Thứ Ba, 28 tháng 4, 2015

Người mục tử nhân lành.

Chúa Nhật IV – PS – B

Người mục tử nhân lành.

Như chúng ta được biết, phụng vụ thánh lễ được chia làm những mùa như sau: Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, kế đến là Mùa Chay và mùa Phục Sinh, những Chúa Nhật còn lại gọi là mùa Thường Niên.

Hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật IV mùa Phục Sinh. Nói tới mùa Phục Sinh, có thể ví đây như là một mùa xuân của Giáo Hội. Thật vậy, như người ta thường nói, mùa xuân là mùa của yêu thương, của muôn hoa nở rộ khoe sắc thắm, của vạn vật sinh sôi, thì với “mùa Phục Sinh”, ân sủng của Thiên Chúa nở rộ như hoa khoe sắc thắm, đó chính là ơn cứu chuộc. Đó chính là chúng ta được tái khám phá một Thiên Chúa là Tình Yêu, Người “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Tình yêu ấy được thể hiện qua cái chết và sự phục sinh của người Con Một là Đức Giê-su, Ngài “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế” (x.Pl 2, 6-7).

Đức Giê-su, vốn dĩ là Thiên Chúa “đã trở nên người phàm” và cư ngụ giữa thế gian. Ngài “đến thế gian không phải để lên án thế gian nhưng là để thế gian nhờ (Ngài) mà được cứu độ”.

Trước giờ chịu nạn, bên cạnh các môn đệ yêu dấu, Đức Giê-su đã tái khẳng định lại điều này bằng một thông điệp, thông điệp rằng: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (x.Ga 10, 10)

**
Vâng, bối cảnh của Palestina thời đó được biết dân Israel đã phải sống trong cảnh một cổ hai tròng. Hai tròng đó: một là thế quyền và hai là thần quyền. Với thế quyền, họ luôn phải sống trong cảnh bất an trước sự cai trị hà khắc của Roma. Còn với thần quyền, họ đã phải oằn vai gánh nặng với những luật lệ do “các kinh sư và người Pharisieu” đặt ra hết sức phi lý.

Các kinh sư và người Pharisieu là những người “ngồi trên tòa Mô-sê mà giảng dạy”, thế nhưng, “họ nói mà không làm”. Chưa hết, các kinh sư và người Pharisieu rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo, nhưng khi họ theo rồi, các ông ấy lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục hơn các ông.

Nhìn con dân Israel sống trong cảnh như thế, Đức Giêsu không khỏi “chạnh lòng thương xót”. Đã có lần, khi nhìn đoàn dân lũ lượt đi theo, Đức Giêsu đã phải thốt lên với các môn đệ rằng: “họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6,34)

Chính vì thế, một lần nọ, bất chấp những căng thẳng vốn thường xảy ra giữa Ngài và nhóm Pharisieu, Đức Giêsu tuyên bố rằng, “mọi kẻ đến trước tôi đều là tên trộm cướp”. Và tiếp theo đó, Ngài khẳng định, rằng “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10,9).

Hôm đó, trước đám đám đông cử tọa, Đức Giê-su lên tiếng tuyên bố: “Tôi chính là mục tử nhân lành”.

Thế nào là mục tử nhân lành? Vâng, Đức Giê-su cho biết, đó là người dám “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”. Sự hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên phải được thể hiện qua việc người mục tử đó như một kẻ tiên phong, “anh ta đi trước và chiên đi theo sau…”.

Lời nói của Đức Giêsu, quả thật, sau này đã được thể hiện đúng như Ngài đã tuyên bố. Tại đồi Golgotha, người mục tử Giêsu đã hy sinh mạng sống mình bằng cái chết trên thập giá. Một cái chết để cứu chuộc nhân loại. Một cái chết để không ai còn có thể mỉa mai nói rằng “từ Nazareth, làm sao có cái gì hay được?” Một cái chết để muôn thế hệ về sau đều phải nhìn nhận rằng, Đức Giêsu thành Nazareth, Ngài chính là “Vị Mục Tử nhân lành”.

Đức Giê-su, hôm đó, cho mọi người thấy sự nhân lành còn được thể hiện nơi “những chiên khác”, những con chiên “không thuộc ràn này”. Những con chiên mà Ngài “cũng phải đưa chúng về”.

Trước đám đông cử tọa, Ngài cho mọi người biết, rằng: “ Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử”. Nói xong, Đức Giêsu khẳng định rằng: “Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được”.

***

Chúa Nhật hôm nay, theo truyền thống, chúng ta gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Vào Google, một trang mạng với chức năng tìm kiếm, đánh lên đó dòng chữ “Chúa Chiên Lành”, vâng, chúng ta sẽ thấy rất nhiều hình ảnh Đức Giêsu là một người thanh niên ẵm hoặc vác con chiên trên vai, muôn kiểu, muôn màu, muôn sắc.

Có một số người dị ứng với Ki-tô giáo, nên, qua hình ảnh đó, họ cho rằng, Đức Giê-su đã biến “con người” thành “con vật” khi gọi những người theo Ngài là “con chiên”.

Có thể nói rằng, những kẻ suy nghĩ như thế là những kẻ thiếu hiểu biết. Còn nếu họ biết nhưng lại vờ như không biết, thì họ chẳng khác nào có mắt như mù. Nói tắt một lời, họ chỉ là những kẻ thiếu lương thiện, mà thôi.

Hình ảnh người mục tử và con chiên trên vai, vâng, đó chính là hình ảnh trong Cựu Ước thường dùng như là biểu tượng nói về lòng thương xót, sự chăm lo, bảo vệ và nâng đỡ của Thiên Chúa đối với con người.

Vâng, hình ảnh (Thiên Chúa) người mục tử “đi trước và chiên đi theo sau” gợi cho chúng ta nhớ đến Thánh Vịnh thứ hai mươi ba: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ”.

Chỉ trong sáu câu ngắn ngủi (Tv 23, 1-6) thế mà, cũng đủ để mô tả toàn cảnh hình ảnh người mục tử nhân lành đầy quyền uy: “Dầu qua thung lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm”.

Nếu xưa kia, Israel thời Cựu Ước vui mừng đặt niềm tin vào Thiên Chúa qua hình ảnh như thế, thì hôm nay, niềm vui đó phải được nhân đôi, nhân đôi là vì chính Chúa Giêsu đã cất tiếng hòa theo nhịp điệu mừng vui đó, rằng: “Thật, tôi bảo thật: Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Và rằng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10, 14)

****
Khi nói tới người mục tử, chúng ta luôn nghĩ tới quý giám mục, linh mục, và, không ít người lo sợ rằng, với một thế giới cổ suý cho chủ nghĩa thế tục, thật khó để mà có nhiều người từ bỏ hết mọi sự, “tự ý không kết hôn vì Nước Trời”.

Thật ra, điều đáng để sợ, đó là hãy sợ rằng, những người đã được Thiên-Chúa-tuyển-chọn, họ có thực sự là người mục tử “như lòng Thiên Chúa mong ước” hay không? Họ có “khôn ngoan sáng suốt” chăn dắt (đoàn chiên) Thiên Chúa giao phó không?

Vâng, thật phải đạo, khi hôm nay, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu, chúng ta hãy mượn lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a mà nguyện rằng: Lạy Chúa, xin Người ban cho chúng con “những mục tử như lòng (Người) mong ước, (những mục tử) sẽ khôn ngoan sáng suốt chăn dắt (chúng con)” (Gr 3, 15). Chúng ta cũng đừng quên, nguyện xin cho quý ngài, ngày càng thêm “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người”.

Làm thế nào để người mục tử hôm nay, nên “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người”? Thưa, thật giản dị, đó là, hãy thực thi những điều Đức Giê-su đã truyền dạy, những điều mà hôm nay chúng ta quen gọi là “tám mối phúc thật”, là đủ.

Thật vậy, hãy thử tượng tưởng xem, một người mục tử luôn sống với một “tâm hồn nghèo khó, hiền lành, khát khao nên người công chính, xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình” và cuối cùng, chấp nhận “bị bách hại vì sống công chính”… Vâng, một người mục tử như thế, ai dám phủ nhận vị mục tử đó không là người đã “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người”!

Nói cách khác, ai dám phủ nhận người mục tử đó chính là “những mục tử đẹp lòng Thiên Chúa” người mục-tử-nhân-lành!

*****
Thật ra, không nhất thiết phải quan niệm rằng, chỉ các giám mục hay linh mục mới là mục tử duy nhất. Giáo Hội ngày nay, với Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, số 9, cũng mời gọi các tín hữu hãy trở nên là những mục tử cho nhau, đặc biệt là mục tử ở trong gia đình.

Để trở thành người mục tử nhân lành trong gia đình, cũng vậy thôi, chúng ta cũng phải thực thi những gì đã được Đức Giê-su truyền dạy trong bản “Hiến Chương Nước Trời”.

Điều thứ hai của hiến chương nói “Phúc thay ai hiền lành”. Vâng, đó là một cái phúc và đó cũng là điều kiện tiên quyết mà một người mục tử trong gia đình cần có. Sự hiền lành sẽ giết chết tính trưởng giả, tăng thêm tính nhu mì và cuối cùng là hạn chế được sự tức giận.

Một vấn nạn tuy đã cũ nhưng vẫn còn tính thời sự, đó là thời đại bùng nổ thông tin, và internet chính là những “con sói” hung hãn nhất của con em mình. Chính “con sói internet” đã làm cho biết bao con trẻ rơi vào trạng thái trầm uất, bạo lực, đam mê thần tượng, cuồng dâm, mất niềm tin vào chính mình để rồi cuối cùng là tiến tới tội ác, ma túy và tự tử…

Chắc hẳn chúng ta không muốn con em mình đến trường một mình. Vậy tại sao chúng ta lại để cho con em mình “một mình” đi vào thế giới ảo nơi mà “con sói internet” luôn rình rập để hãm hại chúng?

Chắc chắn chúng ta sẽ là người mục tử để đánh đuổi những “con sói” đó, và sẽ thật khôn ngoan nếu chúng ta tuân theo lời chỉ dẫn của thánh Phao-lô “đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6, 4)

Vâng, không nhất thiết chúng ta phải hy sinh cả mạng sống nhưng thật cần thiết để chúng ta hy sinh một chút thời giờ, một chút riêng tư để cùng đồng hành, đồng hành trong vai trò là người mục tử, với con cái chúng ta.

Đương nhiên không thể phủ nhận giám mục và linh mục chính là những người mục tử. Họ là những người kế vị các thánh tông đồ quyền “chăm sóc và chăn dắt” qua Bí Tích Truyền Chức Thánh.

Thế nên, đừng bao giờ từ bỏ việc đem con em mình đến nhà thờ vào mỗi Chúa Nhật, nơi quý linh mục, tu sĩ sẽ là người mục tử chăm sóc và chăn dắt chúng qua những bài giáo lý và nhất là qua những lời giáo huấn trong phần phụng vụ Lời Chúa.

Một điều tuy đã cũ nhưng xin được nhắc lại ngày hôm nay, rằng: nếu các linh mục khi lãnh nhận Bí Tích Truyền Chức, họ được trao ban chức tư tế thừa tác, thì người Kitô hữu khi lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, cũng được trao ban chức tư tế - nhưng là tư tế cộng đồng.

Công Đồng Vatican II dạy rằng: “Chức tư tế chung của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật, tuy khác nhau không chỉ về cấp bậc mà còn về yếu tính; song cả hai bổ sung cho nhau. Thật vậy, cả hai đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô theo cách riêng của mình” (Hiến chế tín lý về Giáo Hội – số 10).

Có thể nói cách khác chăng! Vâng, giám mục, linh mục hay giáo dân tất cả đều tham dự vào vai trò mục tử của Đức Giêsu theo cách riêng của mình. Nhưng trước nhất và quan trọng nhất đó là chúng ta phải để cho Đức Giêsu: vị Mục Tử nhân lành sống và hành động trong tâm hồn chúng ta.

Thật vậy, Ngài chính là kim chỉ nam tuyệt hảo nhất. Ngài là Mục Tử được “Thần Khí Chúa ngự trên”, được “Chúa xức dầu tấn phong để mang Tin Mừng đến cho người nghèo, loan báo cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa (x. Lc 4,18-19; x. Is 62,1-2).

Thế nên, thật phải đạo khi chúng ta để Đức Giê-su, vị mục tử nhân lành sống trong ta, hành động trong ta, bởi nhờ đó, có khác nào “tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi”.

Có “Chúa Ki-tô sống trong tôi”. Vâng, đó là lúc, tôi và bạn, chúng ta đã “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người”. Nói cách khác, chúng ta là hình ảnh nối tiếp của Đức Giê-su – một Giê-su là “Người mục tử nhân lành”.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 19 tháng 4, 2015

Chính anh em là chứng nhân về những điều này

Hôm nay, chúng ta bước vào tuần thứ III mùa Phục Sinh. Trọng tâm của mùa Phục Sinh, như lời Lm Charles E. Miller nói, đó là “cử hành các biến cố trọng đại về ơn cứu độ của chúng ta nhờ Mầu Nhiệm Vượt Qua: cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô”. Nói cách khác, cái chết và sự sống lại của Đức Giê-su Ki-tô chính là sự vẹn toàn chương trình cứu độ của Thiên Chúa, một sự vẹn toàn đem đến ơn cứu độ cho con người. 

Là một Ki-tô hữu, không ai trong chúng ta lại không xác tin và tuyên xưng niềm tin này, thế nhưng, với các tông đồ xưa, tin vào sự sống lại của Đức Giê-su, lại là sự thách đố của các ngài. Đã có một  lần Chúa Giêsu  hiện ra với các môn đệ, các ngài hoảng hốt tưởng là ma. Tại sao hôm đó các ông không tin Đức Giê-su Phục Sinh? Phải chăng, vì lúc ấy tâm hồn  các ông đang mang nặng tâm trạng “người đi một nửa hồn tôi chết, còn nửa hồn kia bỗng dại khờ”?
Vâng, rất có thể là vậy, bởi, sau những ngày Đức Giê-su bị bắt và bị chết treo trên thập giá tại đồi Golgotha, các môn đệ tuy sống nhưng cũng như đã chết, các ông mất phương hướng, cuộc sống của các ông chỉ còn lại sự sợ hãi và âu lo, sự âu lo và sợ hãi. Sự sợ hãi đã khiến các ông cảm thấy như “hồn đã chết”. Sự âu lo đã làm cho các ông cảm thấy “hồn kia bỗng dại khờ”…
Hãy nhìn xem, chung quanh các ông là  đầy dẫy những tin đồn bất lợi. Nhóm thượng tế và kỳ mục đã có một hành động hết sức “ma mãnh”. Họ chi một một số tiền lớn cho bọn lính canh mộ và bảo nhóm lính đó hãy  tung tin đồn rằng, vào ban đêm “các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác”, và đó chính là nguyên nhân khiến nỗi dại khờ càng tăng cao trong hồn các ông.
Chính nỗi “dại khờ” tăng cao đã làm cho những nguồn tin về Thầy Giêsu, như nguồn tin bà Maria Macdala thuật lại cho các ông, rằng “Tôi đã thấy Chúa”, trở nên “vớ vẫn” đến lạ kỳ. Ngay cả một nguồn tin thân cận, do hai người môn đệ trong lúc “nhọc nhằn lê gót chân buồn” trở về làng Emmau, cho biết, họ đã gặp Thầy Giêsu và họ “nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”, vẫn chưa đem đến cho các môn đệ niềm tin Đức Giê-su Phục Sinh.
Vâng, hôm đó, trong khi các ông còn đang băn khoăn về những nguồn tin trên, thì “chính Đức Giêsu đứng giữa các ông…” Với một động tác quen thuộc, Đức Giê-su Phục Sinh đưa tay về phía các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Là một lời chúc bình an, ấy thế mà các ông lại bất an, bất an đến nỗi Phêrô cũng như toàn thể đồng môn sửng sờ  “kinh hồn bạt vía”.
Không thể tin được, mới chỉ có chưa đầy ba ngày mà các ông đã không nhận ra  dung nhan Đức Giêsu. Hôm trước, hôm bà Maria Mác-da-la ra ngôi mộ, khi  gặp Đức Giê-su Phục Sinh, bà ta tưởng là “người làm vườn”, còn hôm nay, tệ ơi là tệ,  các ông lại tưởng Thầy mình “là ma”…
Đúng là Thầy Giê-su đã trỗi dậy từ cõi chết – Hôm ấy, Đức Giêsu tiến về phía các ông và nói: “Sao lại hoảng hốt. Sao lòng anh em còn ngờ vực. Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà. Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?” 
Như người mục tử xót xa nhìn đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt, Đức Giêsu nói với các ông rằng: “Tất cả những gì sách luật Môse, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”.  Và cuối cùng Người “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”.
Người ta có nói “Kẻ thù của niềm tin là sự sợ hãi chứ không phải sự nghi ngờ”. Hôm đó, Đức Giêsu quả đúng là một bậc thầy về tâm lý. Ngài đã không trách cứ các môn đệ về sự nghi ngờ của các ông. Đức Giê-su, trái lại, chỉ gửi đến các môn đệ  một lời truyền dạy, như để các ông xác tín về niềm tin của mình, lời truyền dạy, rằng: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại…”, và rằng :  “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”
Các môn đệ có vâng nghe và thực thi lời truyền dạy của Đức Giê-su không? Vâng, hỏi để mà hỏi mà thôi. Các môn đệ, tuy, lúc đầu có thoáng chút nghi nan, nhưng sau này, nhất là sau khi nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần, các ngài đã trở thành những “chứng nhân” đích thực của Đức Giê-su Phục Sinh.
Thật vậy, sau này, dù phải đối mặt với các tư tế, các kỳ mục, các kinh sư,  dù các Tông Đồ bị đánh đòn và cấm rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh, nhưng những hình phạt đó vẫn không làm cho các ông “hoảng hốt”. Ông Phêrô và các Tông Đồ khác vẫn hiên ngang làm chứng rằng “Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ… đã giết… nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết, về điều này chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3, …13-14).
Một điều cũng nên biết, hầu hết tất cả các tông đồ  đều đã “tử đạo” để làm chứng cho niềm tin cứu độ, niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Máu tử đạo của các tông đồ đã xóa tan đi  “lời than phiền” năm xưa của Đức Giêsu  đối với các ông, rằng “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?”.
Cuộc đời của một Ki-tô hữu là một cuộc lữ hành, cuộc lữ hành về Thiên Quốc. Cuộc lữ hành này, có phần chắc, không êm đềm như mặt nước mùa thu. Sẽ có nhiều sóng gió, sóng gió của chiến tranh, của khủng bố. Nó sẽ làm cho chúng ta “hoảng hốt”, hoảng hốt trước chết chóc, đói kém, bệnh tật, mất mát nhà cửa, mất mát người thân yêu v.v…
Sẽ có nhiều sóng gió, sóng gió của chủ thuyết, đại loại như chủ thuyết hiện sinh, chủ thuyết duy vật vô thần… Nó, không nhiều thì ít, sẽ làm cho ta  “ngờ vực”,  ngờ vực trước những lời tuyên cáo mà chủ thuyết đưa ra như “Thượng Đế đã chết rồi” hoặc những lời miệt thị xách mé, rằng thì-là-mà “thằng trời đi chỗ khác chơi, để cho nông hội tiến lên làm mùa” v.v…
Vâng, nếu hôm nay Đức Giê-su hiện đến bên chúng ta, hẳn nhiên, Ngài cũng sẽ nói với chúng ta rằng, “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?”.  Tại sao lại hoảng hốt? Cớ gì lại ngờ vực? Phải chăng là vì chúng ta  không có sự bình an của Chúa? Phải chăng là vì chúng ta quên đi lời phán truyền của Ngài?
Hãy nghe, Đức Giêsu, trong bữa tiệc ly, Ngài đã nói rằng: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14 : 27).
Bình An Chúa ban “không theo kiểu thế gian”, đó chính là bình an trong nghịch cảnh. Sự bình an trong nghịch cảnh chấp nhận thương đau, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ… Và một khi chấp nhận thương đau, chấp nhận từ bỏ, chấp nhận hy sinh thì đó chính là lúc chúng ta trở thành “khí cụ bình an của Chúa”.
Một khi trở thành khí cụ bình an của Chúa, hãy tin, cuộc lữ hành về Thiên Quốc của chúng ta sẽ là một cuộc lữ hành “bừng cháy” tình yêu thương, một tình yêu thương giống như chính tình yêu mà Đức Giê-su đã thể hiện trên thập giá, đó là “hy sinh mạng sống vì người mình yêu”.
Thưa Bạn, bộ mặt của thế gian rồi sẽ thay đổi, và những chủ thuyết của nó rồi sẽ lụi tàn, nhưng niềm tin Đức Giê-su Phục Sinh thì không. Bạn có tin thế không? Dù bạn và tôi không tin, nó đã và đang xảy ra như chúng ta đã thấy và đang thấy.
Đức Giê-su Phục Sinh của năm nay cũng chính là Đức Giê-su Phục Sinh mà các thánh tông đồ đã gặp vào “ngày thứ nhất trong tuần” năm xưa, mà các ông đã đặt niềm tin vào Người.
Làm thế nào để chúng ta có được niềm tin mạnh mẽ như các thánh đồ năm xưa? Thưa, rất giản dị. Hãy để một vài phút thinh lặng và hãy cất tiếng nguyện cầu, lời khẩn cầu tha thiết, rằng: “Xin Thầy ở lại với chúng con, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn”. Đừng quên, nhờ lời khẩn cầu tha thiết này mà hai môn đệ trên đường về Emmau đã có cơ hội nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh như thế nào.
Vâng, thế giới hôm nay, với cuộc chiến đẫm máu giữa ISIS  và các nước ở Trung Đông, rồi cuộc chiến “thổ tả” ở Ukraine do nhóm thân Nga khởi xướng, cộng với cuộc nội chiến ở Châu Phi, cùng với cuộc chạy đua vũ trang của các nước ở quanh Biển Đông, nó như lời cảnh  báo cho chúng ta biết rằng, thế giới “sắp tàn” rồi.   
Thế nên, một lần nữa, hãy tự hỏi, tôi đã nhận ra Đức Giê-su Phục Sinh chưa? Nếu đã nhận ra, chúng ta hãy dành thêm một phút để cùng nhau nguyện cầu, rằng: “Lạy Chúa Kitô phục sinh, Chúa luôn đồng hành cùng chúng con trong cuộc sống. Xin cho tất cả chúng con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa, để chúng con luôn vui sống giữa những phiền muộn của cuộc đời. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.” (trích: Sách Lời nguyện)
“Luôn vui sống giữa những phiền muộn của cuộc đời”. Vâng, có được một cuộc sống như thế, cuộc đời Ki-tô hữu của chúng ta sẽ là một cuộc đời “chứng nhân” của bình an, của tình yêu, của hy vọng.
Nói tắt một lời, sống một cuộc sống như thế, đó chính là chúng ta đã sống trọn vẹn một cuộc sống “chứng nhân cho Đức Kitô”, một cuộc sống xưa kia Người đã truyền dạy “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”.
Petrus.tran   

Thứ Tư, 15 tháng 4, 2015

Hôm nay, tôi đã thấy Chúa?

Chúa Nhật II – PS – B

Hôm nay, tôi đã thấy Chúa?

Chúng ta đang trong mùa Phục Sinh. Thưa bạn, bạn đã thấy Chúa Giê-su Phục Sinh chưa? Có người đã thấy, đó là bà Maria Mác-đa-la.

Theo những gì kinh thánh thuật lại thì, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mác-đa-la đi ra mộ. Khi đến mộ, bà ta thấy “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”. Rồi khi nhìn vào trong mộ, bà thấy “hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài Đức Giê-su”. Khi quay lại bà thấy Đức Giê-su, nhưng bà lại tưởng đó là người làm vườn. Cho đến khi nghe được tiếng Đức Giê-su gọi tên mình “Maria”, bà mới nhận ra và cất tiếng trả lời “Rapbuni – Lạy Thầy”. Và cuối cùng, nghe lời truyền dạy của Đức Giê-su, bà ta trở về gặp các tông đồ và nói “tôi đã thấy Chúa”

Vâng, những gì bà Maria Mác-đa-la đã thấy chính là tiền đề cho niềm tin Đức Giê-su – “Người đã sống lại thật”.

“Người đã sống lại thật”, hai mươi thế kỷ đã trôi qua, Giáo Hội Công Giáo luôn trung thành với niềm tin này. Mỗi ngày Chúa Nhật, người tín hữu Công Giáo đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ, sau phần Phụng Vụ Lời Chúa, tất cả cộng đoàn cùng tuyên xưng – tôi tin Đức Giêsu Kitô “Người chịu đóng đinh vào thập giá dưới thời Phongxiô Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng. Ngày thứ ba Người sống lại đúng như lời Thánh Kinh”.

Thế nhưng, với các tông đồ xưa, để tin vào sự kiện Đức Giêsu sống lại, không giản dị chút nào, các ông, khi đó, vẫn đang ngụp lặn trong sự âu lo và sợ hãi.

Âu lo vì thần quyền, là nhóm thượng tế và các kỳ mục, họ mua chuộc nhóm lính tung tin đồn rằng “các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác”. Tin đồn đó như sợi dây thòng lọng sẵn sàng xiết vào cổ các môn đệ bất cứ lúc nào.

Còn sợ hãi ư! Vâng, như người ta thường nói “ngoại cảnh chi phối nội tâm”. Đúng thế, những lời tuyên truyền dối trá đó đã tác động rất lớn đến các ông. Tác động đến độ, các ông, ai nấy đều “sợ người Do Thái” (Ga 20,19).

Đó là chưa nói tới nhóm thế quyền Roma. Họ, đâu đó vẫn cài cắm những con mắt cú vọ theo dõi nhất cử nhất động nhóm môn đệ của Đức Giêsu.
Dẫu vậy, các môn đệ vẫn cứ hy vọng đợi chờ. Tính từ hôm thứ-sáu-buồn, ngày Đức Giêsu thọ nạn, cho đến hôm nay là “ngày thứ nhất trong tuần”… trời đã xế chiều. Sắp hết ba ngày rồi! Nhớ đến lời phán hứa của Thầy rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”, các ông không khỏi thở than: Ôi! Sao vẫn chưa thấy ứng nghiệm!

Thế rồi, vào chiều hôm ấy, đang lúc Phêrô và Gioan suy đi nghĩ lại về hiện tượng lúc buổi sáng ra mộ, chỉ thấy ngôi mộ trống. Còn các người môn đệ khác, vâng, (có lẽ) các ông đang buồn bã cất tiếng ca, ca rằng: “Chiều Chúa Nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu. Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều… Chiều Chúa Nhật buồn, lặng nghe tiếng gió đi về”… thì bất ngờ, một điều không tưởng đã xảy ra.

Nơi ở của các môn đệ quả thật có tiếng-gió-đi-về, tiếng gió của một cuộc thần hiện: “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông”. Mặc dầu nơi các ông đang ẩn náu “các cửa đều đóng kín”. Người đã hiện đến và nói rằng: “Bình an cho anh em” (Ga 20, 19).

Sau lời chào bình an, khung cảnh đìu hiu của gian phòng nơi các ông tụ tập được nhường chỗ cho sự vui mừng, các ông “vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20, 20). Thầy đó ư! Lời Thầy đã ứng nghiệm rồi sao!

Nhớ lại lời bà Maria Mác-đa-la cho biết “Tôi đã thấy Chúa” và đã “kể lại những gì Người đã nói với bà”, bây giờ các ông mới cảm thấy xấu hổ vì đã “cho là chuyện vớ vẩn” (x.Lc 24, 11). Vâng. Chính Đức Giêsu chứ không là ai khác. “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Bàn tay và cạnh sườn in đậm dấu tích của vết đinh và mũi đòng, chứng tích của cuộc khổ nạn mà Ngài đã phải trải qua.

Các ông như người chết sống lại. Mà quả thật, các ông sống cũng như chết. Sau cái chết của Thầy Giê-su, các ông mất hẳn phương hướng, chỉ còn sợ hãi và lẩn trốn.

Và hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh đến, các ông đã được “tái sinh”, tái sinh qua việc Đức Giê-su “thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”, một sự tái sinh đúng nghĩa, đó là “tái sinh trong Thần Khí”, một sự tái sinh đủ mạnh để đón nhận niềm tin, tin rằng “Người đã sống lại thật”.

Có một điều thật đáng tiếc, Tôma, hôm đó, vì không có mặt, nên đã không tin sự kiện “Người đã sống lại thật”, mặc cho tất cả các môn đệ đều xác quyết rằng, “chúng tôi đã được thấy Chúa”.

Không tin cũng không sao, nhưng có “sao” là khi ông lớn tiếng thách thức rằng, “Nếu… nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin…” Để rồi, tám ngày sau, Tôma đã phải giật thót mình khi nhìn thấy Đức Giê-su. Cũng giống như lần trước, mặc cho “các cửa còn đóng kín” Đức Giêsu hiện đến, Ngài đứng giữa các ông, cũng một lời chúc “Bình an cho anh em”, rồi Ngài bảo với ông Tôma rằng, “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.” (Ga 20, 27).

Nghe thế, Tôma đứng sững như hình hài pho tượng, nghĩ đến những chữ “nếu… nếu tôi… nếu tôi…”, có lẽ lúc đó ông ta lẩm bẩm “nếu ngày đó mình đừng (không tin), thì ngày nay có đâu buồn đau, có đâu buồn đau”!!!

Đúng vậy, nếu hôm đó Tô-ma đừng thách thức thì hôm nay ông đâu có phải buồn đau nghe Đức Giê-su nói: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Nhìn Thầy Giê-su, một Giê-su bằng xương bằng thịt, với tất cả dấu tích của cuộc khổ hình, sự hồ nghi đã biến khỏi tâm hồn của Tôma, thay vào đó là một tâm hồn tan vỡ, một tâm hồn mở ra, xác tín niềm tin của mình vào Đức Giê-su với lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).

** Thưa bạn, xin hỏi một lần nữa, bạn đã thấy Chúa Giê-su Phục Sinh chưa? Vâng, sẽ có không ít người nói: Đức Giê-su Phục Sinh đã về trời, nay, làm sao có thể thấy hay gặp Người?


Thật ra, hỏi chỉ để hỏi, với ơn Chúa, ngày nay có một số ít người cũng đã gặp, đã thấy Đức Giê-su Phục Sinh, cách này cách khác. Thánh Nữ Faustina Helena Kowalska như là một ví dụ điển hình.

Vâng, theo sử liệu ghi lại “Ngày 22 tháng 2 năm 1931, chị Faustina Kowalska trong một thị kiến đã được nhìn thấy Chúa Giêsu với những luồng sáng tình thương giãi chiếu từ Trái Tim của Người. Chúa phán bảo chị hãy nhờ vẽ một bức ảnh diễn tả thị kiến ấy với hàng chữ: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!" Chúa còn gọi chị là Tông Ðồ và Thư Ký của Tình Thương. Chúa ban lệnh cho chị viết Nhật Ký để người khác cũng được hiểu biết và tín thác vào Người.

Trong một loạt các mặc khải từ năm 1931 đến năm 1938, Chúa dạy cho chị biết rằng Tình Thương của Người không có giới hạn và rộng mở cho cả những tội nhân khốn nạn nhất. Chúa ban các phương thế đặc biệt để họ có thể đáp lại Tình Thương của Người trong đời sống, và còn ban cho chị nhiều lời hứa dành cho những ai tín thác vào Tình Thương của Người và sống nhân ái với tha nhân.” (nguồn: www.dongcong.net)

Cũng trong một thị kiến, Chúa Giê-su đã nói với chị Faustina Kowalska rằng “Cha mong có một Lễ Kính Lòng Thương Xót. Ngày Chúa Nhật Thứ Nhất sau Lễ Phục Sinh. Ngày Chúa Nhật này phải là ngày Lễ Kính Lòng Thương Xót. Cha ước mong các linh mục loan truyền tình thương vĩ đại này của Cha cho các linh hồn những tội nhân. Để tội nhân đừng sợ tiến đến với Cha...”. Và đó là lý do, hôm nay, Chúa Nhật II – Phục Sinh, toàn thể Giáo Hội long trọng “kính lòng thương xót Chúa”.

Bạn có biết nhờ đâu chị Faustina Helena Kowalska “gặp Chúa - thấy Chúa”? Thưa, đó là nhờ chị ta có lòng sùng kính “bí tích Thánh Thể”, đến nỗi hầu như mọi trang nhật ký của chị đều có nhắc đến bí tích này.


Vâng, Đức Giê-su vẫn ở cùng chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài ở ngay trong “bí tính Thánh Thể”, Ngài còn ở ngay bên cạnh chúng ta, đó là những người nghèo hèn đói khát, những người bệnh tật yếu đau, những người thân cô thế cô v.v… là những người được Ngài gọi là “anh em bé nhỏ nhất của Ta”.

Chính vì thế, chỉ cần một cử động, cử động của đôi chân bước lên “bàn Tiệc Thánh”. Chỉ cần một cử động, cử động của tâm hồn, đón nhận “Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô”, là chúng ta có thể “thấy Chúa – gặp Chúa”.

Bí tích Thánh Thể, như chúng ta biết, còn được gọi là “bí tích Tình Yêu”. Chính vì thế, chỉ cần một cử động, cử động của đôi chân, “Đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp. Đem chân lý vào chốn lỗi lầm”, là chúng ta có thể “thấy Chúa – gặp Chúa”.

Còn nữa, bí tích Thánh Thể còn được gọi là “bí tích Hiệp Thông”, chính vì thế, chỉ cần mở tấm lòng cảm thông trước sự nghèo khổ của tha nhân, cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt, là chúng ta có thể “gặp Chúa – thấy Chúa”.

Hãy nhớ rằng, Đức Giê-su đã nói, khi chúng ta làm những việc nêu trên, dù chỉ làm cho một kẻ bé nhỏ nhất, là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy.
Vâng, hãy để một phút thinh lặng, và tự hỏi, đã bao nhiêu mùa Phục Sinh đi qua, tôi đã “Làm cho chính Chúa”, một việc nào đó, chỉ cần một việc nào đó nêu trên, chưa?

Hy vọng tôi và bạn có làm, đã làm. Hãy làm ngay bây giờ, bởi, đó chính là cách tốt nhất để đem “lòng thương xót Chúa” đến với mọi người. Hãy làm ngay hôm nay, bởi, nếu có ai hỏi: là một Ki-tô hữu, bạn thấy Chúa chưa? Lúc đó, tôi và bạn sẽ không phải hổ thẹn, ngược lại, chúng ta có thể tự hào, tất nhiên là tự hào trong Chúa, mà nói: “Hôm nay, tôi đã thấy Chúa”.

Petrus.tran

Thứ Tư, 8 tháng 4, 2015

Chúa đã sống lại thật rồi, Ha-lê-lui-a.

Lễ Phục Sinh.

Chúa đã sống lại thật rồi, Ha-lê-lui-a.

“Chúa đã sống lại thật rồi, Ha-lê-lui-a. Kính dâng Người vinh quang và uy quyền. Đến muôn đời muôn thuở. Ha-lê-lui-a”. Vâng, đây là ca nhập lễ của ngày lễ Phục Sinh và đó cũng là điều mà chúng ta tuyên xưng vào mỗi Chúa Nhật, rằng “Người sống lại thật như lời Thánh Kinh”.

Thế nhưng, để tuyên xưng Đức Giêsu Phục Sinh, các môn đệ xưa,  không giản dị như chúng ta đứng đó đọc kinh tin kính. Trái lại, các ngài đã phải trải qua những thách thức, những chờ đợi, trong tâm trạng lo lắng và sợ hãi.

Thật vậy,  sau cái chết của Đức Giê-su vào hôm thứ sáu trên đồi Gôn-gô-tha, những người môn đệ của Ngài đã sống trong tâm trạng buồn hiu hắt buồn.

Với Phêrô, có quá nhiều điều khiến cho con tim ông nhức nhối. Nghĩ về Giu-đa Iscariot, ông không thể quên được nụ hôn đầy nham hiểm của y. Nụ hôn… một cử chỉ biểu lộ tình yêu và tha thứ. Buồn thay! Y lại dùng làm tín hiệu để nhận diện kẻ bị bắt bớ. 

Nghĩ lại cú “hồi mã thương” của mình đã làm đứt tai phải của Mankhô, tên đầy tớ của vị thượng phẩm. Thế mà, không hiểu tại sao Thầy Giêsu lại “sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành”…

Rồi khi nghĩ đến bản thân, Phê-rô không khỏi bối rối và hối hận về việc ông đã “thề độc” trước một người tớ gái rằng, “Tôi thề là không có biết người các ông nói đó”. 

Còn Gio-an, ông đang để cho hồn mình chìm vào khung cảnh của Gôn-gô-tha, nơi Thầy Giê-su bị đóng đinh. Làm sao ông có thể quên được hình ảnh “một tên lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn” Người. Làm sao ông quên được hình ảnh kẻ qua người lại nhục mạ Thầy Giêsu. Làm sao Gioan quên được trọng trách Thầy Giêsu đã giao phó Mẹ Maria cho mình “Đây là mẹ của anh”. Và cuối cùng, làm sao ông quên được tiếng nói nghẹn ngào của Thầy Giêsu “Thế là đã hoàn tất”.

Đêm nay, đã là hai đêm… hai đêm đợi chờ…  Chẳng lẽ lời phán hứa của Thầy Giê-su, rằng: “ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9,31) là lời phán hứa hão huyền sao đây!? 

Khi bình minh của ngày thứ nhất trong tuần sắp đến… Khi Phê-rô và Gio-an gần như tuyệt vọng trong sự đợi chờ, thì, các ông nghe thấy  những tiếng chân chạy.  

Tiếng chân mỗi lúc một gần hơn. Thì ra, đó là một người phụ nữ. Người phụ nữ đó, với khuôn mặt đầy sự căng thẳng, tay chân run lẩy bẩy, lắp bắp nói với Si-mon Phê-rô: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” (Ga 20,1-2). 
Người phụ nữ này chính là bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Bà ta là người đã được Đức Giê-su trừ quỷ và chữa bệnh. Hôm đó, hôm Đức Giê-su bị bắt và bị giết chết, bà ta đã theo chân Người suốt con đường từ dinh Philato đến tận đỉnh đồi Gôn-gô-tha. Chính mắt bà chứng kiến cảnh hành hình và cái chết của Ngài. 

Bà không thể lầm nơi Đức Giê-su được chôn cất. Đó là gần nơi Đức Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, trong mảnh vườn ấy có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai.

Hôm ông Giô-sếp, người A-ri-ma-thê, được tổng trấn Phi-la-tô cho phép nhận thi hài Đức Giê-su để chôn, “bà và một bà khác cũng tên là Maria…” thấy rõ ràng ông ta đã “lấy tấm vải gai sạch mà liệm, và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá”. Sau đó “ông lăn tảng đá to lấp cửa mồ rồi ra về” (x.Mt 27, …60)

Vậy mà hôm nay, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, khi đến mộ, bà Ma-ri-a Mác-đa-la “thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”.

Sau khi nghe những lời kể của Maria Mác-đa-la, không một chút đắn đo, Phê-rô và Gio-an lập tức ra khỏi nhà.   

Ra khỏi nhà, “Cả hai người cùng chạy”. Khi tới ngôi mộ, nơi Thầy Giê-su đã được mai táng, đúng y như lời kể của Maria, một cảnh tượng khác thường đã xảy ra. Các ông chỉ thấy “những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại…” (Ga 20,..7). 

Không hiểu tại sao những “băng vải tẩm thuốc thơm quấn thi hài Đức Giêsu” nay đã được “xếp riêng ra một nơi”…  Đức Giê-su đâu? Các ông không thấy, tuy nhiên, khi nhìn nhưng sự khác thường đó, Gio-an “đã tin”. Sau đó, chuyện kể tiếp rằng: “Các môn đệ lại trở về nhà”. (x.Ga 20, 10)

**
Khi trở về nhà, thật đáng tiếc, niềm tin của các ông trở nên “nửa tin nửa ngờ”. Thật vậy, sự “nghi ngờ” về việc Thầy Giêsu đã sống lại vẫn còn ẩn chứa trong tâm hồn các ông. Vì thế đã có lần khi Đức Giê-su hiện ra: “đứng giữa các ông… các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24, 36-37). 
Các môn đệ chỉ thật sự tin và tuyên xưng “Người từ cõi chết sống lại” là nhờ Đức Giê-su đã “hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” và “dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình”, và cuối cùng là “…mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (rằng) Có lời Kinh Thánh chép : Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, phải nhân danh NGƯỜI  mà rao giảng cho muôn dân”. (Lc 24,45).

Nhờ thế, tông đồ niên trưởng  Phêrô, sau này,  đã can đảm rao giảng về Đức Giêsu một cách mạnh mẽ, rằng: “Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10,40-41).

Dẫu sao cũng phải nhìn nhận rằng, chính niềm tin “đơn sơ” vào hiện tượng “tảng đá đã lăn khỏi mộ” và “ngôi mộ trống” nó như chiếc chìa khóa để  Phêrô cũng như các môn đệ khác, mở lòng ra, tin rằng, Đức  Giêsu “Người đã trỗi dậy từ cõi chết”.

*** Đức Giê-su Ki-tô từ trong cõi chết, Ngài đã Phục Sinh. Vâng, đó là điều mà hôm nay, khoảng hai tỷ người tin và đón nhận như là cứu cánh cho cuộc đời mình.

Thế nhưng, thật đáng buồn là sự kiện “Đức Giêsu Kitô Phục Sinh” vẫn luôn là đề tài gây nhiều tranh luận trái chiều.
Thật vậy, không phải chỉ có các thượng tế và kỳ mục khi xưa đạp đổ niềm tin Đức Giêsu Phục Sinh bằng cách dùng thủ đoạn hối lộ “cho lính một số tiền lớn” để họ vu khống lên rằng, “các môn đệ của (Giêsu) đã đến lấy trộm xác”.

Hôm nay, vẫn còn không ít người, vẫn kiên trì dùng những thủ đoạn đó. Họ đưa ra những sự dối trá và lừa lọc rất thâm độc để tấn công Hội Thánh Chúa, đả phá sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô.

Mãnh liệt nhất là từ đầu thập niên 1990 đến nay, khắp nơi trên thế giới bùng lên phong trào chống Ki-tô giáo. Có hàng trăm cuốn sách, có hàng ngàn bài báo tấn công mọi mặt về niềm tin Đức Giê-su Phục Sinh nói riêng và về Giáo Hội nói chung.  

Triết gia người Đức, David Strauss, đã nêu lên vấn đề này trong tác phẩm “The life of Jesus critically examined” với lập luận cho rằng: Các tín hữu đầu tiên của Kitô giáo đã cố tìm mọi cách để gán cho Giêsu đủ thứ huyền thoại về một Đấng Cứu Thế mà mọi người mong đợi. Tác giả cuốn sách cố chứng minh rằng, Đức Giêsu của Kinh Thánh chỉ là một Giêsu của huyền thoại.

Việt nam cũng không kém cạnh gì. Những tác phẩm “ruồi trâu – ruồi bò” hồi thập niên 1970 cũng đã đóng góp tích cực cho sự đả phá Giáo Hội Công giáo.

Có lẽ, chúng ta không cần tranh luận gì về những điều mà họ đã viết. Tại sao? Thưa, bởi những gì họ đã viết đều có một điểm chung, đó là “sự dối trá và lừa lọc”. Mà “dối trá và lừa lọc” thì, như lời của Benjamin Franklin nói, đó chỉ là:  “hành động của kẻ ngu xuẩn không có đủ trí óc để trung thực.”
Vâng, là một Ki-tô hữu, để không bị sự dối trá và lừa lọc của thế gian làm ảnh hưởng đến niềm tin, không gì tốt hơn là hãy nghe chính Lời Chúa qua Thánh Kinh.

Thánh Kinh không thể lừa dối chúng ta, bởi những gì đã được viết trong Thánh Kinh, nếu là sự lừa dối, tất nhiên không thể tồn tại đến hôm nay.

Abraham Lincoln có nói “ai đó có thể lừa dối một số người trong một lúc, và lừa dối hết mọi người trong vài lúc, nhưng không thể mãi mãi lừa dối được tất cả mọi người.”

Vì thế, thật phải đạo khi hôm nay, chúng ta hãy nghe lại lời Chúa Giêsu đã phán khi xưa, rằng, “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26)

Và cũng đừng quên, nơi bàn tiệc Thánh Thể, với niềm tin, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu Phục Sinh, một Giêsu đã phán hứa rằng, “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54).

Trở lại câu chuyện Phêrô và Gioan. Ra tới mộ, hai ông chỉ thấy ngôi mộ trống. Không thấy “Vinh quang Phục Sinh” của Thầy Giêsu, nhưng hai ông đã tin. Nhắc lại điều này để chúng ta thấy rằng, niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh không phải là “thấy mới tin” nhưng là nhờ “tin mà thấy”.

****
Hôm nay, Chúa Nhật 05.04.2015, một lần nữa, chúng ta kỷ niệm mừng Chúa Giê-su Phục Sinh. 

Như đã nói ở trên, ngày nay vẫn còn không ít người, cách này cách khác,  phủ nhận sự Phục Sinh của Đức Giê-su. Chính vì thế, hôm nay, không phải là các tông đồ, các giáo phụ, mà là chính chúng ta, chính chúng ta phải chứng minh cho thế giới biết rằng “Chúa đã sống lại thật rồi”.
Chứng minh bằng cách nào? Phải chăng là phải đổi lấy mạng sống mình như các thánh Tê-pha-nô, Phê-rô, Phao-lô xưa? Thưa, xét thấy nếu cần, thì cũng cần phải làm như thế. Tuy nhiên, thực tế nhất, chỉ cần chứng minh bằng chính đời sống của chúng ta.

Trong cuộc sống thường nhật, chỉ cần mỗi chúng ta biết “Đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp”, một cách gián tiếp, đó là cách chúng ta cho mọi người thấy, một Đức Giê-su chết, nay đã sống lại, qua con người chúng ta.

Trong cuộc sống, chỉ cần mỗi chúng ta biết “Tìm an ủi người hơn được người ủi an… Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu”, đó… đó chính là cách chúng ta chứng minh cho thế giới biết, một Đức Giê-su chết, nay đã sống lại, qua con người chúng ta.

Nếu chúng ta chấp nhận “hiến thân, quên mình” vì bạn hữu, vì tha nhân, một cách gián tiếp, chúng ta cho mọi người thấy, một Đức Giê-su chết, nay đã sống lại qua con người chúng ta.

Nói tắt một lời, là một Ki-tô hữu, nếu chúng ta biết kiện toàn những điều được nêu trên, hãy tin, ơn Chúa, một lúc nào đó, cũng sẽ có một ai đó, có thể là một người bạn của ta, hay một đồng nghiệp của ta, hoặc một người hàng xóm của ta, sẽ cùng ta đồng thanh cất tiếng tuyên xưng “Chúa đã sống lại thật rồi, Ha-lê-lui-a”.

Petrus.tran







Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...