v.v…”. 

Rất quỷ quyệt, chẳng khác con rắn xưa trong vườn Eden, họ tâng bốc Ngài bằng những lời tâng bốc thật ngọt ngào. Nào là  “Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà giảng dạy đường lối của Thiên Chúa”. Nào là “Thầy cũng chẳng vị nể ai… Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta” v.v…

Nói nào ngay, những lời tâng bốc đó không sai. Đức Giêsu đã chẳng từng nhận mình: “Là đường, là sự thật” đó sao! Ngài cũng đã chẳng “vị nể ai” khi đã dám “đuổi hết những người đang mua bán trong Đền Thờ”.


Thật ra những lời tâng bốc đó chẳng khác nào một cú đấm thăm dò mà những tay đấm boxing thường sử dụng. Thật vậy, vừa tâng bốc xong, họ quay ngoắt 180o bằng một câu hỏi đầy mắc mứu: “Xin Thầy cho biết ý kiến : có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”

Trả lời không ư! Nhóm “những người phe Hêrôđê” sẽ tố cáo Đức Giêsu không trung thành với Hoàng đế. Và điều gì sẽ xảy ra? Đương nhiên sẽ sập bẫy họ. Sẽ trúng kế “tá đạo sát nhân – mượn dao giết người” của họ chứ còn gì nữa! Một lũ quần-chúng-tự-phát sẽ xuất hiện, sẽ ra rả vu khống Ngài là “phản động”…

Còn nếu trả lời có! Vâng, mấy ông “thần quyền” Phariseu dễ gì ngồi yên. Họ sẽ huy động “các môn đệ của họ” đi khắp Palestina ra rả vu khống Đức Giêsu là một tên “phản dân tộc”…

Binh pháp Tôn Tử có chép “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Vâng, Đức Giêsu “biết họ có ác ý…”. Chính vì thế Ngài đã dùng kế “điệu hổ ly sơn” để lôi cổ những con hổ giả hình Phariseu và phe nhóm Hêrôđê ra ánh sáng của chân lý và sự thật. 

Dùng phương pháp thính thị, Đức Giêsu yêu cầu họ “cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”. Khi đồng tiền được đưa ra, Ngài hỏi họ rằng “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Không quá một  giây đồng hồ, họ đồng thanh đáp “Của Xê-da”. 

Của-Xêda-ư! Hôm đó, Đức Giê-su bảo họ rằng “Của Xêda trả về Xêda”.

**
Câu chuyện được kể tiếp rằng : “Nghe vậy. Họ ngạc nhiên…”. Chỉ có “ngạc nhiên” thôi sao! Đúng ra, phải còn “mắc cỡ” nữa chứ!
Thật vậy, không mắc cỡ sao được, lúc “ra quân” họ đầy khí thế, dư quyết tâm “tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời”… Thảm hại thay, kết cuộc “họ không tài nào bắt quả tang Người lỡ lời” (Lc 20,26).

Hôm đó, Đức Giêsu nói tiếp rằng : “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Đây mới chính là điều làm cho họ “để Người ở lại đó mà đi”.

Họ biết, có phần chắc như thế, rằng, họ đã đánh mất quyền được làm dân riêng “Của Thiên Chúa”. Có phần chắc, họ đã hiểu những dụ ngôn trước kia Đức Giêsu đã kể, chính là nói về họ. Cho nên, không bỏ đi mà ở lại để làm gì, vì họ, còn cái gì để mà “trả cho Thiên Chúa”!

***
Với nhóm kinh sư và Pha-ri-sêu xưa là vậy. Còn đối với chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta hiểu như thế nào là “Của Thiên Chúa”!
Phải chăng là những “talent”, những “nén bạc” mà Thiên Chúa đã cho chúng ta?   

Nếu đúng là vậy, mà sự thật là vậy, thì, thách đố mà hôm nay chúng ta phải thực hiện, đó là, chúng ta sẽ trả cho Thiên Chúa những “tài năng” những “nén bạc” như thế nào. 

Vâng, chúng ta đã sử dụng những tài năng, những nén bạc như thế nào! Có sử dụng đúng mục đích hay không? Có sử dụng để làm lợi ích cho gia đình, cho cộng đồng, cho Giáo Hội?

Tại The-xa-lô-ni-ca, cộng đoàn ở đấy đã được thánh Phao-lô “Không ngừng nhớ đến”, nhớ đến những việc họ đã làm, những nỗi khó nhọc họ đã gánh vác”… Vâng, họ  “làm vì lòng tin… gánh vác vì lòng mến” (x.1Tx 1, 1-5b)

Nhắc đến điều này để làm gì? Thưa, là để chúng ta xem đó như là câu trả lời cho những thách thức mà chúng ta sẽ phải vượt qua, trong việc sử dụng tốt những “tài năng” những “nén bạc” mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. 

Hãy tưởng tượng, nếu những tài năng của chúng ta được “làm vì lòng tin”, những nén bạc của chúng ta được sử dụng “vì lòng mến” thì, điều gì sẽ xảy ra? Phải chăng là chúng ta sẽ có một cuộc sống “làng giềng thân thiết, anh em hòa thuận, vợ chồng ý hợp tâm đầu”!
Xưa, Đức Giê-su đã có câu trả lời “tuyệt hảo” trước những người Pha-ri-sêu. Còn chúng ta hôm nay, nếu chúng ta thực hiện đúng những điều nêu trên, đó chính là câu trả lời… Nói cách khác, đó chính là cách chúng ta “trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”.  

Petrus.tran








Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

Danh sách “kẻ được chọn” có ta?



Chúa Nhật XXVIII – TN – A

Danh sách “kẻ được chọn” có ta?

Kể từ khi nguyên tổ Adam và Eva phạm tội mất hết ơn lành, theo lời Kinh Thánh ghi lại, thì, “sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất”. Sự gian ác đó đã khiến  Thiên Chúa đoán phạt con người bằng một trận hồng thủy. Thế nhưng, “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta”; cho nên, Thiên Chúa vẫn ban cho con người một Đấng Cứu Thế như lời đã phán hứa.

Hơn hai ngàn năm trước, Đấng Cứu Thế đã đến, Ngài chính là Giê-su người Na-da-rét. Sau ba mươi năm sống ẩn dật tại quê nhà, Đức Giê-su bắt đầu ra đi loan báo Tin Mừng. 
Thông điệp đầu tiên được Ngài loan báo, đó là: “ Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”.  

Sám hối, đó là điều phải đạo, là điều phải thực hiện để được hưởng ơn cứu độ. Còn Nước Trời ư! Vâng, đó là một mầu nhiệm và là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người.
Trong những ngày còn tại thế, bằng cách dùng những dụ ngôn, Đức Giê-su đã khai mở nhãn giới cho mọi người biết thế nào là mầu nhiệm Nước Trời.

Đã có lần Đức Giêsu mô tả Nước Trời như là “viên ngọc quý” hoặc như một “kho báu”. Và để có thể có được Nước Trời, con người phải ra công gắng sức tìm kiếm.

Trong một lần khác, Đức Giê-su đã so sánh Nước Trời giống như “chiếc lưới” thả xuống biển. Như một chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài (Mt 13,48). Nước Trời, cũng vậy, không phân biệt ai, không phân biệt chủng tộc màu da, luôn mở rộng và đón nhận mọi tâm hồn sám hối và thống hối ăn năn.

Với những lời rao giảng như thế về Nước Trời, trong dân chúng, có nhiều kẻ đã tin vào Ngài. Trái lại, các thượng tế và người Pharisêu thì cho rằng đó là những lời nói “mê hoặc” chỉ có bọn “dân đen”, một bọn mà các thượng tế gọi là “quân bị nguyền rủa”, tin theo, chứ còn “trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pharisêu, đã có một ai tin vào tên ấy đâu ?” (x.Ga 7, 48)

Trước những lời nhận định đầy ác ý của các thượng tế và nhóm Pharisêu, Đức Giêsu đã dùng một dụ ngôn, một dụ ngôn như một thông điệp để nói lên rằng, ai mới là người đáng bị nguyền rủa. Và rằng, những lời rao giảng của Ngài về một Nước Trời không phải là những lời nói của phàm nhân,  nhưng là những lời của “Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến”. Dụ ngôn đó mang tên là “dụ ngôn tiệc cưới”.(Mt 22, 1-14).

**
Dụ ngôn được kể rằng “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình…” (Mt 22, 2).
Nói tới tiệc, tất nhiên phải có khách mời. Hôm đó, khi công bố mở tiệc, rất trịnh trọng, nhà vua “sai các đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc”. Thế nhưng, thật đáng tiếc, những vị khách đó, “không chịu đến”.

Nhà vua, một lần nữa, “lại sai các đầy tớ khác đi”. Than ôi! lần mời thứ hai, tệ hơn nữa. Họ “không thèm đếm xỉa tới, lại còn bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn…”

Tại sao họ không tham dự? Phải chăng vì họ nghĩ rằng, nhà vua thuộc thành phần có chức có quyền, mà những kẻ đó thì biết đâu, như lời sách Thánh chép “Hắn mời con ăn uống đi nào! Nhưng đâu phải hắn có lòng với con”?!  (x.Cn 23, 7)

Thưa, nếu đó là những suy luận của những kẻ không đến dự tiệc, thì, đó chỉ là những suy luận ngụy biện, mà thôi. Thì đây! Cứ nhìn vào việc nhà vua lại tiếp tục sai đầy tớ “đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” thì đủ biết tấm lòng của ông ta.

Hôm đó, khi nhiều người được tập hợp lại, bất luận tốt xấu, chuyện kể rằng :”phòng tiệc cưới đầy thực khách”.

Thật ra, mọi sự không xuông sẻ như thế. Có một số rắc rối nhỏ xảy ra. Rắc rối thứ nhất, đó là những người không đi, không tham dự, thay vì họ chỉ cần “yes - no” hoặc “sorry”, đàng này, họ lại “bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết!”. Chính vì thế, nó đã dấy lên sự thịnh nộ của nhà vua. Và hậu quả, đó là, những kẻ gây “rắc rối” bữa tiệc cưới, tất cả đều  bị “tru diệt”, bị “trói chân tay lại quăng ra chỗ tối tăm” …

Rắc rối thứ hai, có một người bước vào dự tiệc cưới nhưng lại “không mặc y phục lễ cưới”. Vâng, tệ thật! Anh ta không lịch sự trước lời “thỉnh” của nhà vua. Và số phận của anh ta cũng lại là chỗ “tối tăm bên ngoài”.

Vâng, có lẽ, hôm đó “trong giới Phariseu” khi nghe xong  dụ ngôn này, chắc hẳn họ sẽ nhận ra ai là người đáng gọi là “quân bị nguyền rủa”!

***

Qua dụ ngôn tiệc cưới, Đức Giêsu công bố một thông điệp, thông điệp rằng, Thiên Chúa chính là hình ảnh vị vua trong dụ ngôn. Người chính là Vua của bữa tiệc cưới. Người chính là Vua của Nước Trời. Một vị Vua của lòng nhân hậu “gặp ai cũng mời vào tiệc cưới”. Một vị Vua giàu tình yêu thương. Người sẵn sàng mời gọi tất cả mọi người “bất luận tốt xấu cũng tập hợp cả lại” để cùng nhau “bước vào tiệc cưới”.

Là một Ki-tô hữu, tất nhiên, chúng ta cũng là những kẻ được “tập hợp cả lại”, tập hợp trong một ngôi giáo đường và được mời gọi tham dự vào “bàn tiệc Thánh Thể”. Nơi “Bàn Tiệc Thánh Thể”, Đức Giê-su, qua người tôi-tớ-Linh-Mục, vẫn cất giọng mời gọi chúng ta “Đây Chiên Thiên Chúa. Đấng gánh tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.

Vấn đề của chúng ta, đó là, cần phải tự hỏi mình rằng: Chúng ta có đáp lời mời đến “Bàn Tiệc Thánh Thể”? Và khi đến, chúng ta đến như thế nào? 

Phải chăng, chỉ cần đến than dự bàn tiệc Thánh Thể một năm một lần là đủ?

Nếu đúng là như vậy, thì, e rằng, rất khó  để chúng ta có thể duy trì tình trạng “Chúa ở lại trong ta và ta ở lại trong Chúa”. Đừng quên, khi thiết lập “tiệc Thánh Thể” Đức Giê-su có nói: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (x. Lc 22, …19) . Vâng, nếu bạn là Đức Giê-su, bạn có vui khi mọi người chỉ tưởng nhớ đến bạn mỗi năm một lần!          

Thật ra, đối với việc tham dự bàn Tiệc-Thánh-Thể, điều Đức Giê-su cần nơi chúng ta, đó chính là chiếc “y phục áo cưới”.
Về điều này, chắc hẳn sẽ có nhiều người nói rằng: mỗi Chúa Nhật tham dự Thánh Lễ, có bao giờ tôi đến nhà thờ với bộ y phục rách rưới đâu!   

Nếu được như vậy,   hãy tạ ơn Chúa. Thế nhưng, hãy thử coi lại chiếc y phục tâm hồn của tôi! Nó có “rách nát”, nó có bám đầy rác rưới tội lụy? Nếu có, thì, hãy coi chừng, nếu chúng ta đến bàn tiệc thánh Thể với chiếc y phục đó, chuyện bị “trói chân tay lại, quăng ra ngoài chỗ tối tăm” là điều khó tránh khỏi.   

****                                                                                                                                                                                                                                                            
Trở lại câu chuyện dụ ngôn tiệc cưới. Vâng, có lẽ không ít người trong chúng ta cũng rơi vào hoàn cảnh của những người phải “đi thăm trại hoặc đi buôn” để mà từ chối đến dự bữa tiệc Thánh Thể mỗi Chúa Nhật hàng tuần.

Chúng ta cũng biện luận rằng thì-là-mà “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm giờ nghỉ” mới đủ cho việc chi dùng trong gia đình, nên không còn thời giờ để được “tập hợp cả lại” trong bữa tiệc Thánh Thể.

Về lời biện luận này, Đức Giê-su đã có một lời dạy rằng: “Đừng lo cho mạng sống:  lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (x.Mt 6, 25-26).

Và cuối cùng, Đức Giê-su kêu gọi “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Trời và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

Đừng quên, đến với bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta sẽ được “sống muôn đời”.

Thưa bạn, bạn có  tin vào lời phán hứa của Đức Giê-su? Nếu có, hãy đến tham dự bàn Tiệc Thánh Thể mỗi tuần. Tất nhiên, không cần đến bằng những bộ y phục mang nhãn hiệu đẳng cấp, đại loại như “Levis hay Pierre Cardin” v.v… nhưng là với bộ y phục mang nhãn hiệu “đức cậy và đức mến”. Chính bộ y phục này, Đức Giê-su mới có thể nhận ra chúng ta chính là người môn đệ của Ngài.

Là người môn đệ của Đức Giê-su, danh sách “kẻ được gọi” và danh sách “kẻ được chọn”, có phần chắc, sẽ có tên chúng ta.

Petrus.tran





Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...