Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2016

GIÊ-SU: nơi tiếp cận “lời hay ý đẹp”.

Chúa Nhật IV - TN – C
 
Ước mong và khao khát về một Đấng Messia sẽ đến, đó là ước mong và khao khát suốt chiều dài lịch sử của Israel, xưa. Đấng Messia đó là ai? Vâng, với chúng ta hôm nay, người đó chính là Đức Giê-su Ki-tô.
 
Thế nhưng, với người Do Thái xưa, dẫu cho có là Đức Giê-su xác nhận, người đó chính là Ngài, họ cũng không tin, không chấp nhận. Thật vậy, điều đó đã xảy ra trong một lần Ngài trở về Nazareth, quê hương của mình. 
 
**
Tại sao dân Do Thái xưa, không tin, không chấp nhận? Thưa, chuyện là thế này: Sau bao nhiêu ngày rong duỗi đường gió bụi, “đi khắp miền Galile, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân”, Đức Giê-su trở về Galile. Về Galile, “…Đức Giê-su đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng”.
 
Hôm đó, vì là ngày sa-bát, và như môt thông lệ, Ngài vào hội đường. Tại nơi đây, cũng giống như ở khắp vùng lận cận khác, người ta đã phải “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”.
 
Người đã nói gì khiến cho mọi người phải thốt lên như thế! Xin thưa, khi được mời lên đọc Sách Thánh, Đức Giêsu đã đọc một đoạn trích sách ngôn sứ Isaia.
 
Vâng, lời ngôn sứ Isaia, qua giọng đọc của Đức Giê-su, như một bản tình ca ngân vang khắp hội đường, nó như nổ tung nơi cung lòng cử tọa một giai điệu của tình yêu, của hồng ân khi chàng nghệ sĩ Giêsu cất tiếng hát lên: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”
 
Hôm đó, khi “tiếng hát” của chàng nghệ sĩ Giê-su chấm dứt, toàn thể cử tọa đồng loạt đứng lên lớn tiếng “tán thành và thán phục”.
 
Nhưng buồn thay! Những lời tán thành và thán phục đó, không đầy ba mươi giây, ngay lập tức vỡ tan… vỡ tan như bọt bong bóng xà phòng.
 
Vì sao ư! Thưa rằng, vì họ chợt nhận ra một điều gần như là không thể... Thì đây, Giêsu, người mà họ đang diện đối diện “Không phải là con ông Giuse đó sao?”
 
Một ông Giuse thợ mộc, sao lại có thể sinh ra một ông Giêsu được “Thiên Chúa xức dầu tấn phong” như chính ông ta tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”…
 
Một sự thất vọng hiện rõ trên từng khuôn mặt của tất cả cử tọa, hôm đó.
 
Thật vậy, họ thất vọng, trước hết là vì gia thế của Đức Giê-su. “Con vua thì lại làm vua. Con sãi nhà chùa thì quét lá đa”, vậy mà, con của một ông thợ mộc lại dám vỗ ngực xưng tên là “Đấng Messia”!
 
Tiếp đến, nếu là Đấng Messia ư! Vậy thì, “những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphacnaum, ông cũng hãy làm tại quê ông xem nào”?
 
Tệ thật, đúng là một sự thách thức, một thách thức lớn khiến cho Đức Giê-su, như lời kể lại của thánh sử Mác-cô, rằng: “Người không thể làm được phép lạ nào tại đó” (x.Mc 6, 5)
 
Quả là thật đáng tiếc, đáng tiếc là bởi, bản tình ca yêu thương của Đức Giê-su đã bị “biến tấu”, biến tấu khi từng khuôn mặt chân chất của những chàng nông dân Nazareth “biến dạng”, biến dạng giống như khuôn mặt hung hãn, đầy căm thù của những “người nông dân nổi dậy” thời Xô-Viết Nghệ Tĩnh, mà lịch sử đã ghi lại.
 
Vâng, theo lời kể lại của thánh sử Luca, câu chuyện Đức Giê-su về Nazareth đã để lại một kết thúc buồn. Chuyện kể rằng: Khi “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (x.Lc 4, 28-29)
 
Thế nhưng, đâu có “dễ ăn” như vậy. Hôm đó, Đức Giêsu đã “băng qua giữa họ mà đi”. Hành động của họ, quả đúng như lời Ngài nói: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (Lc 4, 24).
 
***
Đức Giê-su từng tuyên bố: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
 
Với lời tuyên bố nêu trên, có thể nói rằng: cư dân thành Nazareth đã không ý thức đúng về cái gì là giá trị, cái gì là quan trọng trong đoạn Kinh Thánh, mà Đức Giêsu đã đọc cho họ nghe.
 
Cái giá trị và quan trọng đó, không nằm ở những phép lạ, nhưng là ở chính “Tin Mừng”, Tin Mừng, rằng “một năm hồng ân của Chúa”, nay đã đến và sẽ được thực thi qua Con Một của Người là chính Đức Giê-su.
 
Người Con Một đó, như lời sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi, nay đã đến “Ở với ngươi để giải thoát ngươi” (Gr 1, …19) . Người Con Một đó, như chính Đức Giê-su công bố, “đến hầu cho chiên được sống và được sống sung mãn”.
 
Thế nên, hãy để một phút thinh lặng và tự hỏi lòng mình, rằng: tôi đã đón nhận Đức Giê-su, như là một hồng ân, hồng ân của Thiên Chúa, cứu rỗi đời tôi?
 
Hãy để thêm một phút nữa trong thinh lặng và tự hỏi lòng mình, rằng: qua Kinh Thánh, tôi đã đón nhận những “lời hay ý đẹp” của Đức Giê-su, như là “ngọn đèn soi tôi đi”, như là “ánh sáng chỉ đường tôi đi”?
 
Về điều này, Nhà bác học lỗi lạc nhất của thế kỷ 20 là A. Einstein thú nhận: “Khi còn bé, tôi đã học cả Kinh Thánh và sách Talmud. Là người Do Thái, nhưng tôi đã bị khuôn mặt sáng ngời của Đức Giê-su Na-da-rét mê hoặc... Chưa ai đọc các sách Tin Mừng mà không cảm thấy sự hiện diện thật sự của Đức Giê-su. Tính cách của Ngài rung lên trong mỗi từ ngữ. Một đời sống như vậy không huyền thoại nào chứa hết được.” (nguồn: 5/phút cho Lời Chúa)
 
Vâng, sẽ thật kỳ lạ nếu ta không đón nhận Đức Giê-su như là Cứu Chúa đời ta, nhưng lại than phiền rằng “ông Trời không có mắt” mỗi khi ta gặp hoạn nạn, tai ương nào đó!
 
Và sẽ thật là “dị hợm” nếu ta đã đón nhận những “lời hay ý đẹp” của Đức Giê-su, như là “ngọn đèn soi tôi đi”, như là “ánh sáng chỉ đường tôi đi”, nhưng rồi lại thách thức Ngài bằng một lối sống hiện sinh thác loạn, hoặc bằng một lối sống vô thần, coi như “ông Trời” đã chết rồi!
 
Một lối sống như thế, có phần chắc, Đức Giê-su, Người cũng sẽ “băng qua” chúng ta mà đi…
 
Hiểu được như thế, sẽ chẳng bao giờ chúng ta “kéo Người lên tận đỉnh núi”, những đỉnh núi: hận thù, gian ác, tư lợi, ghen tương, vênh vang, tự đắc…v.v…, một lần nữa.
 
Hiểu được như thế, chúng ta sẽ nhận ra, sống đức tin phải là một cuộc sống thấm đậm những “lời hay ý đẹp” của Đức Giê-su.
 
Thế nên, mỗi ngày, đừng quên lật quyển Kinh Thánh ra, bởi vì, chỉ có nơi đó, chúng ta mới có thể, tiếp cận những “lời hay ý đẹp”, những lời đem đến sự cứu rỗi, cho chính bản thân của mình.
 
Petrus.tran

Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2016

Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh!

Chúa Nhật III – TN – C
Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh!

Kinh Thánh Tân Ước được mở đầu bằng bốn sách Phúc Âm, với bốn tác giả là: thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô, thánh Luca và thánh Gio-an. Mà, như chúng ta được biết, Phúc Âm còn được gọi là Tin Mừng. Và quả thật, qua sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, các thánh sử đã viết lại rất nhiều “tin mừng” cho nhân loại, đúng như thánh sử Luca cho biết: “Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ Lời Chúa truyền lại cho chúng ta”. Chính thánh Luca cũng đã nói về mình, rằng: “Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra…” (x.Lc 1, 3)
 
Thật vậy, sau khi đã “cẩn thận tra cứu”, thánh nhân đã viết ra một mẩu tin, mà ai cũng phải gọi đó là “tin mừng”, đó là việc Đức Giê-su về Nazarerth, tại đây Người đã khiến cho “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” và quan trọng hơn cả, Người đã gửi đến cho mọi người một thông điệp, đó là, những gì các ngôn sứ xưa đã nói, thì: “Hôm nay đã ứng nghiệm” (x.Lc 4, 21) 
 
** Vâng, “tin mừng” này được thánh Luca ghi lại như sau: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về Galile”. Về Galile, thánh sử cho biết, “Rồi Đức Giê-su đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng”.
 
Hôm đó, nhằm vào ngày sabat. Chuyện kể tiếp rằng: “Người vào hội đường, như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát”. 
 
Theo Do Thái giáo, ngày sa-bát là ngày cuối cùng trong một tuần lễ bảy ngày, một ngày đã được: “Thiên Chúa ban phúc lành… và thánh hóa” (Stk 2, 3).
 
Đến thời Mô-sê, trong cuộc hành trình dẫn đưa dân Do-Thái về miền đất hứa, một lần nữa, tại núi Sinai, Thiên Chúa đã đóng ấn ngày Sa-bát bằng một điều luật trong mười điều Người đã phán cùng Mô-sê rằng: “ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi”. (Xh 20, 8-10).
 
Kể từ đó, ngày sa-bát trở thành ngày toàn dân Israel: “dành cho Đức Chúa”. Ngày đó, họ nhóm lại trong hội đường để lắng nghe Lời Chúa. Bắt đầu cho phần phụng vụ, họ xướng kinh “Shêma”, và kinh “mười tám lời chúc phúc”. Kế tiếp, mọi người thinh lặng lắng nghe Lời Chúa được trích từ Sách Luật (Ngũ Thư) hay từ các sách Ngôn Sứ. 
 
Mọi người đều có quyền đọc Sách Thánh, hoặc là tự nguyện hoặc là được viên trưởng hội đường chỉ định. Người được chỉ định thường là người thông thạo Kinh Thánh. Họ được mời lên công bố và giảng giải Lời Chúa cho cộng đoàn.
 
Hôm đó, Đức Giê-su được vinh dự đọc Sách Thánh.
 
Không thấy thánh sử Luca nói tới, nhưng, chúng ta có thể nghĩ rằng, có lẽ, tiếng đồn về những điều “Người giảng dạy” và được “mọi người tôn vinh” lọt đến tai ông trưởng hội đường, cho nên, khi thấy Đức Giêsu vào hội đường, với sự ngưỡng mộ, ông ta đã không ngần ngại mời Đức Giêsu lên đọc Sách Thánh.
 
Hôm đó, họ trao cho Đức Giêsu cuốn sách ngôn sứ I-saia. Ngài mở ra và long trọng đọc một đoạn có chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”
 
Khi Đức Giê-su đọc xong, bầu khí thinh lặng trong hội đường bị phá vỡ bởi những lời “tán thành và thán phục”. Họ tán thành và thán phục không chỉ bởi “những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” mà còn bởi từ trước tới nay, tuy đã nhiều lần được nghe lời ngôn sứ Isaia, nhưng hôm nay, lạ thay! đây là lần đầu tiên họ được nghe một người dám dõng dạc tuyên bố rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21).
 
Vâng, đúng là lời ngôn sứ Isaia đã ứng nghiệm. Thì đây, trong ba năm ra đi rao giảng Tin Mừng, Kinh Thánh đã ghi chép lại rằng: từ Caphanaum cho đến miền Giuđê, người ta thấy “Thiên hạ đem đến cho Ngài mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền; những kẻ bị quỷ ám, kinh phong bại liệt, và Ngài đã chữa họ” (Mt 4,24). 
 
Người ta còn được chứng kiến Đức Giêsu đã làm phép lạ cho: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại…” (Mt 11, 5). Có thể kết luận rằng, Đức Giê-su đã thực thi trọn vẹn thông điệp Người đã loan báo, thông điệp mang tên: “Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”.
 
*** Có bao giờ chúng ta tự hỏi, “kẻ nghèo hèn” này là ai? Vâng, Đức Giê-su, bản thân của Ngài đã sinh ra trong một nơi tầm thường nhất trong xã hội, đó là chuồng chiên. Lớn lên, sống ở Nazareth, là một nơi, như lời Nathanaen nói “làm sao có cái gì hay được”, nói tắt một lời, Ngài chính là hiện thân của “kẻ nghèo hèn”, lúc bấy giờ.
 
Nhưng ở đây, “kẻ nghèo hèn”, theo Kinh Thánh, đó là “người có tâm hồn tan nát” (x.Is 66, …2). Còn theo tác giả Thánh Vịnh, kẻ nghèo hèn, đối nghịch với ác nhân, tức là “người hiền từ”, Thiên Chúa sẽ cho “đất hứa làm gia nghiệp”. (x.Tv 10-11)
 
Joel Green, một học giả về Kinh Thánh nói rằng: “kẻ nghèo khó” trong xã hội thời Chúa Giê-su, không nhất thiết là những người nghèo về vật chất, nhưng nó liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau như: giáo dục, giới tính, gia thế, sự trong sạch về mặt tôn giáo, nghề nghiệp v.v… Sự thiếu kém về một trong số những điều đó, có thể được xếp vào hạng “kẻ nghèo hèn”. 
 
Được giao phó sứ mạng “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”, Đức Giê-su muốn nói đến những người “thiếu kém”, có thể là thiếu kém vật chất, có thể nghèo khó tâm linh, hãy trông cậy nơi Ngài, trông cậy vào “Hồng Ân của Chúa”.
 
**** Và bây giờ là đến chúng ta. Hãy tự hỏi: tôi có phải là “kẻ nghèo hèn” trước mặt Chúa? Có lẽ, trước khi có câu trả lời, chúng ta hãy cùng xem lại câu chuyện ông Da-kêu.
 
Vâng, thật vắn tắt, trong vài lời suy niệm của Lm. Vincent Travers. Ngài nói: “Tôi mong muốn bạn ghi nhận điều gì Chúa Giêsu và ông Da-kêu đã thấy. Trước khi gặp Chúa Giêsu, ông Da-kêu nghĩ mình là người giàu có. Giờ đây, ông thấy mình nghèo nàn đến mức nào. Trước đây ông tưởng mình có hết mọi sự. Bây giờ ông thấy mình không có gì đáng giá thật sự”, chắc hẳn giờ đây, chúng ta sẽ có câu trả lời cho mình! Vâng, tất cả chúng ta đều là những “kẻ nghèo hèn” trước mặt Thiên Chúa.
 
Tuy nhiên, trả lời cho riêng ta vẫn chưa đủ, mà còn phải là cánh tay nối dài của Chúa Giê-su, mang “Tin Mừng cho người nghèo” đến với những “kẻ nghèo hèn” khác, đang “ngồi quanh đây trán in vết nhăn”. 
 
Thật vậy, hãy nhìn xem ngay tại Việt Nam “Tại một số thành phố lớn, (như Đà Nẵng chẳng hạn), trên những tuyến đường sang trọng mọc lên những tấm biển cấm đánh giày, cấm bán hàng rong, cấm lưu thông các loại xe thô sơ, xe ba bánh, xe đẩy… Để đảm bảo vẻ mỹ quan thành phố, vì sự nghiệp phát triển, đám lê dân ‘trán dồ, răng hô’ không có chỗ trên sân chơi ‘đẳng cấp’ đó. Bức tranh thế giới hiện đại được khắc hoạ bằng những nét thật khốc liệt: Hố ngăn cách ngày càng lớn giữa một thiểu số chiếm hữu phần lớn tài nguyên trong khi đại đa số nhân loại chia nhau phần nhỏ còn lại” (nguồn: 5/phút cho Lời Chúa)
Chúng ta phải làm gì? Phải chăng, nhiệm vụ của chúng ta là hãy nhìn ra Đức Giê-su, qua những con người bị ruồng bỏ đó? Phải chăng là, hãy như người Samaria nhân lành “đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc?” Nói rõ hơn, đặt những con người ấy trên lòng thương xót của ta?
Đừng quên, Đức Giêsu đã nói “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt 25, 40)
 
Thưa, bạn, có quá khó để chúng ta “làm như thế?” Nếu có, bạn và tôi, chúng ta hãy quỳ xuống dưới chân thánh giá Chúa Ki-tô, cùng nhau nguyện, rằng: “Lạy Chúa Giê-su, xin biến đổi chúng con nên giống Chúa, là gương mặt hữu hình của Chúa Cha vô hình, để chúng con, với lòng hăng say mới, sẵn sàng đem Tin Mừng đến cho người nghèo, bị áp bức, bị lãng quên” (nguồn: 5/phút cho Lời Chúa)
 
Đem Tin Mừng đến cho người nghèo, bị áp bức, bị lãng quên… Bạn có biết gì không! “Làm như thế” chúng ta đã tiếp tục nói lên tiếng nói của Đức Giê-su, trước bàn dân thiên hạ, rằng: “Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh”.
 
Petrus.tran

Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2016

Chúa Nhật II - TN – C

Cana đậm dấu tình yêu thương.

Như thời tiết có bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông, lịch phụng vụ Công Giáo cũng có những mùa như sau: Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, cuối cùng là Mùa Thường Niên.

Với Mùa Giáng Sinh và Phục Sinh, qua phụng vụ Lời Chúa, chúng ta được biết đến  một  Chúa Giê-su đã sinh ra, một Chúa đã Giê-su chịu chết và cuối cùng, một Chúa Giê-su đã sống lại.

Còn với mùa thường niên ư! Vâng, với mùa này, qua phụng vụ Lời Chúa, chúng ta sẽ được thấy, một Chúa Giê-su “giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền… Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền” (x.Mc 1, 22…27). Uy quyền đó, lần đầu tiên, đã được Người thực hiện trong một bữa tiệc cưới tại Cana. Và câu chuyện này đã được chép lại trong Tin Mừng thánh Gio-an (x.Ga 2, 1-11)

**
Chuyện là thế này. Hôm đó, tại Cana miền Galile, có môt bữa tiệc cưới. Trong bữa tiệc hôm đó, “có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự” (Ga 2, 1-2).

Trong lúc tiệc cưới đang vui mừng nhộn nhịp với những lời chúc tụng, chúc đôi uyên ương “xây tổ ấm trên cành yêu đương”, thì, thật đáng tiếc, nhà đám hết rượu…

Vâng, tưởng chúng ta cũng nên biết, đối với người Do Thái, trong việc sinh hoạt ăn uống hàng ngày, họ không uống trà, nước ngọt, hoặc là bia. Họ uống rượu, một loại rượu được ép từ trái nho.

Ngày thường còn như thế, huống chi hôm nay là tiệc cưới… Tiệc chưa tàn mà lại hết rượu, thì làm sao mọi người có thể “xin mời anh nâng ly cùng tôi, nào ta cùng uống”! Tiệc đang rôm rả mà lại hết rượu, thì làm sao để mọi người  “Nhấc cao ly này… chúc ngày mai sáng trời tự do”!

Không thấy nói đến việc cô dâu chú rể có biết đến việc hết rượu hay không. Chỉ thấy chuyện kể rằng: thân mẫu Đức Giê-su, khi thấy thiếu rượu, đã nói với Người, “Họ hết rượu rồi”.

Nghe nói vậy, Đức Giê-su đã làm gì? Thưa, quyền năng của Ngài, hôm ấy, đã được thể hiện. Vâng, tại tiệc cưới: “Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do Thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít”. Đức Giê-su đã bảo họ “Các anh đổ đầy nước vào chum đi”.

Chuyện kể tiếp, rằng: những người gia nhân đã nghe theo lời Đức Giêsu “đổ đầy tới miệng”. Sau đó, cũng theo lời Đức Giê-su bảo, họ  “múc và đem cho ông quản tiệc”. Kinh ngạc thay!  “Khi người quản tiệc nếm thử, nước đã hóa thành rượu” (x.Ga 2,9)

Cuối cùng thì buổi tiệc cũng được tiếp tục trong niềm vui, một niềm vui “trong chén tình đầy vơi”.

Vâng, Kinh Thánh cho biết, đó chính là “dấu lạ đầu tiên Đức Giê-su đã làm tại Cana miền Galile”(x.Ga 2, 11)

***
Có đúng là Đức Giê-su đã làm cho “nước hóa thành rượu”, hay, như một số ít những người “ghét” Chúa, cho rằng, Ngài sai gia nhân bỏ vào nước một loại hóa chất, đại loại như cồn, rồi quậy đều  lên, biến thành một loại “rượu cồn”, như ngày nay một số tay bán rượu đểu vẫn làm?

Trả lời nghi vấn này không khó. Thật vậy, nếu Đức Giêsu dùng thủ thuật này, có phần chắc, vị quản tiệc đã không “gọi tân lang lại và nói: Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà say mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến bây giờ” (Ga 2, 10).  Hơn nữa, nếu đó là rượu được chế biến từ “cồn”, với sáu chum, tương đương với 720 lít, chắc chắn mọi người trong bữa tiệc đó, sau khi uống sẽ “đứt bóng”,  mà chết mất.

Không, Đức Giê-su đến thế gian cứu nhân độ thế không bằng thủ đoạn gian dối, lừa bịp, như một số  lãnh tụ thời đại “xã nghĩa” ngày nay, luôn dùng thủ đoạn lừa bịp gian dối. Người đến là để làm chứng cho “sự thật”, như sau này, Người đã nói trước mặt quan tổng trấn Philato, rằng: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật”.

Vâng, có một số người khác lại thắc mắc, tại sao Đức Giêsu không làm một phép lạ nào khác, chẳng hạn như: biến giấy thành tiền, rồi tặng cho đôi uyên ương, mà Ngài lại làm phép lạ nước-hóa-thành-rượu? Phải chăng, Ngài và các môn đệ của Ngài là một “con sâu rượu”?

Thưa không phải vậy. Tưởng chúng ta nên biết, với phong tục của người Do Thái, hết rượu trong tiệc cưới là một điềm gở, đôi tân hôn chắc chắn sẽ mất mặt với hàng xóm, láng giềng.

Còn dưới lăng kiếng thần học, hết rượu trong tiệc cưới là một điềm xấu, ý muốn nói ngay cả Giavê Thiên Chúa cũng không chúc lành cho đôi tân hôn.

Gia-vê Thiên Chúa, qua Con Một Người, hôm đó, đã làm dấu lạ hóa nước thành rượu, trước hết, là để “bày tỏ vinh quang của Người” và sau là, như lời thánh Gio-an kể lại, để “các môn đệ tin vào Người”.

****
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay (CN 17/01/2016) cho chúng ta nghe lại câu chuyện này. Và, có lẽ, đây không phải là lần đầu chúng ta được nghe.

Thế nên, hãy tự hỏi mình rằng, sau mỗi lần nghe câu chuyện này, tôi rút ra được bài học nào cho đời sống đức tin của tôi?

Vâng, chúng ta hãy tự đặt cho mình một vài câu hỏi, hỏi rằng: tôi có “MỜI” Chúa Giê-su, Đức Maria vào những bữa tiệc riêng tư của mình? Nói rõ hơn, tôi có mời Người và Mẹ của Người bước vào đời sống đức tin của tôi?

Có lẽ, không ít người trong chúng ta sẽ trả lời rằng: có mời chứ. Này nhé! Hôm cử hành lễ cưới, chúng tôi lãnh đủ hai Bí Tích: Thánh Thể và Hôn Phối, ai dám nói tôi không “mời”  Chúa Giê-su vào ngày cưới của tôi! Trong nhà tôi, có bàn thờ với thánh giá Chúa Giê-su, với tượng Đức Mẹ ban ơn, ai dám nói tôi không mời Chúa Giê-su và Mẹ của Người vào nhà của tôi!

Tốt. Đó là một điều hết sức tốt đẹp. Thế nhưng, chúng ta phải biết rằng, trong đời sống hôn nhân nói riêng và gia đình nói chung, “không phải lúc nào cũng chỉ có niềm vui”, vâng, Louis Evely nói tiếp: “Còn có sương mù và giá lạnh nữa”.

Sương mù và giá lạnh đó, có thể là sự “thiếu” thốn nào đó, ví dụ như: thiếu may mắn trong công ăn việc làm, thiếu sức khỏe, thiếu tài năng v.v…  Sương mù và giá lạnh đó, cũng có thể là: sự hiểu biết, sự khôn ngoan, sự thành công, giữa “hai nửa của nhau”, không bao giờ đồng đều, sẽ có “nửa còn lại” rơi vào tình trạng “thiếu”.  

Những lúc đó chúng ta sẽ làm gì? Phải chăng là, khi nghĩ đến nửa-còn-lại chỉ còn  là những tiếng thở dài “…oán trách nhau”!

Về điều này, thánh Phao-lô có lời dạy, rằng: “chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người” (1Cor 12, 11). Ngài nói tiếp: “Là vì ích chung”.
Thật ra, điều sợ “thiếu” hơn cả trong đời sống hôn nhân và gia đình không phải là thiếu cơm, thiếu gạo, thiếu bánh, nhưng là, nói theo lời ngôn sứ Isaia xưa, đó là “thiếu Lời Thiên Chúa”.

Lời Thiên Chúa ở đâu? Thưa, đó là ở trong Thánh Kinh. Đó là ở trong ngay câu chuyện này.

Vâng, trong câu chuyện này,  như ở  tiệc cưới Cana xưa, đôi tân hôn cũng như tất cả thực khách không còn “thiếu” rượu cho bữa tiệc, nhờ  nghe lời Đức Maria truyền dạy. Như ở tiệc cưới Cana xưa, đôi tân hôn cũng như tất cả thực khách không còn “thiếu” rượu cho bữa tiệc, nhờ  nghe chính lời Đức Giê-su truyền dạy.

Cũng vậy với chúng ta hôm nay, nếu chúng ta nghe lời Mẹ của Người truyền dạy, rằng “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Cũng như, nghe chính lời Đức Giê-su truyền dạy “đổ đầy” Lời Thiên Chúa vào tâm hồn mình, hãy tin,  cuộc sống của chúng ta cũng sẽ “chẳng thiếu thốn chi”.

Hãy tin, khi chúng ta “đổ đầy Lời Thiên Chúa”, chúng ta sẽ cho ra lò một thứ rượu hảo hạng, tất nhiên, nó không phải là thứ rượu mang tên đại loại như: “Chivas, Johny Walker, Hennessy, Remy Martin, Gò Đen, Nếp Mới v.v…”, nó chỉ là những thứ rượu đưa chúng ta đến “thung lũng âm u nghi ngờ và chết chóc”. Nhưng, đó là: “rượu yêu thương, rượu tha thứ, rượu chia sẻ và quên mình, rượu xây dựng và phục tùng”, một thứ rượu làm cho chúng ta dám hy sinh “liều mạng sống mình vì người mình yêu”.

Được thưởng thức những loại rượu này, tại  gia đình của chúng ta, hãy tin, láng giềng sẽ không mất  đi sự thân thiết, anh em sẽ chẳng “thiếu” vắng sự hòa thuận,  vợ chồng sẽ chẳng “thiếu” vắng những giây phút ý hợp tâm đầu.

Sống một cuộc sống gia đình như thế, có khác nào chúng ta đã tạo ra một bữa tiệc Cana mới, bữa tiệc mang tên “Cana đậm dấu tình yêu thương”.

Petrus.tran  



Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2016

Hãy “tái sinh và đổi mới”

Chúa Giê-su chịu phép rửa.

Hãy “tái sinh và đổi mới”

Vào những ngày Đức Giê-su còn tại thế, trong một lần đến Ca-phác-na-um, khi nhận thấy dân chúng đi tìm mình “không phải vì… đã thấy dấu lạ, nhưng vì đã được ăn bánh no nê”, Đức Giê-su lập tức lên tiếng khiển trách họ, rằng: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (x.Ga 6, 27).

“…Chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”, thật vậy sao! Thưa, đúng vậy. Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận ngay từ những ngày đầu “Con Người” ra đi rao giảng Tin Mừng.

Biến cố trọng đại này đã được  ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca (x.Lc 3, 15-16 21-22)
**
Tin Mừng thánh Luca thuật lại rằng: “Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Messia!” (x.Lc 3, 15)

Ông Gio-an ư! Vâng, đây là một nhân vật, không có Mùa Vọng nào mà không được nói đến. Và theo những gì thánh sử Luca ghi chép lại, chúng ta được biết, vào  “năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tiberio, thời Phongxio Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philipphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônit… Khanan và Caipha làm thượng tế…”, ông Gio-an đã xuất hiện tại sông Giodan và đã truyền giảng cho mọi người rằng: “hãy chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”.

Có rất nhiều người đến với ông. Và ông đã không bỏ lỡ cơ hội khuyến cáo họ rằng: “Các ông hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối”. Chính những lời truyền giảng, cũng như những lời khuyên này, đã khiến cho dân chúng ngỡ ông là Đấng Messia.

Để đánh tan dư luận, ông Gio-an đã thẳng thắn nói với dân chúng rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (x.Lc 3, 16)

Và rồi Đấng đó đã đến. Đấng đó không ai xa lạ, chính là Giê-su người Na-da-rét.  Đấng đó đã xuất hiện tại sông Gio-đan và… và thật kinh ngạc, Người “cùng chịu phép rửa… khi toàn dân đã chịu phép rửa” (x.Lc 3, 21)

Kinh ngạc hơn  nữa, “đang khi Người cầu nguyện thì trời mở ra”. Và liền đó: “Thần Khí Chúa đáp xuống như hình chim bồ câu và ngự trên Ngài”. Chính trong giây phút đó,  “có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (x.Lc 3, 22).

“Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”. Vâng, một lời công bố chứng tỏ rằng,  Đức Giê-su đã được Thiên Chúa Cha ghi dấu xác nhận.

***
Hôm nay, Chúa Nhật 10/01/2016, lễ kính Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đừng ngạc nhiên về việc Chúa Giêsu, có tội tình gì đâu, thế mà đã “cùng chịu phép rửa” với mọi người, một phép rửa “tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”.  

Tại sao? Thưa, là bởi, Ngài muốn biểu lộ sự khiêm nhường hạ mình, “không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng  với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”. Ngài chấp nhận “dìm-mình-xuống”, để gánh-lên-tội-lỗi-trần-gian, đúng như lời ông Gio-an đã công bố: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.

Hôm nay, nhắc lại biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa, cũng là dịp để tái nhắc nhở cho chúng ta về Bí Tích Rửa Tội mà chính chúng ta đã lãnh nhận.

Vâng, thật cần thiết để nhớ lại ngày chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Nhớ lại để chúng ta tái khám phá một ân sủng, ân sủng được trở nên “con Thiên Chúa”.

Muốn vậy, muốn tái khám phá ân sủng, ân sủng được trở nên con-Thiên-Chúa, thứ nhất, và quan trọng nhất, theo lời tác giả thư Ti-tô dạy, đó là “phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (x.Tt 2, …12)

Thứ hai, cũng không  kém phần quan trọng, đó là, đừng cho rằng Bí Tích Rửa Tội chỉ là thủ tục hành chánh để gia nhập đạo Công Giáo, hoặc tệ hơn là để “kết hôn”, rồi sau đó là “tôi lấy được vợ (chồng) tôi thôi nhà thờ”.

“Thiên Chúa”, tác giả thư Ti-tô dạy tiếp, “Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại. Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới”(x.Tt 3, 4-5).

Thưa bạn, bạn đã chịu phép Rửa Tội? Vâng, có phần chắc chúng ta sẽ trả lời rằng: “đã”. 

Vậy, hãy để một phút thinh lặng và tự hỏi mình, rằng: tôi đã  tái sinh và đổi mới? Tôi đã tái sinh là một con người mới với lối sống đổi mới, một lối sống biết “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”? Tôi đã tái sinh là một con người “Biết thương nhau. Không oán ghét. Không gây hận sầu”?

Hay tôi vẫn còn mang nặng con người cũ với lối sống cũ, một lối sống “ích kỷ, ganh tỵ, chia rẽ, bè phái, nóng giận, say sưa, chè chén”, nói tắt một lời, một lối sống “nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc”?

Thưa,  câu trả lời, tất nhiên là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, hãy nhớ rằng, Đức Giê-su, trong một buổi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do Thái, Ngài đã khuyến cáo, rằng: “Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được tái sinh một lần nữa bởi ơn trên” (x.Ga 3, …3) 

Phải “tái sinh và đổi mới”. Tại sao? Thưa, tác giả thư Ti-tô cho biết: “Sở dĩ  như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang”(Tt 2, 13)

Thưa bạn, bạn có muốn trong ngày Đức Giê-su xuất hiện vinh quang, Người sẽ nói với bạn rằng “Con là con của Cha”, không?
Nếu muốn… nếu muốn, ngay hôm nay, tôi và bạn, hãy quỳ dưới thánh giá Chúa Ki-tô, cùng cất tiếng cầu khẩn với Người, rằng: Lạy Chúa, xin Người  “ban ơn Thánh Thần, để chúng (con) được tái sinh và đổi mới”(x.Tt 3, 4-5).

Vâng, là một Ki-tô hữu, là một người đã chịu Bí Tích Rửa Tội,  chúng ta không thể không “tái sinh và đổi mới”.

Petrus.tran


Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2016

Chúng tôi đến bái lạy Người

Chúng tôi đến bái lạy Người...

Hôm nay, Chúa Nhật 3/1/2016,  toàn thể Giáo Hội mừng kính lễ Hiển Linh. Hiển Linh là gì? Thưa, theo từ điển tiếng Việt do viện ngôn ngữ học xuất bản, định nghĩa là “thần thánh tỏ rõ sự linh thiêng”. Lại có cuốn tự điển khác, tác giả là ông Thanh Nghị,  ghi rằng: hiển linh nghĩa là “linh thiêng rõ ràng”. Với danh từ gốc Hy Lạp “Epiphania” thì nó có nghĩa là “hiện ra, bày tỏ”.

Kinh Thánh Tân Ước thường dùng hai chữ này để nói tới việc Thiên Chúa xuất hiện cho nhân loại qua Đức Giê-su. Với lễ Hiển Linh, Thiên Chúa đã tỏ mình ra, qua Hài Nhi Giê-su, cho dân ngoại, và đại diện là ba vị đạo sĩ, mà chúng ta quen gọi là “Ba Vua”. Vâng, biến cố này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mát-thêu. (Mt 2, 1-12)
**
Câu chuyện được kể lại rằng: “Khi Đức Giê-su ra đời tại Belem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem và hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?” (Mt 2, 1-2)

Nguồn động lực thúc đẩy họ tìm kiếm “Đức Vua” do bởi đã nhìn thấy  một ngôi sao lạ và tin rằng “ngôi sao lạ” này chính là “điềm chỉ” về một “Đức Vua dân Do Thái mới sinh”, thế là họ lập tức tiến hành một cuộc hành trình đi tìm nơi Đức Vua sinh ra.

Tuy không phải là người Do Thái, thế nhưng họ vẫn rời bỏ quê hương, cùng nhau dong duổi đường gió bụi, lần theo dấu vết “ngôi sao lạ” tìm cho được Đức Vua để mà “bái lạy người”.

Vâng, rất có thể họ là con cháu Apraham thuộc dòng dõi của Itmaen và những người con của Apraham với Cơtura mà khi còn sống “ông Apraham đã cho họ đi xa ông Isaac, con ông, về hướng đông, về đất Phương Đông”(St 25, …6).

Có thể họ đã nghe được lời Bi-lơ-am, một người thuộc dân tộc Madian,  cũng là một dân tộc thuộc dòng dõi Itmaen,  đã nói “Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc, tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên; một vì sao xuất hiện  từ Giacop, một vương trượng trổi dậy từ Israel”. (x.Ds 24, 17).
Cũng rất có thể họ là những vị vua của những tiểu quốc Đông Phương, vì một sự mặc khải nào đó thúc đẩy họ tìm kiếm Đấng Messia.

Để rồi, hôm nay, khi mà “vì sao” đó đã được các nhà chiêm tinh thấy “kề bên”, họ liền tức tốc lên đường đến Giêrusalem.

Sự xuất hiện đột ngột của các nhà chiêm tinh,  với những lời công bố của họ, rằng “Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”…  đã trở thành trái boom tấn chấn động cả kinh thành.

Thật vậy, chuyện kể tiếp rằng: “Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao” (x.Mt 2, 3).
Một khẩu lệnh triệu tập khẩn cấp tất cả các thượng tế và kinh sư đã được vua Hê-rô-đê ban hành. Nhà vua cần biết “Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu”.

Rất nhanh chóng, các vị thượng tế và kinh sư, trả lời: “Tại Belem, miền Giu-đê”. Vâng, các vị thượng tế và kinh sư công bố như thế dựa vào lời ngôn sứ xưa có chép: “Phần ngươi, hỡi Belem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì nơi ngươi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2, 6).

Nói vậy, nhưng các thượng tế và kinh sư vẫn điềm nhiên, họ không sẵn sàng làm người hướng đạo cho các nhà chiêm tinh.

Còn các nhà chiêm tinh thì sao? Thưa, nghe xong, các vị tiếp tục cuộc hành trình. Họ đi… đi theo hướng “ngôi sao”, bỏ mặc đàng sau sự hào nhoáng của Giêrusalem, với những lời hứa hão huyền của bạo chúa Herode. Các vị  lên đường trong sự tin tưởng rằng, “vì sao” sẽ dẫn họ đến nơi đến chốn.

Và quả thật niềm tin của họ được đặt đúng chỗ. Hôm đó, “ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại”. Vâng, ngôi sao đó, rất kỳ lạ, kỳ lạ ở chỗ, mà không ai có thể phủ nhận, đó là: cùng thời điểm trên, tại Belem , cũng đã có nhiều hài nhi được sinh ra. Nhưng… lạ lùng thay! Ngôi-sao lại chỉ dừng nơi chính “Đức Vua sinh ra”.

Chuyện kể rằng “Họ vào nhà , thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (Mt 2, 11)

Sẽ thật ngây thơ khi nghĩ rằng cuộc hành trình đi tìm “Hài Nhi Giêsu” của mấy nhà chiêm tinh như là một cuộc trẩy hội cưỡi-lạc-đà-xem-hoa!

Vâng, đó là một cuộc hành trình đầy gian khổ. Cứ thử làm một bài toán, từ nơi ở của các nhà chiêm tinh, tính theo đường “chim bay”, đến Giê-ru-sa-lem, khoảng 2000Km. Nếu đi đường bộ, với núi non hiểm trở, đoạn đường có thể kéo dài gấp đôi. Với sự di chuyển của lạc đà, và nếu chỉ di chuyển ban đêm, giỏi lắm, họ chỉ đi được khoảng 70km/ngày, là cùng. Làm một bài toán nhân, một tháng là 2100km. Như vậy, hành trình của  các nhà chiêm tinh phải mất khoảng gần hai tháng.

Chưa hết, các ngài còn phải đối diện với những cạm bẩy, những âm mưu của con cáo già Hê-rô-đê. Một  “cáo già”  đầy tham vọng, dễ gì cam chịu bỏ ngai vàng để… “Xin quý Ngài đi dò hỏi tường tận  về Hài Nhi, và khi tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”! 

Kinh Thánh có chép rằng: “Kẻ gian ác mưu hại người công chính, và hậm hực nghiến răng. Nhưng Chúa cười nhạo nó” (Tv 37(36), 12-13).

Và quả nhiên, Hê-rô-đê đã bị cười nhạo, cười nhạo bằng việc các nhà chiêm tinh đã được báo mộng, rằng: “đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa”.

Câu chuyện khép lại bằng việc các nhà chiêm tinh “đã đi lối khác mà về xứ mình”.

Như các nhà chiêm tinh xưa, hôm nay, chúng ta cũng là những kẻ đang trải qua một cuộc hành trình tìm kiếm.

Khác một điều, cuộc hành trình tìm kiếm của chúng ta hôm nay, không phải là một cuộc hành trình “tìm để gặp Hài nhi Giêsu” nhưng là tìm để gặp “Giêsu Cứu Chúa của đời ta”.
Và giống một điều là, chúng ta cũng sẽ phải gặp nhiều thử thách cam go, nhiều cạm bẫy, nhiều toan tính lừa lọc của những Hê-rô-đê thời đại này.

Họ cũng mừng Giáng Sinh, nhưng là một Giáng Sinh không có “Merry Christmas”, không có sự “Tìm kiếm thật sự Giê-su Christ - Cứu Chúa của đời ta”.

Trái lại, những Hê-rô-đê thời đại hôm nay đã biến ngày trọng đại này thành một “lễ hội dân gian đầy tính trần tục”. Biến những “Hang Belem” thành nơi phô trương sự giàu sang của mình, bằng những ánh đèn nhấp nháy đủ màu sắc, tốn kém có khi lên đến hàng chục triệu đồng…

Vì thế, cần phải nhìn các nhà chiêm tinh xưa, xem các  vị như là tấm gương mẫu mực, mẫu mực về niềm tin - tin vào lời “ngôn sứ”, về sự kiên trì – kiên trì đi theo “ngôi sao hiện bên phương Đông” và cuối cùng, đó là sự vâng phục – vâng phục lời báo mộng “đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa”.

Nói theo cách nói hôm nay, tin vào lời ngôn sứ tức là tin vào Thánh Kinh. Hãy nhớ rằng, Thánh Kinh chính là “ngọn đèn soi ta bước, là ánh sáng chỉ đường ta đi” (x.Tv 119, 105). Cũng đừng nghe những lời ngụy ngôn rằng thì-là-mà, cuốn Thánh Kinh đã lỗi thời… xưa rồi…

Đúng,  Thánh Kinh xưa như mặt trời, nhưng nếu không có mặt trời, loài người sẽ phải dò dẫm trong bóng đêm.  Thánh Kinh xưa như không khí, nhưng nếu không có không khí, loài người sẽ ngạt thở và giãy chết. Thánh Kinh xưa như nước, nhưng loài người sẽ phát điên nếu không có nước.
Nói theo cách cách nói hôm nay, kiên trì đi theo “ngôi sao hiện bên phương Đông”, nghĩa là hãy để ”mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở  và kiện toàn lòng tin” (x.Dt 12, 2)

Nói theo cách nói hôm nay, “đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa”, nghĩa là, hãy tránh xa những lời lẽ mỹ miều của những chủ nghĩa đậm tính chất thế tục, những chủ nghĩa vô thần lệch lạc, còn xót lại ở một vài nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. 

Tại sao phải tránh xa? Thưa, là bởi, nó chỉ đem lại cho con người sự ích kỷ, để lại nơi con người sự dối trá , lừa bịp. Nói tắt một lời, nó đem con người  đến “thung lũng âm u nghi ngờ của chết chóc”. Chỉ “Trong Đức Ki-tô và nhờ Tin Mừng”, chúng ta sẽ tìm thấy “Giê-su Cứu Chúa của đời ta”.

Giờ đây, chúng ta hãy để một phút hồi tâm và tự hỏi lòng mình rằng: đã qua  bao nhiêu “mùa sao sáng, đêm Noel Chúa sinh ra đời” , thế nhưng, tôi đã thật sự tìm thấy  “Giê-su Cứu Chúa của đời ta”?

Nếu chưa, hãy đến, không phải tại “Belem, miền đất Giu-đa” năm xưa,  nhưng là tại “Belem, bàn Tiệc Thánh Thể”, chính nơi đây, ta sẽ gặp được “Giê-su Cứu Chúa”, một Đức Giê-su luôn lớn tiếng mời gọi, “Này đây Ta đứng  trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (x.Kh 2, 20)

Thưa Bạn, bữa tiệc đêm Noel vừa qua, bạn có mở cửa tâm hồn mình đón vị khách mang tên “Giê-su Cứu Chúa”? Phải có chứ, phải không thưa quý bạn!

Vâng, phải có, bởi vì, có Người, chúng ta mới có thể tiếp bước với  các nhà chiêm tinh xưa, để nói với nhân loại hôm nay, rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa… nên chúng tôi đến bái lạy Người”.    
                                     
Petrus.tran


Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...