Thứ Ba, 29 tháng 9, 2015

Ai… thuộc về Đấng Ki-tô?

Ai… thuộc về Đấng Ki-tô?

Chúa Nhật XXVI – TN – B

Ai… thuộc về Đấng Ki-tô?

Kinh Thánh Tân Ước có ghi lại ba lần Đức Giê-su tiên báo cuộc tử nạn và sự Phục Sinh của mình. Sau mỗi lần tiên báo, là thêm một lần Ngài có một bài giáo huấn đặc biệt dành riêng cho các môn đệ.
Với lần tiên báo thứ nhất, Đức Giê-su đã dạy các môn đệ, rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

Với lần tiên báo thứ hai, Đức Giê-su đã dạy các ông một quan điểm mới về vai vế của người môn đệ, đó là: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Cũng trong dịp này, Ngài còn dạy các ông một cách nhìn mới đối với những ai “lấy danh Thầy” để thực hiện một việc tốt lành nào đó.

Theo như câu chuyện được kể lại, thì, hôm đó, có một người môn đệ tên là Gio-an, đại diện cho nhóm Mười Hai, đến với Đức Giê-su và nói với Ngài rằng: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ” (x.Mc 9, 38).

Chuyện thật vậy sao! Từ khi Đức Giêsu bắt đầu thực thi sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Công việc đầu tiên của Ngài, đó là tuyển chọn một số môn đệ. Theo thánh sử Máccô kể lại thì, Đức Giêsu đã “lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và Người sai các ông đi rao giảng với quyền trừ quỷ” (Mc 3, 14-15).

Không chỉ tuyển chọn mười hai môn đệ, Đức Giêsu còn “chỉ định bảy mươi hai người khác” với mục đích “sai các ông từng hai người một vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến” và nói với mọi người rằng “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”.

Nhóm bảy mươi hai người này, khi trở về đã hớn hở nói với Đức Giêsu rằng “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con” (Lc 10, 17).

Có thể nói, đây là niềm hãnh diện và cũng là niềm tự hào của các môn đệ sau những năm tháng theo Đức Giêsu.

Thế mà hôm nay, có vẻ như, niềm hãnh diện và tự hào của các ông như bị tổn thương khi các ông khám phá ra rằng, ngoài các ông ra, cũng có người, có khả năng “trừ quỷ” như các ông.
Dường như các môn đệ đã xem những kẻ đó là “hàng giả, hàng nhái” nên đã nói với Thầy của mình rằng: “Chúng con đã cố ngăn cản”. Và các ông cho rằng đó là việc phải làm “vì họ không theo chúng ta”.

Họ đã không theo chúng ta thì đã sao! Vâng, hôm đó, thay vì sai một vài môn đệ theo dõi nhóm người “lấy danh Thầy” thuộc nhóm nào, Đức Giê-su giải thích cho các môn đệ rằng, không thể có ai đó “lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy” (Mc 9, 39).
Các môn đệ được ban phép trừ quỷ, những người kia dùng danh Thầy cũng để trừ quỷ thì có lý gì họ “chống lại chúng ta”!

Kết thúc cho việc giải thích, Đức Giê-su nói với các môn đệ, rằng: “Đừng ngăn cản người ta”.

**
Kinh Thánh Cựu Ước có chép rằng, Thiên Chúa “Người không về phe với hàng thủ lãnh, không trọng người giàu, khinh kẻ nghèo; vì tất cả đều là công trình do tay Người tạo ra” (Gióp 34, 19).
Vì là “công trình do tay Người sáng tạo”, thế nên, Đức Giêsu đã không đặt nặng vấn đề những người lấy-danh-Thầy đã “theo chúng ta” hay chưa.

Đối với Đức Giê-su, hôm đó, điều Ngài muốn các môn đệ ngăn cản, đó là: Hãy ngăn cản những ai “lấy danh Thầy” nhưng lại “làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã”.
Đối với Đức Giê-su, điều Ngài muốn các môn đệ ngăn cản, đó là: Hãy ngăn cản chính các anh “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi…”. Còn nữa: “Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi…”. Và cuối cùng: “Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi…”

Và rồi, Ngài đã kết luận rằng: “Thà cụt một tay… thà cụt một chân… thà chột mắt… mà được vào cõi sống… mà được vào Nước Thiên Chúa, còn hơn có đủ hai tay, có đủ hai chân, có đủ hai mắt, mà phải sa hỏa ngục, mà bị ném vào hỏa ngục”.

Vâng, phải hiểu những lời kêu gọi của Đức Giêsu là nói theo cách nói “nhấn mạnh”. Bởi, nếu không, lịch sử Giáo Hội với hơn hai ngàn năm, chắc hẳn sẽ có rất nhiều người, có thể có cả chúng ta, cụt tay, cụt chân hoặc mù mắt.
***
Chắc chắn các môn đệ xưa hiểu được lời Đức Giê-su khuyên dạy. Chắc chắn các ngài suy nghĩ một cách tích cực về lời dạy của Đức Giê-su.

Thế nên, với chúng ta hôm nay, hãy hiểu rằng: nếu tay “trái” anh làm cớ cho anh sa ngã… hãy dùng tay “phải” của anh đấm ngực ăn năn hơn là thụ động chặt nó đi.

Cũng vậy, nếu chân “trái” anh tiến bước tới những nơi có nguy cơ làm cho anh ngã gục, hãy dùng chân “phải” của anh như bộ phận “cài số de” để lui ra những nơi chốn đó hơn là chặt nó đi.

Còn đôi mắt ư! Khi bàn tay biết đấm ngực ăn năn, và đôi chân biết cài-số-de, sẽ chẳng bao giờ tay chúng ta mở những trang web đen hay những trang sách báo khiêu dâm. Sẽ chẳng bao giờ chân chúng ta bước tới những vũ trường, những quán bia với những em chân dài lẳng lơ. Kết quả là, đôi mắt chúng ta không phải chứng kiến những điều dẫn tới sự sa ngã.

Kiểm soát vẹn toàn những hành vi trên cơ thể của mình, đó chính là lúc chúng ta đủ khả năng trừ được những loại “quỷ xảo trá, quỷ lừa bịp, quỷ dâm ô” những loại quỷ chỉ gây bất hòa và chia rẽ.

****

Trước một xã hội tràn ngập sự quyến rũ, tràn ngập những lời mời gọi xấu xa, nhan nhản trên những phương tiện truyền thông như: báo chí, internet v.v… để thực hiện động tác “cài số de” phải chăng, đó là một nan đề!

Đúng, đó là một nan đề. Nhưng, hãy thử nghĩ xem, nếu cần cứu lấy sinh mạng của mình, có ai mà không dám giải phẫu cắt một phần thân thể?

Mà sinh mạng của chúng ta đâu chỉ có phần xác , còn có cả phần linh hồn.

Thế nên, đừng ngại gì mà không “cắt đi” một tật xấu, đại loại như: nóng giận, tranh chấp, bè phái v.v… là những tật xấu có hại cho cộng đồng. Đừng ngại gì mà không “chặt đi” một thói quen, đại loại như: vu khống, ganh tỵ, say sưa chèn chén v.v… là những thói quen dễ làm tổn thương kẻ khác, và nhất là có thể làm cho chính ta gây dịp tội.

Hãy nhớ, chỉ có như thế, chúng ta mới đáp ứng được những đòi hỏi của Đức Giê-su, những đòi hỏi giúp chúng ta không nằm trong số những kẻ bị “buộc cối đá lớn vào cổ… mà ném xuống biển còn hơn”.

Cuối cùng, khi chúng ta biết “cắt đi” hay “chặt bỏ” những thói hư tật xấu nêu trên, đó chính là lúc chúng ta tạo được một chiếc cầu, chiếc cầu, nối chúng ta với những người “không theo chúng ta” một cách trực tiếp, giúp chúng ta làm cho những người đó, trở-nên-một, một cộng đoàn “thuộc về Đấng Ki-tô”.

Petrus.tran


Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2015

Bạn là người lớn nhất!

Chúa Nhật XXV – TN – B

Bạn là người lớn nhất!

Là người Ki-tô hữu, chúng ta có nghĩ, mình là một công dân Nước Trời? Vâng, có lẽ, không ít người trong chúng ta sẽ cho rằng, đây là một câu hỏi thừa. Thừa, là bởi, một người Ki-tô hữu, là người tin vào Chúa Giê-su, đã được rửa tội và được lãnh nhận các phép Bí Tích, tất nhiên được gọi là con cái Chúa, không là công dân Nước Trời thì là công dân của ai!

Đúng, suy nghĩ như thế không sai, nhưng chưa đủ. Muốn được là một công dân Nước Trời, Đức Giê-su còn có một lời khuyên dạy, rằng: “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”.
Nói tới trẻ em ư! Vâng, đó là thành phần luôn được Đức Giê-su ưu ái và quan tâm đến, Ngài luôn dùng hình ảnh trẻ thơ như là tiền đề cho những lời giáo huấn về cách sống của một công dân Nước Trời.

Thật vậy, vào một dịp Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um, Ngài đã “đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông” như là một hình ảnh sống động, để dạy các ông một bài học: Ai là người lớn hơn hết trong Nước Trời. (x.Mc 9, 30-37)

Như chúng ta biết, trong cuộc sống thường nhật, có ai mà không muốn mình có được chức tước, địa vị cao trong xã hội. Chả vậy, Nguyễn Công Trứ, một nhà quân sự và cũng là một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử cận đại của Việt Nam, đã có thơ rằng: “Làm trai đứng ở trong trời đất. Phải có danh gì với núi sông”.

Vậy đó, chính vì “phải có danh gì”, nó đã nảy sinh một cuộc tranh cãi kịch liệt giữa các người môn đệ của Đức Giê-su.

Chuyện kể rằng: Sau biến cố Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor với sự chứng kiến của Phêrô, Giacôbê và Gioan, và sau khi chữa lành một người bị quỷ ám, các môn đệ đã cùng với Thầy của mình rời khỏi đó và đi băng qua miền Galilê.

Tại đây, một lần nữa, Đức Giê-su dạy các môn đệ về việc “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9, 31)

Lời dạy dỗ này “các ông không hiểu”. Không hiểu, nhưng “các ông sợ không dám hỏi lại Người” (x.Mc 9, 32)

Trước lời tiên báo sinh ly tử biệt của Đức Giê-su, nếu bạn là môn đệ của Ngài lúc đó, bạn sẽ phản ứng thế nào? Phải chăng là sẽ cất lên tiếng hát não nề, rằng: “Trên đường về nhớ đầy. Chiều chậm đưa chân ngày. Tiếng buồn vang trong mây. Tiếng buồn vang trong mây”?

Vâng, với suy nghĩ của người đời, đúng là “tiếng buồn vang trong mây” khi biết tin một Giê-su đầy quyền uy, vừa mới “biến đổi hình dạng” trên núi cao, một Giêsu vừa mới “quát mắng tên quỷ…” khiến cho quỷ thét lên trước quyền phép của Ngài… thế mà sẽ phải “đi chết” sao!

Với các môn đệ năm xưa, các ông đã không cất tiếng hát. Suốt cuộc hành trình về Ca-pha-na-um, trong thinh lặng, các ông có nhiều dòng suy nghĩ khác nhau, chính những dòng suy nghĩ khác nhau đó, đã dẫn đưa các ông đến một cuộc tranh cãi kịch liệt. Các ông tưởng rằng, Đức Giê-su không biết gì về chuyện này. Nhưng, bé cái lầm, Đức Giê-su biết hết. Thế nên, Ngài đã hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?”

Mười hai môn đệ với hai mươi bốn con mắt nhìn nhau. Chuyện kể tiếp rằng: “Các ông làm thinh… ”, làm thinh “…vì khi đi đường các ông cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (x.Mc 9, 34).

Về chuyện này, thánh Mát-thêu nói rõ hơn, rằng: Các ông cãi vã về việc “Ai là người lớn nhất trong Nước Trời”. (x.Mt 18, 1)

**
Có bao giờ chúng ta tự hỏi, các môn đệ xưa đã “lời qua tiếng lại” với nhau như thế nào?

Phải chăng, ông Mát-thêu đã nói: “Tôi là một tay cán bộ thuế vụ. Tiền vào như nước. Thế mà tôi đã bỏ hết để theo Thầy Giê-su. Vậy, có gì ngăn cản tôi không là người lớn nhất trong Nước Trời”?

Phải chăng, Giacôbê và Gioan nói: “Tại sao không là chúng tôi. Chúng tôi đã được nhìn thấy Thầy biến hình đầy uy nghi”?

Phải chăng, Phê-rô sẽ nói: “Ồ không, người lớn nhất trong Nước Trời chính là tôi. Tôi… tôi đã được chính Ngài Giê-su trao cho chìa khóa Nước Trời, kia mà”?

Còn chúng ta? Phải chăng, chúng ta sẽ nói: chính là tôi, vì tôi đã đóng góp cho việc xây trung tâm này, xây giáo đường kia… hàng chục triệu “K”, kia mà?

Tất cả chỉ là phỏng đoán. Và điều… điều chúng ta cần biết, đó là thái độ và lời dạy bảo của Đức Giê-su như thế nào.

Muốn làm người lớn hơn cả ư! Muốn làm người đứng đầu ư! Vâng, Đức Giêsu đã đưa ra một quan điểm hết sức bất ngờ, ngược lại với tất cả những gì mà các ông, cũng như người đời hôm nay, nghĩ đến.

Người-đứng-đầu, theo quan điểm của Đức Giêsu, phải là người dùng-đôi-tay-để phục vụ. Người-lớn-nhất, theo quan điểm của Đức Giêsu, phải là người dùng-con-tim để hành động.

Hôm đó, Đức Giê-su ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (x. Mc 8, 35).

***
“Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Và quả thật, Ngài đã làm điều này trong bữa tiệc ly. Đó là ngày thứ năm, ngày nay, chúng ta gọi là thứ năm tuần thánh.

Hôm đó, “Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau” (x.Ga 13, 4-5).

Mười hai người môn đệ, đứng đầu là Phê-rô, đầy kinh ngạc, lên tiếng “Thưa Thầy, Thầy mà lại rửa chân cho con sao?”

Đức Giêsu là Chúa, là Thầy, là vị cứu tinh, là người lãnh đạo và là tất cả của các ông. Ôi! Tại sao Ngài tự hạ mình xuống, trở thành người thấp hèn nhất, bằng cách làm một công việc thuộc về hạng tôi đòi hèn hạ nhất sao?

Vâng, Đức Giê-su đã làm một cuộc cách mạng về vấn đề lãnh đạo. Ngài đã bỏ rơi quyền lực của một người đứng đầu. Ngài đã nói với Phê-rô “Nếu thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”.

Phê-rô, cũng như tất cả các môn đệ còn lại, phải chấp nhận, phải đầu hàng. Và rồi, khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su nói: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (x.Ga 13, 13-14).

Cuối cùng, để đóng ấn cho một dấu ấn mới về việc “ai là người lớn nhất trong Nước Trời”, Đức Giê-su long trọng tuyên bố: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi”.

Tất cả những gì xảy ra trong đêm thứ năm đó như là một thông điệp, một thông điệp đã được chính Đức Giê-su loan báo trước đó, rằng: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ”.

Ở trong Nước Trời, phục vụ chính là quyền hành. Người-Phục-Vụ chính là “người lớn nhất trong Nước Trời”.

****

“Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. (Mc 9, 35).

Tuy thánh sử Máccô không nói gì về phản ứng của các môn đệ sau lời tuyên bố của Đức Giêsu, nhưng chúng ta có thể tin rằng, sau này, các môn đệ đã hiểu và đã hối tiếc vì đã gây ra một cuộc tranh chấp quyền lực giữa các ông.

Thật vậy, nếu các ngài không hiểu và không hối tiếc thì, sau này, thánh Giacôbê, như là một đại diện cho nhóm mười hai, đã không lớn tiếng chỉ trích rằng: “Nếu trong lòng anh em có sự ghen tương, chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại…”.

Sau đó, thánh nhân nhấn mạnh: “Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có đủ thứ xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa” (Gc 3, 16).

Và lịch sử Giáo Hội đã cho thấy, ngoài các vị tông đồ tiên khởi, sau này, có không ít hậu duệ của các ngài cũng đã biết “cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi… đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân… và lấy khăn thắt lưng mà lau”, cho nhiều người khác, cách này cách khác, điển hình như Thánh Phanxicô thành Assisi và ngày nay là đương kim Giáo Hoàng Phanxicô.

*****
Hôm nay, là đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải tiếp tục công việc của Đức Giê-su vào hôm thứ năm tuần thánh, công việc “cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi… đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân… và lấy khăn thắt lưng mà lau”, cho nhiều người khác.

Có thể lúc ban đầu chúng ta sẽ cảm thấy khó khăn. Thế nhưng, cứ thử… cứ thử mỗi ngày chúng ta thực hiện “một chút thôi”.

Bất cứ quyền hành nào chúng ta đang có, hay bất cứ năng khiếu tự nhiên và ân sủng nào chúng ta được Thiên Chúa ban cho, chỉ cần chia sẻ “một chút thôi”… một chút thôi, cho người khác. Vâng, đó là cách chúng ta tiếp tục công việc của Đức Giê-su, công việc “phục vụ” một cách duyên dáng theo đúng “bài” Ngài đã dạy hôm thứ năm tuần thánh.

Vâng, chắc chắn, đây là một công việc khó thực hiện. Đặt nhu cầu của người khác trước nhu cầu của ta không dễ dàng chút nào. Nó đi ngược lại bản năng của con người, bản năng “cái tôi” của mình.

Thế nhưng, vì là một Ki-tô hữu, vấn đề không phải là dễ hay khó, vấn đề là tôi có nhìn nhận mình là “kẻ được sai đi” hay không? Chính việc xác định mình là “kẻ được sai đi”, nó giúp cho chúng ta ý thức được cuộc sống của mình luôn là “ngày thứ năm tuần thánh”.

Và khi ý thức được cuộc sống của mình luôn là “ngày thứ năm tuần thánh”, vâng, chẳng có điều gì ngăn cản chúng ta “cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi… đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân… và lấy khăn thắt lưng mà lau”, cho nhiều người khác, tùy theo hoàn cảnh cuộc sống của mình.

Hãy tin, chính việc làm này, chúng ta sẽ được Đức Giê-su, vào ngày trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Ngài sẽ gọi tên ta và nói , “Này bạn, bạn là người lớn nhất trong Nước Trời”.
Petrus.tran

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2015

Đối với tôi, Đức Giê-su là ai?


Chúa Nhật XXIV - TN – B

Đối với tôi, Đức Giê-su là ai?

Là một Ki-tô hữu, là người tin vào Đức Giê-su. có bao giờ chúng ta tự hỏi: “Giờ này, đối với tôi, Đức Giê-su là ai?”.

Đức Giê-su là ai? Đó là một câu hỏi đã làm thổn thức cho rất nhiều học giả, đã làm tốn kém không biết bao nhiêu giấy mực trong giòng chảy văn hóa của con người.

Ki-tô giáo đã có hơn hai ngàn năm. Tất nhiên nhân loại ít nhiều cũng đã biết Đức Giê-su là ai. Thế nhưng, những cái “biết” của nhân loại thường thì để thỏa mãn tính hiếu kỳ và có đôi lúc để xúc phạm hoặc là để châm biếm rằng thì-là-mà một ông Giê-su chỉ là con bác thợ mộc, cớ sao lại là người đến thế gian, để thế gian nhờ đó mà được cứu độ?

Với chúng ta, là một Ki-tô hữu, đặt câu hỏi Đức Giê-su là ai, là để biết, để sống, để yêu, để dấn thân, để phục vụ…  như Ngài, và nếu cần, để sẵn sàng chết như Ngài.

Thế nên, thật phải đạo khi chúng ta trở về vùng Xê-da-rê Phi-lip-phê, nơi được biết đến, xưa kia, chính Đức Giê-su cũng đã đặt ra một câu hỏi với các môn đệ của mình, rằng “anh  em bảo Thầy là ai?”, để xem các môn đệ đã trả lời ra sao và câu trả lời đó có phải cũng là câu trả lời của chúng ta hôm nay, hay không?

**
Vâng, câu chuyện được kể lại rằng: Hôm đó, Đức Giê-su cùng các môn đệ  của Người đi  tới các làng mạc vùng Xê-da-rê Phi-lip-phê. Dọc đường, Người đã hỏi các môn đệ, rằng: “Người ta nói Thầy là ai?”

Thầy là ai ư! Thưa, hôm đó, các môn đệ đã nói với Đức Giê-su rằng: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ  thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (x.Mc 8, 28)

Nghe những lời tường trình đó, không thấy Đức Giê-su xác nhận hay phủ nhận. Chỉ thấy Ngài tiếp tục đặt thêm một câu hỏi,  một câu hỏi dành riêng cho các môn đệ. Ngài hỏi rằng: “Còn anh em, anh  em bảo Thầy là ai?”

Thầy là ai ư! Vâng, tuy đã theo Thầy Giê-su đã lâu và được thấy nhiều việc Ngài đã làm, từ những lời giảng dạy như một “Đấng có thẩm quyền”, đến những phép lạ vô tiền khoáng hậu, như trừ quỷ, chữa khỏi bất cứ ai ốm đau hoặc mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, thế nhưng, các ông vẫn không thể nói lên được một lời nhận định về Thầy của mình.

Rất may, hôm đó, duy nhất… duy nhất chỉ có một mình tông đồ Phê-rô lên tiếng trả lời. Ông đã trả lời, rằng: “Thầy là Đấng Ki-tô”.

***
“Thầy là Đấng Ki-tô”. Thật ra, không chỉ mình Phê-rô nói lên được  lời tuyên xưng này. Tại Giê-ru-sa-lem cũng đã có người nói  Đức Giê-su “là Đấng Ki-tô” (x.Ga 7, 41).

Vấn đề ở đây là Đấng Ki-tô mà người Do Thái nói đến là một Ki-tô thế tục, một Ki-tô  sẽ làm vua Israel, một Ki-tô  sẽ đứng lên chống lại đế quốc Roma, một đế quốc đang cai trị Israel, để tái lập lại đất nước Israel mới.  Có vẻ như Tông đồ Phê-rô cũng có cùng suy nghĩ như những người Do Thái.

Đúng vậy,  khi Đức Giê-su tiếp tục nói với các ông, rằng: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”, phản ứng của Phê-rô sau lời tuyên bố của Đức Giê-su là “trách Người”.

“Thầy là Đấng Ki-tô”. Đúng, một Đấng Kitô là vua, nhưng chỉ là vua, sau khi “từ cõi chết trỗi dậy”. Thế nên, Ngài đã nói cho Phêrô cùng nhóm môn đệ rằng: “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

****
Tư tưởng của Thiên Chúa, đó là: Đức  Giê-su là  Đấng Ki-tô nhưng là Đấng Ki-tô “phải được giương cao”, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời".

Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, một Đấng Ki-tô đã được Đức Giê-su mô tả như là “một cây nho” như có lần Ngài nói “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong kẻ ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy anh em  chẳng làm gì được” (x.Ga 15, 5).

Thế nên, là một Ki-tô hữu, chúng ta không chỉ cần biết đến Đức Giê-su qua việc học giáo lý hay qua những chân lý mà Giáo Hội Công Giáo dạy, nhưng còn cần phải có được một đời sống liên kết mật thiết với Đức Giê-su như cành nho và cây nho. Không có sự liên kết mật thiết với Đức Giê-su trong đời sống của mình, chúng ta chưa thể trở thành một Ki-tô hữu đích thực.

Ki-tô hữu đích thực không thể tách khỏi Đức Giê-su Ki-tô.  Không có  Đức Giê-su Ki-tô, người Ki-tô hữu đích thực hết là Ki-tô hữu đích thực. Người Ki-tô hữu đích thực, vì là một cành nho trong một cây nho là Đức Giê-su Ki-tô, nên được gọi là “Alter Christus – Ki-tô khác”.

Tông đồ Phao-lô đã có được sự cảm nghiệm này trong đời sống đức tin của mình. Ngài đã nói lên niềm xác tín này với cộng đoàn Ga-lát, rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (x.Gl 2, 20)

Thế nên chúng ta… chúng ta cũng cần có được sự cảm nghiệm này trong đời sống đức tin của mình. Bởi vì, chỉ có sự cảm nghiệm này, chúng ta mới có thể, có câu trả lời chính xác cho câu hỏi: “Giờ này, đối với tôi, Đức Giê-su là ai?”

*****
Giờ này, đối với tôi, Đức Giê-su là ai? Vâng, có một lời chia sẻ, tuy đã cũ, nhưng thiết tưởng vẫn còn giá trị cho chúng ta hôm nay.

Linh mục Jude Siciliano, OP, chia sẻ, rằng “Vào những giai đoạn khác nhau trong đời, chúng ta cũng bị chất vấn những câu như thế và chúng ta phải trả lời chứ không chỉ dừng lại công thức tuyên xưng đức tin hay câu trả lời mà chúng ta học được từ các lớp giáo lý khi còn là trẻ con, nhưng phải là câu trả lời từ một đức tin trưởng thành được nuôi dưỡng bởi các bí tích, bài đọc, các cơ hội học hỏi trong giáo xứ, qua cầu nguyện, suy tư Lời Chúa – cũng như những gì chúng ta học được từ nỗ lực nhằm trả lời cho những thiếu thốn của con người và thế giới quanh ta”.

Đúng vậy, nếu câu trả lời của chúng ta chỉ là những câu tuyên xưng ngoài môi miệng thì, chẳng khác nào, như lời tông đồ Giacôbê nói “mình có đức tin mà không hành động theo đức tin”.

Hãy tưởng tượng, mỗi Chúa Nhật, chúng ta sốt sáng tham dự thánh lễ, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng đã “chịu nạn chịu chết để chuộc tội” cho chúng ta… Thế nhưng,  chúng ta lại phớt lờ lời Chúa dạy dỗ “anh em hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em”, chúng ta thờ ơ, trước biết bao con người “…. Đang ngồi quanh đây trán in vết nhăn. Đêm nằm nghe lòng quặn sôi lên giữa cơn mộng lành”… Tuyên xưng như thế, thánh Giacôbê nói,  thì “nào có ích lợi gì”.(Gc 2, …14).

Vâng, chẳng có ích lợi gì “cho những thiếu thốn của con người và thế giới quanh ta” và điều đó tố cáo chúng ta là những kẻ, tuy có “đức tin”, nhưng chỉ là thứ  “đức tin không có hành động… đức tin chết”.

Để cho lời tuyên xưng sống động, chúng ta phải hành động, một hành động dám sống một cuộc sống phản ảnh trung thực một hình ảnh Đức Giêsu “hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu”, dám “từ-bỏ-chính-mình, vác thập giá mình hằng ngày”, thập giá của tình yêu thương “không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù” (1Cor 13, 4-5)

Hãy thử nghĩ xem, nếu ai trong chúng ta  đều có một đời sống “không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù” thì, trong gia đình, làm sao có thể xảy ra cảnh đâm-cha-chém-chú, làm sao có thể vì chút khó khăn, chút buồn phiền mà vợ hoặc chồng phải cất lên tiếng ca “Thôi là hết em đi đường em… Tình duyên mình chỉ bấy nhiêu thôi” v.v… Trái lại, gia đình chúng ta sẽ là một gia đình “Anh em hòa thuận. Vợ chồng ý hợp tâm đầu”.  Còn ngoài xã hội thì sao! Có phần chắc là, nơi chúng ta ở sẽ là một nơi “láng giềng thân thiết”.

Vâng, có thể kết luận rằng, thực hiện những điều nêu trên, đó là cách tuyên xưng sống động nhất, một lời tuyên xưng mang nhãn hiệu “Mến Chúa – Yêu người”, điều mà chính Đức Giê-su mời gọi. 

Nói cách khác, đó chính là câu trả lời tuyệt hảo nhất cho câu hỏi “Giờ này, đối với tôi, Đức Giê-su là ai?”

Petrus.tran

Chủ Nhật, 6 tháng 9, 2015

Tai tôi mở và miệng nói được rõ ràng!

Chúa Nhật XXIII – TN  - B

Tai tôi mở và miệng nói được rõ ràng!

Thượng Đế tạo dựng nên con người. Người đã đặt để trong  con người ngũ giác, là năm giác quan của cơ thể giúp con người tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Năm giác quan đó là: Thị giác để nhìn. Thính giác để nghe. Vị giác để phân biệt mặn ngọt chua cay. Khứu giác để nhận ra mùi vị. Xúc giác để cảm nhận đau đớn, nóng lạnh.

Với ngũ giác quan của cơ thể, thật khó để nói cái nào lợi ích hơn cho con người. Thị giác ư! Hay là thính giác?

Với người khiếm thị, đó là thị giác. Còn đối với người khiếm thính, chắc chắn đó là thính giác.

Đối với Thiên Chúa,  mọi sự Người tạo dựng nên, đều tốt đẹp, đều hữu ích cho con người. Có một ai đó khiếm thính hoặc khiếm thị ư! Hãy đến với Người và như lời Đức Giê-su đã nói: “Sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” (x.Ga 9, …3).

Thật vậy, câu chuyện Đức Giê-su chữa một người vừa điếc vừa ngọng đã tỏ hiện rõ công trình của Thiên Chúa..

Vâng, câu chuyện được kể lại rằng: hôm đó “Đức Giêsu lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh”. Sự hiện diện của Ngài lập tức được loan truyền và người ta đã thấy một dòng người đông đảo tuôn đến.

Nếu hôm trước ở địa hạt Tia, trong dòng người đến với Đức Giê-su, có một người đàn bà, có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, đến xin Người trừ quỷ cho con gái bà. Thì, hôm nay, người ta đem đến Đức Giêsu một người “vừa điếc vừa ngọng”. Họ “xin Người đặt tay trên anh”.

Đức Giê-su, như chính Ngài có nói: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”. Và hôm nay, tại Ga-li-lê miền Thập Tỉnh, lời nói đó, đã được Ngài thể hiện qua việc chữa lành người “vừa điếc vừa ngọng” được người ta mang tới.

Hôm đó, anh chàng vừa điếc vừa ngọng, sau khi được Đức Giê-su “đặt ngón tay vào lỗ tai… và nhổ nước miếng và bôi vào lưỡi”, kế tiếp, Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: Ép-pha-tha… Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Câu chuyện kể tiếp rằng: “Anh ta nói được rõ ràng”. (x.Mc 7, 35).

Phép lạ này, gợi cho ta nhớ lại vào thế kỷ VIII trước CN, như một lời tiên tri, ngôn sứ Isaia loan báo: “Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi kẻ câm sẽ reo hò” (x.Is 35, …4-6).
Vâng, hôm đó, trước mặt Đức Giê-su, cả một rừng người “nhảy nhót như nai”, họ đồng thanh “reo hò” rằng: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” (x.Mc 7, 37).

**
Khi nói tới phép lạ chữa lành cho anh chàng vừa điếc vừa ngọng, Lm. Charles E. Miller chia sẻ “Chúng ta không ngạc nhiên vì sao Chúa Giê-su giàu lòng trắc ẩn đến thế, có chăng là hết thảy chúng ta đến một lúc nào đó đều rơi vào tình trạng của người điếc trong bài Tin Mừng, không phải về mặt thể lý mà về khía cạnh thiêng liêng”.

Nói về điếc ngọng thiêng liêng, nguyên tổ Adam và Eva  như là một bài học mà chúng ta phải thuộc nằm lòng.

Về mặt thể xác, hai ông bà đâu có “điếc và ngọng”. Nhưng chỉ vì một phút xao lòng, xao lòng trước những lời dụ dỗ của Satan, đôi tai của ông bà hóa điếc, “điếc tâm linh”, vì thế,  thính giác của ông bà chỉ còn nghe được những tiếng ậm ừ của dục vọng. Lời Thiên Chúa phán dạy chỉ còn là những tiếng sấm rền vô nghĩa đối với hai ông bà.

Chưa hết, phản ứng phụ của căn bệnh điếc, đó là, đang nói năng lưu loát, ông bà trở  nên ngọng nghịu. Hãy nhớ lại xem, khi Thiên Chúa tìm đến gọi và hỏi “Ngươi ở đâu”.  Ôi thôi! ông bà đã ngọng nghịu thốt lên  “Con nghe tiếng Ngài… con sợ hãi … vì con trần…. ”. Tệ thật! “con…trần… truồng…” (St 3,10).

Điều này có thể xảy ra cho chúng ta không? Thưa, rất có thể, nhất là trong một thế giới đầy dẫy những tiếng mời gọi của nhục dục, của sắc dục, của thanh dục, của hương dục, của vị dục,  của xúc dục.

Với ngũ dục này, nó  làm cho ngũ giác quan của ta đi vào mê hồn trận, một mê hồn trận làm cho thị giác ta sáng ngời trước những mỹ nữ: mày tằm mắt phượng, môi đỏ má hồng, tóc đen óng ả, sóng mũi dọc dừa, hoặc trước những ngọc ngà, vàng bạc, châu báu v.v… Nó làm cho thính giác ta chỉ thích nghe những lời giả dối điêu ngoa, những lời tung hô chúc tụng v.v…

Nói tắt một lời, nó làm cho ta  mù-điếc-ngọng-tâm-linh. Nó làm cho vị giác và khứu giác của ta mất khả năng “nếm và biết Thiên Chúa ngọt dịu dường bao”. Nó làm cho xúc giác của ta không còn cảm xúc về một “Thiên Chúa là tình yêu”.

Có ai dám khẳng định, tôi chưa bao giờ rơi vào mê hồn trận của ngũ dục nêu trên?

***
Vâng, điều đáng sợ hôm nay,  không phải là sợ điếc-ngọng thể lý. Với tiến bộ của y học và khoa học, máy trợ thính và computer như là một công cụ hữu ích cho những người điếc ngọng thể lý. Nhờ thế mà đã có người khiếm thính trở thành giáo sư, nhạc sĩ, thậm chí là linh mục.

Điều đáng sợ hôm nay, chính là nền văn minh của thế kỷ 21 này, nó tiếp tục làm cho nhiều người “điếc-ngọng-tâm-linh”. Chính nền văn minh này đã và đang tái diễn khung cảnh vườn Eden năm xưa, một vườn Eden mới, với một lũ con cái Sa-tan và ma quỷ, chúng vẫn tiếp tục những tiếng nói rủ-rỉ-rù-rì: hãy tự do luyến ái, hãy ủng hộ phá thai, hãy hoan hô hôn nhân đồng tính, Thiên Chúa có đấy nhưng ông ta đã chết rồi v.v…

Thế nên, đừng thẹn thùng khi chúng ta tự hỏi: “tôi có tai mà như điếc, có miệng mà như câm?”.  Và cũng đừng ngại ngùng, nếu chúng ta vì những quyến rũ đó mà  điếc-ngọng-tâm-linh!

Hãy tỉnh ngộ và chạy ngay đến  Đức Giêsu, thưa với Ngài rằng “Xin Ngài đặt tay trên con” để con biết “… mở môi con ca ngợi tình thương của Ngài. Ngài ơi! Xin mở tai con nghe lời hằng ban sức sống”.

Ngày nay,  qua các linh mục, khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, chính Đức Giê-su đã “tẩy” đôi tai chúng ta. Và khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, Ngài  đã “thánh hóa” môi miệng chúng ta.

Điều còn lại của chúng ta, đó là, khi  cất tiếng ca-ngợi-tình-thương-của-Chúa, chúng ta có sẵn sàng “mở tay tôi nối liền vòng tay kẻ nghèo…?” Và khi đã được “nghe lời hằng ban sức sống”, chúng ta có sẵn sàng “mở đôi tay đón về người thân cô thế” hay không?

Thiên Chúa không cần chúng ta khen Người đã tạo ra ngũ giác quan của cơ thể thật độc đáo, nhưng Người cần chúng ta biết cách sử dụng chúng như thế nào.

Nói rõ hơn, Người cần chúng ta sử dụng nó đúng như những yêu cầu được nêu ở trên. Bởi vì, chỉ có như thế, trong hồ sơ  khám “sức khỏe tâm linh” của mình, chúng ta mới được Chúa  ghi nhận, rằng: “Tai tôi mở và miệng nói được rõ ràng”. 

Petrus.tran

Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...