Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2016

Nhờ “tin mà thấy’…

Lễ Phục Sinh.

Nhờ “tin mà thấy’…

Chúa Nhật hôm nay (27/03/2016), toàn thể Giáo Hội Công Giáo long trọng cử hành Thánh Lễ Mừng Chúa Giêsu Phục Sinh. Niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh, ngay từ đầu, đã được các cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi tuyên xưng, qua việc truyền dạy của các tông đồ. 

Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô dạy rằng: “Trước hết, tôi đã truyền cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người được mai táng, và ngày thứ ba đã trổi dậy,  đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai… sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào đã sinh non” (x. 1Cor 15, 3-8)

Ông Kê-pha là ai? Thưa,  là ông Phê-rô.Tông đồ Phê-rô và cả Gio-an nữa, có thể được xem là những người đầu tiên hiện diện tại ngôi mộ táng xác Đức Giê-suvà các ông đã thấy nó chỉ còn là một “ngôi mộ trống”. Sự kiện này đã được tông đồ Gio-an ghi chép lại, và như lời ngài nói: “là để anh em tin”. (x.Ga 20, ..31)

**
Vâng, câu chuyện được ghi lại, rằng: hôm đó, vào lúc  “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ…”

Bà Maria Mác-đa-la là ai? Thưa, bà ta chính là người đã được Đức Giê-su trừ quỷ và chữa bệnh. Hôm đó, hôm Đức Giê-su bị bắt và bị giết chết, bà ta đã theo chân Người sut con đường t dinh Philato đến tn đi Golgotha. Chính mt bà chng kiến cnh hành hình và cái chết ca Ngài.
 
Cũng ngày hôm đó,  lúc ông Giosep, người Arimathe, được tổng trấn Phi-la-tô cho phép nhận thi hài Đức Giê-su để chôn,  “bà và một bà khác cũng tên là Maria…” có mặt ở đó. Chính mắt bà thấy ông ta ôm xác Đức Giê-su “lấy tấm vải gai sạch mà liệm và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá…” Sau đó, ông ta “lăn tảng đá to lấp cửa mồ, rồi ra về”(x. Mt 27, 59-61).
Vậy mà hôm nay, sáng sm ngày th nht trong tun, lúc tri còn ti, khi đến m, bà ta thấy“tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”. Ngôi mộ giờ đây, chỉ còn là một “ngôi mộ trống”
 
Trong sự hốt hoảng, bà ta chạy về. Người đầu tiên bà gặp, chính là  “ông Simon Phêrô và một người môn đệ Đức Giê-su thương mến”. Đứng trước mặt hai ông, bà thổn thức, nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”(Ga 20, 2).
Sau khi nghe những lời kể của Maria Mác-đa-la, không một chút đắn đo, Phê-rô và Gio-an lập tức ra khỏi nhà.  
 
Tại sao họ lại vội vã như thế!  Thưa, tuy Kinh Thánh không ghi lại, nhưng chúng ta có thể tin rằng, sự vội vã đó là do niềm mong đợi, qua lời Đức Giê-su nói,  đã tiềm ẩn trong tâm tư các ông, rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”. 

Hôm nay, tính từ hôm thứ sáu, ngày Thầy Giêsu bị đóng đinh trên thập giá tại Golgotha, đã sang ngày thứ ba… Là ngày thứ ba, sao không vội vã cho được, nhỉ! .  
 
Chuyện kể tiếp, rằng: “Cả hai người cùng chạy”. Và, khi tới ngôi mộ, nơi Thầy Giê-su đã được mai táng, thật đúng y như lời kể của bà Maria, ngôi mộ trống không. Một cảnh tượng khác thường đã xảy ra. Các ông chỉ thấy “những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại…” (Ga 20,..7). 
 
Không hiểu tại sao những “băng vải tẩm thuốc thơm quấn thi hài Đức Giêsu” nay đã được “xếp riêng ra một nơi”…  Đức Giê-su đâu? Các ông không thấy. Ai đã tạo ra sự kiện khác thường này, các ông không bận tâm.
 
Nhưng, khi nhìn những sự khác thường đó, Gio-an “đã tin”. Mang niềm vui đó,  “Các môn đệ lại trở về nhà”. (x.Ga 20, 10)
 
***
Có thật sự là hai ông đã tin?  Thưa, có phần chắc là như thế. Hiện tượng ngôi mộ trống như là nguồn “ánh sáng Phục Sinh” đã rọi sáng niềm tin của các ông, đã  mở toang cánh cửa tâm hồn các ông, để các ông hiểu rõ hơn về những điều Kinh Thánh đã chép, rằng “Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết”. (Ga 20, 9).
 
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, niềm tin của các ông chưa trọn vẹn, chưa trọn vẹn là bởi các ông vẫn thực sự chưa nhìn thấy con người Phục Sinh của Đức Giê-su.
 
Thế nên,  đã có lần khi Đức Giê-su hiện ra: “đứng giữa các ông… các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24, 36-37). 

Các môn đệ, chỉ thật sự tin và (sau này) công bố niềm tin này trước bàn dân thiên hạ là nhờ Đức Giê-su, trong bốn mươi ngày sau khi Phục Sinh, Ngài đã hiện ra nhiều lần để củng cố đức tin các ông và “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”. 

Thật vậy, tác giả sách Công Vụ Tông Đồ có chép rằng, Đức Giêsu, “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình : trong suốt bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1,3)

Nhờ thế, mà sau này, dù phải đối mặt với các tư tế, các kỳ mục, các kinh sư, ông Phêrô và Gioan vẫn không sợ hãi mà tuyên tín rằng “Đức Giêsu Kitô , người Nazareth, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết” (Cv 4,10).

****      
Ngày nay, với niềm tin tông truyền, Giáo Hội vẫn luôn tuyên xưng rằng, Đức Giêsu – “Ngày thứ ba Người sống lại thật như lời Thánh Kinh”.

Và cũng như xưa, như các thượng tế và kỳ mục đạp đổ niềm tin Đức Giêsu Phục Sinh bằng cách dùng thủ đoạn hối lộ “cho lính một số tiền lớn” để họ vu khống lên rằng, “các môn đệ của (Giêsu) đã đến lấy trộm xác”. Ngày nay, không ít người, vẫn kiên trì dùng  những thủ đoạn đó. Họ đưa ra những sự dối trá và lừa lọc rất thâm độc để tấn công Hội Thánh Chúa, đả phá sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô.

Triết gia người Đức, David Strauss, đã nêu lên vấn đề này trong tác phẩm "The life of Jesus critically examined" với lập luận cho rằng: Các tín hữu đầu tiên của Kitô giáo đã cố tìm mọi cách để gán cho Giêsu đủ thứ huyền thoại về một Đấng Cứu Thế mà mọi người mong đợi. Tác giả cuốn sách cố chứng minh rằng, Đức Giêsu của Kinh Thánh chỉ là một Giêsu của huyền thoại.
 
Có lẽ, chúng ta không cần tranh luận gì về những điều mà họ đã viết, bởi những gì họ viết đều có một điểm chung, đó là “sự dối trá và lừa lọc”. Mà những ai “dối trá và lừa lọc” thì, xin mượn lời của Benjamin Franklin để kết luận: “Dối trá và lừa lọc là hành động của kẻ ngu xuẩn không có đủ trí óc để trung thực.”
 
Vấn đề còn lại của chúng ta, là những người tin vào sự Phục Sinh của Đức Giê-su, đó là: đừng để những sự dối trá và lừa lọc đó ảnh hưởng đến niềm tin của mình.
 
Làm sao để nó không ảnh hưởng, nhất là, trong thế kỷ 21 này, với một nền công nghệ thông tin hiện đại như ngày nay, sự dối trá và lừa lọc lại càng tinh vi hơn nữa!
 
Thưa, không gì tốt hơn là hãy trở về với “Kinh Thánh” và cũng đừng quên siêng năng tham dự “Tiệc Thánh”. Câu chuyện hai môn đệ trên đường Emmau như là một điển hình và là mẫu mực để chúng ta noi theo. (x. Lc 24, 12-32).

Chuyện vắn tắt là thế này, theo lời họ kể, dù đã biết “có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi… ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy”… Ấy thế mà, hai vị vẫn chưa tin, họ khăn gói quả mướp trở về Emmau, quê mình. 

Chỉ tới khi gặp Chúa Giê-su, nghe Ngài giải thích Kinh Thánh, một sự giải thích khiến lòng hai vị “bừng cháy lên”, rồi sau đó, cùng Ngài ăn bữa tối, nhìn thấy Ngài “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”, hai vị mới “nhận ra Người”.

Vâng,  niềm tin Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh của hai môn đệ trên đường Emmau nói riêng, (và nhóm mười hai nói chung), đó là: sự cảm nghiệm, một sự cảm nghiệm được chạm, được thấy, được nhìn, được nghe chính Thầy của mình, nói tắt một lời, được gặp Đức Giê-su Phục Sinh qua  “Kinh Thánh” và  “Tiệc Thánh”.

Có người nói Kinh Thánh là cuốn sách xưa rồi. Đúng, sách xưa, nhưng hãy nhớ rằng, sách xưa là sách quý. Hơn nữa, Kinh Thánh là một cuốn sách không thể “dối trá”, bởi những gì đã được viết trong đó, nếu là sự lừa dối, tất nhiên không thể tồn tại đến hôm nay. Vâng, “ai đó có thể lừa dối một số người trong một lúc, và lừa dối hết mọi người trong vài lúc, nhưng không thể mãi mãi lừa dối được tất cả mọi người.” (Abraham Lincoln)

Còn nơi bàn “Tiệc thánh” ư! Vâng, nơi đây, Đức Giê-su cũng không “lừa lọc” ai cả.  Trái lại, Ngài đã có một lời hứa với chúng ta, rằng: “Thật, tôi bảo thật… Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54).

Hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa cho chúng ta nghe lại câu chuyện “ngôi mộ trống”. Câu chuyện về ngôi mộ trống, hay câu chuyện về hai môn đệ trên đường Emmau, cũng như nhiều câu chuyện khác, nói về sự Phục Sinh của Chúa Giê-su, đã được ghi lại trong Kinh Thánh, tuy đã hơn hai ngàn năm nay, nhưng nó vẫn tồn tại và vẫn luôn được rao truyền, không chỉ cho chúng ta hôm nay, nhưng là cho đến tận thế. 

Phải chăng, đó… đó chính là “phép lạ”, một phép lạ thay cho phép lạ Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra, mà, rất có thể một ai đó trong chúng ta mơ ước được thấy, hôm nay? 

Thưa, đúng vậy. Sự tồn tại của Kinh Thánh, cho đến hôm nay, (có ghi chép những câu chuyện nêu trên), bất chấp thời gian và không gian, bất chấp sự cấm cách, bắt bớ, tiêu hủy v.v.. cho chúng ta tin như thế. 

Thế nên, hôm nay, sau khi nghe lại câu chuyện này, chúng ta hãy để một phút thinh lặng và tự hỏi mình, rằng: tôi “đã thấy, đã nghe và đã tin”! Hay ta nửa tin nửa ngờ! Hoặc ta chỉ tin khi có mặt trong nhà thờ mỗi Chúa Nhật!

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, hãy nhớ rằng, các môn đệ xưa, không phải nhờ “thấy mới tin” nhưng là “nhờ tin mà thấy”. Các ông đã tin vào những gì Chúa Giê-su giải thích , nên các ông đã thấy, không phải thấy một Giê-su chết treo trên thập giá, nhưng là một Đức Giê-su Phục Sinh. 

Petrus.tran

Chủ Nhật, 20 tháng 3, 2016

Ôi bởi con mà Chúa mang thảm hình…

Chúa Nhật Lễ Lá.

Ôi bởi con mà Chúa mang thảm hình…

Hôm nay Chúa Nhật Lễ Lá. Như vậy, chỉ còn một tuần nữa, toàn thể Giáo Hội sẽ long trọng cử hành Lễ Phục Sinh. Trong tuần này, Giáo Hội dành riêng ba ngày, gọi là “Tam Nhật Vượt Qua”, cũng còn được gọi là Tam Nhật Thánh hoặc Tam Nhật Phục Sinh. Đây chính là trung tâm điểm của Đức tin Ki-tô giáo.

Tam Nhật Thánh được bắt đầu từ  chiều thứ Năm Tuần thánh, với ngày này, Giáo hội cử hành một thánh lễ kỷ niệm việc Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể. Kế đến là thứ sáu Tuần Thánh, với ngày này, Giáo Hội  tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giê-su. Sau đó,  vươn tới cao điểm là một thánh lễ trong đêm Vọng Phục Sinh, và kết thúc với một thánh lễ Mừng Chúa Phục Sinh được cử hành chính ngày Chúa Nhật Phục Sinh. 

Tưởng chúng ta cũng nên biết, trong ngày thứ sáu Tuần Thánh, để cho việc tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giê-su được trọn vẹn, hầu hết ở mọi thánh đường đều có tổ chức cuộc “đi đàng Thánh Giá”. 

Mừng Chúa Giê-su Phục Sinh, mà không cử hành việc “đi đàng Thánh Giá”, thì, đó là một thiếu xót lớn. Tại sao? Thưa, vì đó chính là con đường Chúa Giê-su đã đi qua, con đường mà Ngài đã ba lần loan báo cho các môn đệ, rằng: “Này chúng ta lên Giê-eu-sa-lem, và Con Người bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá…”. Vâng, đúng là “Đường Thánh Giá”.

Thật ra, đã có lúc, con đường đó được mang tên: Via Dolorosa – Con đường thảm sầu. 

Vâng, chúng ta hãy trở lại Via Dolorosa, của hơn hai ngàn năm trước đó.  Chuyện kể rằng:  Vài hôm trước, con đường này đã được trải thảm bằng những tấm áo choàng, cùng với một rừng người cầm cành thiên tuế ra đón Đức Giê-su. Họ nghênh đón Ngài với những lời reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa” (x.Mc 11, 8-10)

Với thánh sử Luca, ngài đã tường thuật lại rằng:  “Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường”. Và “Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!”...

Nhưng, có ngờ đâu, chỉ vài hôm sau, Đức Vua Giê-su đã phải bước đi trên con đường này như một tội đồ. Và cuối cùng là một bản án tử chết treo trên thập giá tại đồi Golgotha.

Rất buồn, đó là một thảm kịch, thảm kịch bắt đầu sau khi Thầy và trò  “đi ra núi Oliu”. Tại đây, trong thinh lặng của nguyện cầu, Đức Giêsu xao xuyến bồi hồi, bồi hồi đến nỗi “mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất”.

Có một người trong nhóm mười hai phản bội Ngài. Và tệ thật, bàn tay kẻ phản bội Ngài lại cùng đặt trên bàn với Ngài. Người đó chính là Giuđa Iscariot.  Vài hôm trước, y đã âm thầm đi gặp các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ để thảo luận về cách thức nộp Đức Giêsu cho họ và thương lượng về tiền thưởng cho y... 

Các thượng tế hứa hẹn rằng, sẽ “cho hắn ba mươi đồng bạc”. Thế nên “từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.” Và khi được Giuđa cho biết thời cơ đã đến, một toán người liền được các thượng tế và kỳ mục phái đi truy bắt Đức Giêsu.

Tại núi Oliu, nơi kẻ phản bội biết chắc Đức Giêsu cùng các môn đệ đang hiện diện, bỗng náo động bởi  tiếng binh khí va chạm cùng tiếng vó ngựa khua vang cả một góc trời đêm. 

Sự trang nghiêm của nguyện cầu bị phá vỡ bởi những tiếng hò hét. Và khi kẻ dẫn đầu là Giuđa Iscariot xuất hiện. Y lại gần Đức Giêsu để hôn người. 

Hôn ư!… một cử chỉ biểu lộ tình yêu thương, nay lại là một dấu hiệu để bắt bớ sao! Thưa, đúng vậy. Đó là một ám hiệu mà y đã nói với đồng bọn: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy.” Vâng, đó là một “nụ hôn của thần chết”. 

Ba năm công khai rao giảng Tin Mừng. Đây không phải lần đầu tiên người ta tìm bắt Đức Giêsu. Đã nhiều lần người ta tìm cách giết Ngài, đe dọa và ném đá Ngài. Đức Giêsu đều tìm cách lánh đi. (Ga 8,59).

Nhưng hôm nay, tại Oliu, Giêsu người Nazareth, Ngài đứng lặng “lòng xao xuyến bởi địch thù gào thét, bởi ác nhân hà hiếp”. (Tv 55).

Toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ người Do Thái ập đến bắt Đức Giêsu. Họ bắt Ngài chỉ vì Ngài đã dám tuyên bố rằng “Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại”. Họ bắt Ngài chỉ vì Ngài nhìn nhận mình chính là “Đấng Kitô Con Thiên Chúa”.

Họ trói Ngài rồi điệu đến dinh thượng tế Caipha. Tại đây, toàn thể những thành viên Hội Đồng Công Tọa quá đỗi bất ngờ trước chiến tích của tên “phản thùng” Giuđa. 

Màn đấu tố Đức Giêsu suốt đêm tại dinh thượng hội đồng đầy bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, điều đó cũng chưa làm họ mãn nguyện. Họ muốn tìm một đồng minh từ Philatô, nên đã “dẫn độ” Đức Giê-su đến dinh quan tổng trấn.

Trên đường tới dinh quan tổng trấn, ngoài những sự đau đớn do bị đánh đập tra tấn, Đức Giê-su còn đau đớn hơn khi “gà chưa kịp gáy” thì người môn đệ của mình “đã ba lần chối là không biết Thầy”.

Rồi tại dinh quan tổng trấn, khi Philatô xuất hiện. Ông ta đã chết lặng khi nhìn thấy thân thể rã rời của Đức Giêsu sau một đêm bị những trận đòn. Hình hài của Đức Giêsu, thật đúng như những gì ngôn sứ Isaia đã tiên tri về Ngài: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi người ta phỉ nhổ” (Is 50, 6).

Chỉ qua vài lời thẩm vấn, Phi-la-tô cho rằng, Đức Giê-su “chẳng can tội gì đáng chết” (Lc 23,14). Thế nhưng, dù có thẩm quyền, nhưng ông ta không đủ can đảm trả tự do cho Đức Giê-su, vì ông ta sợ, sợ trước những tiếng gào thét, ném về Đức Giê-su:“Giết! Giết nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá”.

Sau một chút do dự, Philato “chữa cháy” bằng việc  đem ra một tên tội phạm, một gã cướp khét tiếng, phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật, tên là Baraba.

Như một thông lệ, vào những ngày lễ lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Rôma, có thói quen ân xá cho một phạm  nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Đức Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi họ nên tha cho ai.
Thật đáng tiếc, kế hoạch của quan tổng trấn lại như dầu đổ vào lửa. Hôm đó, toàn dân đã la lớn: tha Baraba và đóng đinh Giêsu.

Vâng, phiên tòa vỡ vụn. Bởi sự hèn nhát cộng với tâm địa của một kẻ bàng quang, qua việc “rửa tay”, Philato phủi bỏ trách nhiệm của mình. Để rồi, mệt mỏi vì những tiếng gào thét cuồng nộ của đám đông, quan tổng trấn ngượng ngùng “trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá” (x.Mc 15, …15)

Via Dolorosa – Con đường thảm sầu bắt đầu với một Giê-su “ôm vết thương rỉ máu” từng bước tiến về Golgotha. Người ta thấy có mộtnhóm phụ nữ “vừa đấm ngực vừa than khóc Người”, thế nhưng, Đức Giêsu đã quay lại và cho họ một lời khuyên chân tình: “Đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu.” (Lc 23,28).
Các bà quên rằng, Đức Giêsu, nếu muốn, Ngài đã có thể cầu xin Thiên Chúa Cha “cấp ngay cho (Ngài) hơn mười hai đạo binh thiên thần” để giải thoát Ngài.
 
Nhưng! “như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được?”.  Vâng, Đức Giê-su đã “xin theo ý Cha”.
 
**
 
Chúa Nhật hôm nay, chúng ta “Tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu”. Những bài đọc trong Phụng Vụ  có vẻ khá dài, dài như mười bốn chặng đàng Thánh Giá mà chúng ta sẽ nguyện ngắm vào thứ sáu Tuần Thánh.
 
“Đi đàng Thánh Giá ư!”… Vâng, có bao giờ chúng ta tự hỏi mình, rằng: mỗi khi làm việc này, tôi nghĩ mình là ai trong một rừng người đi theo Đức Giê-su trên “con đường sầu khổ”… là ai trong một rừng người đứng đau đáu nhìn Ngài  đầu đội mão gai, hai tay dang trước trời cao, thân hình dính chặt vào thập giá bằng những chiếc đinh?
 
Tôi là ai? Vâng, về câu hỏi này, ngài Ron Rolheiser, OMI, trong bài “Viết lại cuộc xử án của chúng ta”, đã nhận xét: “Thánh Kinh tập trung rất nhiều vào cuộc xử án Ngài, mô tả dài và chi tiết. Và mô tả đó thật vô cùng sâu cay. Chúa Giêsu bị xử án, nhưng lại được viết ra như thể, tất cả mọi người đang bị xử án, chứ không phải Ngài”. 

Thật đúng, đúng là một nhận xét chí lý. Tất cả chúng ta đang bị xử án. Hãy thử nghĩ xem! Xưa: người Do Thái đòi thả Baraba, một tên sát nhân. Nay, trước một lựa chọn công bằng và bất công, lòng khoan dung và thói hung bạo, v.v.. ta chọn điều gì?
Chọn công bằng và khoan dung hay chọn “Baraba – biểu tượng của hung bạo và bất công”?
Liệu chúng ta cũng sẽ bỏ Chúa, như xưa các môn đệ bỏ Thầy mình, khi chúng ta gặp những sự đe dọa, đe dọa phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và tiền bạc, danh vọng, địa vị, quyền hành, quyền lực?
Vâng, không có gì là không thể. Vào từng lúc, từng thời điểm trong cuộc sống,  rất có thể chúng ta cũng hét lên: “Chúng tôi chẳng có vua nào cả… chẳng có Chúa nào cả”.
Trở lại việc “đi đàng Thánh Giá”. Chặng thứ I: Chúa Giêsu bị kết án tử hình. Vâng, chuyện đã xảy ra hơn hai ngàn năm. Và, thật đau lòng khi ngài Ron Rolheiser, nhận xét: “nhưng chẳng có nhiều thay đổi đâu. Chọn lựa của những người trong cuộc xử án và kết án Chúa Giêsu, cũng chính là những chọn lựa mà chúng ta đưa ra ngày hôm nay. Và gần như mọi ngày, chúng ta chẳng làm gì tốt đẹp hơn họ, vì, với sự mù quáng và tư lợi, chúng ta vẫn và quá thường xuyên, nói rằng: Dẫn hắn đi. Đóng đinh hắn vào thập giá! Thế đó”.
Không! Hôm  nay, chúng ta, không ngoài ai khác, phải làm một cái gì đó để thay đổi lời nhận xét này. 
Phải làm gì ư! Thưa, tệ lắm cũng phải  có được một cái nhìn như viên đại đội trưởng xưa, chỉ trong vài phút nhìn  Đức Giêsu hấp hối trên thập giá, thế mà ông ta đã nhận ra Ngài “Quả thật là Con Thiên Chúa”. 

Vâng, bao năm qua, chúng ta có hằng ngàn giờ phút nhìn Đức Giê-su hấp hối, qua việc “đi đàng Thánh Giá”, hãy tự hỏi, nhìn Ngài trên Thánh Giá, tôi có thật sự tin điều năm xưa Ngài đã nói với ông Nicôđêmô, rằng, “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”, hay không?

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, tại Golgotha, một trong hai tên gian phi, đã được hưởng ơn cứu độ, nhờ lời khẩn cầu của y, rằng: “Ông Giê-su ơi! Khi ông vào Nước của ông,  xin nhớ đến tôi”.

Vâng, sẽ là một thay đổi, thay đổi lớn trong đời sống đức tin của chúng ta, nếu… nếu việc đi đàng Thánh Giá của chúng ta luôn được kết hợp với lời khẩn nguyện, rằng: “Ôi bởi con mà Chúa mang thảm hình. Con đớn đau nhìn vũ trụ tự hối. Xin giúp con đường thiêng liêng theo lối. Quyết từ nay thờ Chúa hết tâm tình.”.

Petrus.tran

Thứ Hai, 14 tháng 3, 2016

Đừng phạm tội nữa…

Chúa Nhật V - MC – C

Đừng phạm tội nữa…

Petrus.tran

“Lạy Chúa, Ngài nhân hậu khoan hồng…”, sách Thánh Vịnh cho biết như vậy, và qua câu Kinh Thánh này, chúng ta biết rằng, Thiên Chúa là Đấng sẵn sàng tha thứ.

Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng luôn khoan hồng và tha thứ. Điều này đã được Đức Giê-su tái khẳng định, trong những ngày Ngài thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Có những lúc, với những dụ ngôn rất đời thường (dụ ngôn người cha nhân hậu), Đức Giê-su đã cho mọi người thấy rõ nét hơn, một Thiên Chúa luôn tỏ sự khoan hồng “vì một người tội lỗi ăn năn…”.

Lại có khi, là “người thật việc thật”, qua đó, Ngài đã thể hiện mình là một Thiên Chúa luôn luôn tha thứ. Đó là câu chuyện “người phụ nữ ngoại tình”, được ghi trong Tin Mừng thánh Gio-an, như là một điển hình. (x.Ga 8, 1-11)
**
 
Vâng, chuyện xảy ra vào tảng sáng tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đức Giê-su cùng các môn đệ có mặt tại đó. Sự hiện diện của Ngài nơi Đền Thờ đã làm cho các thượng tế và những người Pharisêu, ngứa mắt.

Chuyện là thế này, hôm trước, vào ngày bế mạc tuần lễ Lều, Đức Giê-su đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống”. Chính những lời này đã tác động lớn lên toàn thể dân chúng, có nhiều người nghe các lời ấy thì nói, Đức Giêsu “là vị ngôn sứ”. Có kẻ khác nói, Ngài là “Đấng Kitô”.

Thế nhưng, với những người Pharisêu và các kinh sư, thì họ lại bực tức và đã “ghim” những lời đồn đãi đó, chờ thời cơ để hãm hại Ngài.

Và rồi thời cơ đã đến. Hôm đó, khi toàn dân đến với Đức Giêsu và khi Người ngồi xuống giảng dạy thì… màn kịch bắt đầu được diễn.

Màn một, cảnh một là “các kinh sư và người Phariseu, (họ) dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình”. (Ga 8, 3).

Cảnh hai là, một vòng tròn đồng tâm được thiết lập. Tâm điểm là một người phụ nữ, “áo rách tả tơi, xác thân mệt nhoài”. Vâng, chị ta đang bị những ông kẹ kinh sư và Phariseu nhìn với “ánh mắt cuồng căm”.

Trước mặt Đức Giê-su, các ông ấy tố khổ người đàn bà, rằng: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình”. Và rồi, các ông ấy thét lên, bằng những tiếng thét đầy thâm ý, “Thưa Thầy, trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao ?” (Ga 8, 5)

Tại sao lại cho rằng câu hỏi trên “đầy thâm ý”. Thưa, thâm ý là ở chỗ này, nếu Đức Giê-su lên án theo đúng luật Mô-se, Ngài sẽ bị cho là qua mặt với chính quyền Roma. Israel vào thời của Đức Giêsu, thuộc quyền bảo hộ của đế quốc La Mã. Phán quyết về mạng sống của một người, không thuộc thẩm quyền của bất cứ một người công dân nào trong xã hội thuộc địa Do Thái. Thẩm quyền đó, thuộc về nhà nước bảo hộ La Mã.
Còn nữa, nếu đồng ý lên án, Đức Giêsu sẽ tự tạo ra những mâu thuẫn, mâu thuẫn về những gì Ngài đã giảng dạy, chẳng hạn như Ngài đã từng dạy, rằng “anh em đừng xét đoán nhau… anh em hãy tha thứ” v.v…

Còn nếu không lên án! Trong trường hợp này, Đức Giê-su sẽ bị cho là dám chống lại bộ luật của Mô-se, bộ luật đã được lưu hành trong xã hội Do Thái từ khoảng năm 1250 trước Công Nguyên.

Nói tắt một lời, một câu hỏi như thế, quả đúng là họ đã tạo ra một thế cờ bí hiểm. Thì đây, Kinh Thánh cho biết: “Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người” (Ga 8, 6).

Thưa bạn, nếu là bạn, bạn sẽ xử vụ án này như thế nào? Phải chăng, chúng ta sẽ xử người phụ nữ này theo lối xử của tiên tri Daniel, xưa. Tách từng ông kinh sư lẫn biệt phái ra, rồi thẩm vấn họ?

Biết đâu, chính những ông kinh sư lẫn biệt phái này, cũng “đồng bệnh” như hai vị “kỳ lão” sống vào thời tiên tri Daniel?

Chuyện là thế này, hai cụ kỳ lão này say mê bà Susanna, lợi dụng lúc bà ta đang ở một mình, bèn ập đến, tỏ tình với bà, rằng: “Chúng tôi thèm muốn bà, hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn”! (x.Dn 13, 20-21). Vâng, biết đâu các ông kinh sư lẫn biệt phái, cũng là thế, nhỉ?

Nhưng không, Đức Giê-su đi một nước cờ cao hơn. Ngài đưa ra một phán quyết, rõ ràng: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8, 7).

***
“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”.

Vâng, chỉ một lời nói, Đức Giê-su đã hóa giải được tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”, của mình. Hơn nữa, Ngài đã kéo các ông kinh sư và Phariseu, từ “tòa án đời thường”, đến một tòa án khác, “tòa án lương tâm”.

Tiêu chuẩn mà Đức Giêsu đưa ra còn cao hơn gấp bội tiêu chuẩn của ông Môsê. “Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”. (Mt 5, 27-28).

Nơi “tòa án lương tâm”, rất có thể, những người tố cáo người phụ nữ đó, (và hôm nay, có thể là chính chúng ta) đã có lần cũng phạm tội ngoại tình, ngoại tình bằng “tư tưởng”, ngoại tình bằng “ánh mắt”, ngoại tình bằng “lời nói”… cho nên, phải chăng vì thế họ đã chột dạ vì câu hỏi của Đức Giêsu?

Vâng, không thấy thánh sử Gio-an nói đến, nhưng cuối cùng, thì: “Họ bỏ đi hết kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi”.

Còn người phụ nữ ngoại tình ư! Vâng, với người phụ nữ này, Đức Giê-su muốn đưa chị ta đến một tòa án khác, “tòa án của Thiên Chúa”. Một tòa án mà Thiên Chúa “…không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (x.Ed 18, 23).

Hôm đó, như một vị thẩm phán, một vị thẩm phán đầy lòng bao dung, Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11).

****
Câu chuyện đã xảy ra hơn hai ngàn năm, thế nhưng, phải chăng, đó cũng là chuyện của mỗi chúng ta, hôm nay?

Thưa, đúng vậy. Rất có thể, một khoảnh khắc nào đó, chúng ta trở thành những kinh sư và biệt phái. Rất có thể, vào một lúc nào đó, chỉ vì ganh tỵ, chúng ta sẵn sàng “ném đá” một ai đó bằng lời nói thâm độc, bằng cử chỉ tẩy chay, bằng sự gây chia rẽ, bè phái v.v…

Rất có thể, có những lúc, chúng ta “ném đá” một ai đó trên net, chỉ vì, “cái mặt con nhỏ đó dễ ghét quá đi!”.

Vâng, đừng quên, Đức Giê-su có dạy rằng: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh?”

Với những người như thế, Đức Giê-su nói, họ là: “Đạo đức giả”.

Thế còn tội ngoại tình thì sao?

Hãy thử nghĩ xem, đã là một Ki-tô hữu, thế mà, ta lại đặt tương lai của mình vào bói toán, vào phù phép, vào bùa ngải v.v… như thế, phải chăng ta đã để cho niềm tin mình “ngoại tình”?

Trở lại câu chuyện “người phụ nữ ngoại tình”. Không một ai ném đá nàng cả. Vì sao? Thưa, vì mọi người đều phạm tội. Phạm tội trong tư tưởng, trong lời nói, trong việc làm.

Đức Giê-su cũng thế. Ngài không ném đá ai cả. Nói theo cách nói của ngôn sứ Isaia, Ngài đã “biến đổi bóng tối thành ánh sáng soi họ và uốn khúc gập ghềnh thành quan lộ thẳng băng”.

Và nói theo cách suy tư của Lm Charles E. Miller thì, “Đức Giê-su luôn hăm hở ban cho ta ơn tha tội bao lâu chúng ta còn gắng sức tuân hành lời khuyến dụ của Ngài: Từ nay đừng phạm tội nữa”.

Làm sao có thể tuân hành lời khuyến dụ của Đức Giê-su? Làm sao có thể “Từ nay (không) phạm tội nữa”? Thưa, thánh Phao-lô có lời khuyên cho chúng ta, lời khuyên đó là: “Vì Đức Giê-su Ki-tô, tôi đành mất hết, và tôi coi như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người” (x.Pl 3, …8-9)

Làm sao “để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người”? Thưa, hãy đến bàn “Tiệc Thánh Thể”, nơi mà Đức Giê-su không đưa cho ta “những hòn đá” để ném một ai đó, nhưng sẽ ban cho ta “Mình Thầy đã bị nộp vì chúng ta và Máu Thầy đã đổ ra cho chúng ta, để được ơn tha tội”.

Vì một “ơn tha tội”, chúng ta hãy tự hỏi, đừng… đừng nhìn lên trời mà hỏi… “hỏi vì sao mây ngàn bỏ núi bay xa?”, nhưng hãy nhìn vào tận đáy lòng mình, mà hỏi, rằng: “bao nhiêu mùa chay đã trôi qua, tôi đã thực sự được kết hợp với Đức Giê-su?”

Dĩ nhiên, câu trả lời là của mỗi chúng ta. Nhưng, hãy nhớ rằng, cuối cùng, thì… ai trong chúng ta cũng phải đứng trước “tòa án của Thiên Chúa.

Trước tòa án này, có lẽ bạn và tôi, chúng ta không bao giờ muốn mình đứng ở đó trong vị trí “tội phạm”. Vậy, tại sao, ngay hôm nay, chúng ta không tuân hành lời khuyến dụ của Chúa Giê-su: Từ nay đừng “phạm tội” nữa!

Petrus.tran

Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2016

Sám hối và trở về - Chúa hoan nghênh

Chúa Nhật IV - MC – C

Sám hối và trở về - Chúa hoan nghênh

Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh nói, là “Đấng từ bi và nhân hậu. Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv, 103, 8).  Rồi, khi Đức Giê-su xuống thế làm người, trong những ngày ra đi rao giảng Tin Mừng, Ngài cũng đã nói cho mọi người biết đến một “Thiên Chúa là tình yêu”. Người “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. 

Vâng, rất trìu mến, để diễn tả tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, Đức Giê-su đã kể cho mọi người nghe một dụ ngôn. Dụ ngôn mang tên “Người cha nhân hậu” (x.Lc 15, 11-32).

**
Câu chuyện được kể rằng  “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần gia tài con được hưởng”.

Đòi chia gia tài ư! Theo luật Do Thái, việc này, mà người đòi lại là “con thứ” trong gia đình, thì quả đó là một hành động hiếm thấy, nếu không muốn nói là phạm luật. (x. Đnl 21, 17). Còn với quan niệm Việt Nam, thì đó là một hành động bất hiếu, muốn cha mình chết sớm.

Ấy thế mà, người cha trong dụ ngôn, vẫn tỏ lòng “nhân hậu” làm theo đúng  lời thỉnh cầu của người con thứ, ông đã  “chia của cải cho hai con”.

Người con thứ, chuyện kể tiếp rằng “Ít ngày sau… thu gom tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”.

Theo cách mô tả của thánh Luca, chúng ta có thể tin rằng, anh ta cũng chẳng khác nào công tử Bạc Liêu xưa, “đốt tiền luộc trứng”, vung tiền không tiếc cho đủ loại hình thức ăn chơi.

Cuối cùng, “Khi anh ta ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra nạn đói”.  Vâng, anh ta lâm vào cảnh đói khát.  

Thưa bạn, bạn có bao giờ lâm vào tình trạng “đói” không? Tôi, và chắc hẳn cũng có rất nhiều người dân Saigon, sau biến cố 1975, chỉ vì chính sách “ngăn sông cấm chợ”, nên  đã từng lâm vào cảnh đói, đói đến độ chỉ mong sao có một cọng rau muống luộc ăn cho đỡ đói.

Trở lại chuyện anh người con thứ. Vâng, như người xưa có nói “đói đầu gối phải bò”, người con thứ, đói quá, nên anh ta đã “bò” đến một trang trại xin ở đợ. Chủ của anh ta là “một người dân trong vùng, người này sai anh ta ra đồng chăn heo”.   Bên đàn heo, trong cơn đói quằn quại, anh ta “ước ao lấy đậu muồng heo ăn nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho ăn”...

Chìm trong tủi nhục, anh ta “hồi tâm và tự nhủ: biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta lại ở đây chết đói!” Ừ! Tại sao ta lại phải ở đây để chết đói! Vâng, có phần chắc, anh ta đã lẩm bẩm như thế trong lòng mình.

Trong một cơ thể bắt đầu phàn nàn vì đói khát, anh ta đưa ra một đối sách: “Thôi, ta đứng lên đi về cùng cha, và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.

Ô hay! Quả đó là một đối sách khôn ngoan. Chỉ xin “làm công”, chẳng lẽ cha mình không cho sao! Và rồi, chuyện kể rằng: “ anh ta đứng lên đi về cùng cha”.

Còn người cha! Thái độ của ông ta với người con thứ như thế nào? Thưa, thật tuyệt vời.

Thật vậy, trong khi người con thứ mãi mê  “đi bơ vơ bên ghềnh đá, trên sườn non, chân ngựa hoang bước mơ hồ”, thì người cha vẫn hy vọng một ngày nào đó, con ông sẽ “come back home”. Vâng, ông hy vọng con ông trở về.

Có lẽ… có lẽ, ở nhà,  ông ta đã xây một cái tháp rất cao, trên đó treo một tấm băng-đờ-rôn rất lớn, với dòng chữ “welcome home”, với hy vọng, từ đàng xa, cậu quý tử sẽ thấy, thấy được tấm lòng bao dung của ông!

Thế nhưng, người “thấy” trước lại là ông. Ông thấy cậu quý tử trước…

Vâng, chuyện được kể tiếp rằng: lúc “anh ta còn ở xa, thì người cha đã trông thấy”. Ôi! ông ta đã trông thấy một tấm thân tiều tụy của  con mình.  Chạnh lòng thương, tấm lòng người cha tràn ngập sự độ lượng. Và rồi, ông, chính ông ta, đi bước trước. Ông ta đã “chạy ra  ôm cổ anh ta hôn lấy hôn để”.

Thật tuyệt vời! đó là một “nụ hôn” của tình yêu và sự tha thứ. (trái ngược với nụ hôn của Giu-đa với Đức Giê-su, sau này, và đôi khi cũng là nụ hôn của chúng ta, hôm nay).

Tình yêu và sự tha thứ của người cha đã làm cho người con nức nở nghẹn ngào. Anh ta cất lên những lời thống hối xót xa: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…”.(x.Lc 15, 21)

Không! Không đời nào… Con ta vẫn ta con ta… Vâng, đó là sự thật. Sự nhân hậu và độ lượng của người cha, đã biến tâm hồn cô đơn buồn nản của ông, trở thành một tâm hồn “chan chứa tình thương”, để rồi, ông đã tuôn đổ tình thương của mình qua việc yêu cầu các đầy tớ “mau đem áo đẹp ra mặc cho cậu ta, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu...” 

Màu đen của tang tóc đã được biến thành màu hồng, màu của niềm vui. Hôm đó, người cha đã vui, vui vì “…con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (x.Lc 15, 24). 

Vâng, câu chuyện kết thúc thật có hậu. Người con thứ đã “come back home” và người cha đã “welcome home”. Nói cách khác, người con đã “Sám hối và trở về - Người Cha hoan nghênh”.

***
Thiên Chúa, qua hình ảnh người cha trong dụ ngôn, Người đúng là Đấng “Chẳng trách cứ luôn luôn. Không oán hờn mãi mãi””.

Thiên Chúa không nhìn đến “công đức” của con người, nhưng Thiên Chúa nhìn đến sự “hồi tâm và hối cải”. 

Người con thứ trong dụ ngôn đã không có được một việc làm nào được gọi là “tốt lành”, ngoại trừ việc “sống phóng đãng”, thế nhưng, nhờ anh ta “hồi tâm và hối cải”, một dấu chỉ của “sám hối và trở về”, cho nên anh ta đã nhận được một cách nhưng không, lòng từ bi và nhân hậu của người cha.

Thánh Phaolô, sau này, đã khẳng định rằng “Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người” (2 Cor 5, 18).  Rồi ngài nhấn mạnh “Đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa" (Ep 2, 8).

Vâng, ân huệ của lòng Chúa thương xót, cho những ai biết “sám hối và trở về”.

*** *
Thưa bạn, là một Ki-tô hữu, bạn có tin vào lòng Chúa thương xót? Chắc chắn chúng ta sẽ trả lời, rằng: Tin chứ. Tốt, tốt lắm.

Tuy nhiên, chúng ta cần tự hỏi mình,  đó là niềm tin tuyệt đối, hay còn có chút nghi ngờ? Có một lúc nào đó, ta “nghi ngờ” như người con cả trong dụ ngôn?

Vâng, cứ sự thường, khi đề cập đến người con cả, chúng ta thường cho rằng, anh ta  mang nặng trong tâm hồn mình tính ganh tị, hẹp hòi.

Nghĩ như thế không sai. Thật đáng trách khi anh ta kèn cựa với người em, khi thấy người cha “đã làm thịt một con bê béo” đãi đằng cậu ấy, trong khi “chưa bao giờ cha cho (anh ta) một con dê con”, để làm một cái lẩu dê, “ăn mừng với bạn bè”, nên đã nổi giận khước từ “không chịu vào nhà”.

Nhưng, hãy đặt ra vài câu hỏi, sẽ thấy ngay sự nghi ngờ nơi anh ta. Này nhé! “Này anh hai ơi! anh đã ‘mở miệng’ xin cha anh ‘con dê con’ lần nào chưa?”

Hay, anh hai “nghi ngờ” rằng thì-là-mà cha anh là một người hà khắc, keo kiệt, bủn xỉn v.v… và v.v… ?

Không… Thiên Chúa (được ví như người cha trong dụ ngôn), đã được Đức Giê-su truyền dạy, rằng: “Cứ xin thì sẽ được”. Ngài nói tiếp: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em vốn là kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em. Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?”

Thế nên, nếu chúng ta là người anh cả, “đừng ganh tỵ nhau”, thánh Phao-lô khuyên thế. Cũng đừng nghi ngờ tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa (ngưi cha).

Hãy vào “nhà Cha”. Trước là thưởng thức  món “bê thui”, sau rồi, hãy tin người Cha nhân hậu sẽ cho ta con “dê béo” và tất nhiên, sau đó là thưởng thức tiếp để món “lẩu dê” với bạn bè.   

Nói tắt một lời: hãy tin vào “lòng Chúa thương xót”.

Cuối cùng, trong từng giai đoạn của đời người, rất có thể, có lúc, chúng ta là “người con thứ”  đầy kiêu hãnh và ngạo mạn, với một gia tài là học vấn và kiến thức, sẵn sàng rời bỏ mái ấm gia đình Kitô giáo, tìm đến những vùng đất xa lạ, để phung phí giá trị của tự do, mà Thiên Chúa đã ban cho, để khước từ niềm tin truyền thống, mà Giáo Hội đã truyền dạy, để buông mình vào đam mê và dục vọng, để háo hức tìm kiếm chủ thuyết mới, những chủ thuyết chỉ sản sinh bạo lực lẫn hận thù, để lớn tiếng hô hào tự do luyến ái, tự do phò lựa chọn, tự do thờ quấy và phù phép v.v…

Không… tất cả những thứ đó, cuối cùng, rồi cũng dẫn chúng ta đến những “cơn đói” khác, nghiêm trọng hơn. Đó là, những cơn đói, “đói tiền, đói tình, đói quyền lực, đói danh vọng”,  những cơn đói mang nặng “thú tính”.  

Vâng, chỉ là một chút suy tư. Điều quan trọng hơn, đó là, sau khi đọc xong dụ ngôn “người cha nhân hậu”, có điều gì tác động lên tâm hồn của chúng ta? 

Nhà thần học người Hà Lan, Henri Nouwen, sau khi đọc, thú nhận, câu chuyện này đã tác động phần nào cuộc hành trình tâm linh của ông. Và ông đã để lại một lời khuyên, khuyên rằng, “tất cả mọi người Kitô hữu, kể cả ông, luôn phải chiến đấu để được giải thoát khỏi những ‘sự yếu đuối’ cố hữu, thể hiện qua tính cách của hai anh em, hầu có thể trải nghiệm sự tăng trưởng tâm linh mà trở thành người cha hy sinh, sẵn sàng ban cho và sẵn lòng tha thứ” (nguồn: internet).
Làm thế nào để chúng ta “có thể trải nghiệm sự tăng trưởng tâm linh mà trở thành người cha hy sinh, sẵn sàng ban cho và sẵn sàng tha thứ”?

Thưa, Lm Charles E. Miller, trong một bài giảng,  có lời khuyên: “Hãy tự vấn lương tâm để nhận thức được nếp sống hiện tại của mình. Chúng ta cần thành khẩn tự nhủ, như đứa con hoàng đàng, về những gì mình đã làm và chưa làm được trong mối quan hệ với Thiên Chúa và với dân Ngài. Ta nên tự hỏi, mình đang hướng về đâu, trong cuộc sống đời này. Và khi nhận ra là cần phải thay đổi, ta nên  tự ấn định một việc đền tội, phương pháp này sẽ giúp đảo ngược nếp sống chúng ta”.  

Làm sao để chúng ta “nhận ra là (mình) cần phải thay đổi?’. Thưa, Lm. Charles E. Miller khuyên, đó chính là hãy tham gia cách nghiêm túc Bí Tích giải tội. Vâng, một cử chỉ khiêm hạ cho việc sám hối và trở về.

Đừng quên, xưa, người con thứ đã “come back home” và người cha đã “welcome home”. Còn ngày nay, nếu chúng ta  “Sám hối và trở về - Chúa hoan nghênh”.

Petrus.tran






Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...