Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2016

Yêu thương: dấu hiệu người môn đệ của Chúa.

Yêu thương: dấu hiệu người môn đệ của Chúa.

Giáo lý Công Giáo dạy rằng: Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn.
Thứ nhất: Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự. Thứ hai: Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ. Thứ ba: Giữ ngày Chúa Nhật. Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ. Thứ năm: Chớ giết người. Thứ sáu: Chớ làm sự dâm dục. Thứ bảy: Chớ lấy của người. Thứ tám: Chớ làm chứng dối. Thứ chín: Chớ muốn vợ chồng người. Thứ mười: Chớ tham của người.

Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen.

“Mến Chúa và Yêu người”. Vâng, nó như hai mặt của đồng tiền, và luôn phải song hành trong đời sống đức tin của người Ki-tô hữu.
Thánh Gio-an, trong thư thứ nhất đã viết, rằng: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, mà họ không trông thấy”. (x.1Ga 4, 20)

Còn với Đức Giê-su ư! Với Ngài, cũng vậy. Để chứng tỏ là một con người hoàn thiện, người ấy không chỉ “tuân giữ” các điều răn (mến Chúa), mà còn phải “bán tài sản… và đem cho người nghèo” (yêu người).

Vâng, đây là điều Đức Giê-su đã công bố trước một người thanh niên giàu có, khi anh ta đến gặp Ngài, xin bí quyết, “phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời”. (x. Mt 19, 16-22).

Có thể nói rằng; “Yêu người”, hay nói rõ hơn, tình yêu thương giữa con người với con người, luôn là điều được Đức Giê-su coi trọng, coi trọng như là một “điều răn mới”.

Tại sao? Thưa, thứ nhất là bởi, thời đó, trước một “rừng” luật lệ, và, riêng về luật yêu thương, Đức Giê-su đã thấy có một sự “ích kỷ” nào đó qua việc thực thi. Thế nên, trong một lần giảng dạy về tình yêu thương, Ngài đã có những lời dạy dỗ rất mạnh mẽ; “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”.

Tiếp đến là bởi, Ngài cũng đã phải chứng kiến chính những người môn đệ của mình rơi vào vòng xoáy của sự ganh tị và vị kỷ. Các ông, tuy là những người môn đệ cùng một Thầy, nhưng lại không có được tình yêu thương của kẻ đồng môn.

Không ai có thể hiểu được vì sao các môn đệ lại tranh cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả và tại sao hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan lại “muốn Thầy thực hiện cho hai anh em một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”!

Đứng trước thực trạng này, ngoài những lời dậy dỗ về tình yêu thương (nêu trên), Đức Giê-su có thêm một lời dạy dỗ bằng hành động. Hôm đó, trong bối cảnh của một buổi tiệc mừng lễ Vượt Qua, và trong lúc các môn đệ còn đang băn khoăn về một kẻ trong nhóm họ phản bội, Đức Giêsu lên tiếng “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy...”.

Vâng, có thể nói, những lời Đức Giêsu gọi các môn đệ như thế, đã nói lên cái nhìn thấu suốt của Ngài về các ông. Là những tập hợp của nhiều cá tính, họ cần phải được học cách yêu thương.

Cách yêu thương họ cần học đã được Đức Giêsu dạy rằng: "...Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người..." (Mt 20, 17-28). Và Ngài đã thực thi lời dạy, qua cử chỉ rửa chân cho họ, hôm đó.

Hôm đó, nhìn những người môn đệ của mình, Ngài đã nói với họ bằng những lời đầy tha thiết, “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

**
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau.” Mới ở chỗ nào? Thưa, mới ở chỗ “phẩm chất”, mới ở chỗ mang tính tích cực, của điều luật.

Thì đây, chúng ta hãy xem. Người xưa dạy rằng, “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác”, nhưng luật Chúa Giêsu, thì “tất cả những gì chúng con muốn người ta làm cho mình, thì chính các con cũng hãy làm cho người ta.” (x.Mt 12,12).

Vâng, đó chỉ là một ví dụ điển hình, cái “mới” của điều luật, tuyệt vời nhất, chính là người làm ra điều luật, là người đã dám thực thi điều luật một cách tuyệt đối.

Hãy nhìn xem, trên đồi Golgotha, cái chết của Đức Giêsu đã chứng minh cho điều Ngài đã giảng dạy: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu, người liều mạng sống vì người mình yêu”.

***
Hôm đó, kết thúc lời truyền dạy, Đức Giêsu nhấn mạnh, rằng, “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”.

Vâng, với các môn đệ xưa cùng với những tín hữu tiên khởi, thiên hạ đã không nhận ra họ là môn đệ của Đức Giê-su, qua biểu tượng thánh giá đeo trên cổ.

Nhưng, họ đã làm cho mọi người nhận biết họ là môn đệ của Chúa Giêsu qua việc: “Hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung... đồng tâm nhất trí. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (Cv 2, 44-46).

Với chúng ta hôm nay, hãy tự hỏi lòng mình, chúng ta sẽ làm gì để “mọi người nhận biết (mình) là môn đệ của Chúa Giêsu”?

Phải chăng là đi nhà thờ, là siêng năng tham dự Tiệc Thánh, v.v…?
Thưa, rất tốt. Nhưng, sẽ là tốt hơn, nếu trong cuộc sống thực tế hàng ngày, chúng ta chính là “nhân tố” làm cho “láng giềng thân thiết… anh em hòa thuận… vợ chồng ý hợp tâm đầu”.

Thực hiện điều này có quá khó? Thưa, sẽ rất khó, nếu chúng ta không dẹp bỏ được những thói xấu như: nóng giận, ganh tỵ, say sưa, chè chèn v.v…

Thế nhưng, sẽ rất dễ dàng, nếu chúng ta luôn có được một tâm hồn nhân hậu, bác ái, một đức tính hiền hòa, nhẫn nhục v..v.. Nói rõ hơn, đó là “hoa trái của Thánh Linh. (x.Gl 5, 22-23)

Vâng, chúng ta hãy để một phút hồi tâm và tự hỏi mình, rằng, chúng ta đã hội đủ những đức tính (hoa trái) này chưa! Và chúng ta đã sẵn sàng “tiến lên hy sinh vì tình yêu”!

Hay chúng ta cho rằng: Ôi! sống trong một xã hội tràn ngập những con người “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi… lương tâm không bằng lương tháng” v.v… Khó quá! Khó thực hiện quá!

Câu trả lời sẽ là do mỗi chúng ta. Thế nhưng, hãy nhớ rằng: đã là người môn đệ của Đức Giê-su, dù ở không gian hay thời gian nào, dù có sống trong một thể chế nào, biểu lộ tình yêu thương bằng cách trở thành “nhân tố” làm cho “láng giềng thân thiết… anh em hòa thuận… vợ chồng ý hợp tâm đầu”, chính là điều, như lời Kinh Thánh nói: làm “đẹp lòng Chúa và người ta” (x. Hc 25, 1)

Mà… “Làm-đẹp-lòng-Chúa-và-người-ta”, hãy tin, thiên hạ sẽ nghĩ về chúng ta, rằng: “Ồ! Ông (bà) này là người Công Giáo chắc!”

Vâng, có phần chắc, thực hiện tốt những điều nêu trên, “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy”.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 17 tháng 4, 2016

Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi...

Kính chào quý bạn hữu.

Một ngày mới của một tuần mới lại đến. Có ai trong chúng ta lại không muốn được "trò chuyện" với nhau! Và có cuộc trò chuyện nào vui hơn là được "trò chuyện cùng Thiên Chúa".

Vì thế, mời quý bạn hữu cùng petrus.tran bước vào khung trời của Thánh Kinh, bắt đầu từ vườn Eden cho tới Giê-ru-sa-lem, để nghe Thiên Chúa đã nói gì với ta. Và rồi, ta sẽ nói gì với Thiên Chúa.

Kính chúc quý bạn hữu cùng toàn thể gia quyến, một tuần mới an lành.

petrus.tran

***********************
Chúa Nhật IV - PS – C
Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi...

Thiên Chúa nói chuyện với con người. Và con người cũng đã trò chuyện cùng Thiên Chúa. Thiên Chúa lắng nghe con người và con người cũng đã lắng nghe Thiên Chúa.

Thật vậy, nơi vườn Eden năm xưa, Thiên Chúa và con người đã từng sóng đôi bên nhau trò chuyện. Thiên Chúa đã nói với con người, rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở… và thống trị mặt đất”. Con người đã nghe lời Thiên Chúa phán truyền: “Hãy làm bá chủ chim trời cá biển và mọi giống vật trên mặt đất”.

Thiên Chúa còn nói với con người, rằng: “Ta ban cho các ngươi mọi thứ có mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cỏ trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi”. Sau đó Người nói tiếp: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn, nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn”. Con người đã nghe và biết rằng: “…ngày nào ăn… chắc chắn sẽ phải chết”.

Buồn thay! Trong một khoảng khắc “rong chơi cuối trời quên lãng”, con người quay ra “nói chuyện” với Satan, đôi tai con người xoay qua “nghe” Satan nói. Và rồi, những lời đường mật của Satan đã làm cho con người sa ngã và phạm tội bất tuân.

Kết cuộc, con người mất đi những gì Thiên Chúa đã ban cho, để rồi, “nghe thấy tiếng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa… con người sợ hãi… và lẫn trốn”(x.St 3, 8-10)

Tuy nhiên, Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh nói: “Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi”.

Thế nên, dù con người vì phạm tội và mất đi mối tương giao với Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn không vì thế mà quên lãng con người. Người vẫn tìm cách “kết nối” lại mối tương giao đó.

Thật vậy, tác giả thư gửi tín hữu Do Thái cho biết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”. Người Thánh Tử đó chính là Đức Giê-su.
Thiên Chúa, qua Thánh Tử Giê-su, đã “trở nên người phàm và cư ngụ giữa (con người)” để kết nối lại mối tương giao giữa con người với Thiên Chúa, một mối tương giao như “người mục tử với đàn chiên”

Thật vậy, trong những ngày ra đi rao giảng Tin Mừng, Thánh Tử Giê-su đã lớn tiếng nói với mọi người rằng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10, 11&14)

Với người Do Thái thời đó, khi nói tới hai chữ “mục tử”, không ai lại không hiểu vai trò và sứ mạng mà người mục tử sẽ phải gánh vác.

Sứ mạng đó là gì? Với Đức Giê-su, đó là: “tìm chiên lạc nhà Israel”.
**
Vâng, trong những ngày ra đi rao giảng Tin Mừng, đã có lần, khi nhìn thấy đoàn dân đông đúc kéo đến. Đức Giêsu không khỏi “chạnh lòng thương xót!”. Một lần khác, khi nhìn đoàn dân lũ lượt đi theo, Đức Giêsu đã phải thốt lên với các môn đệ rằng : “họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6,34)

Nguyên nhân nào, Đức Giê-su lại có cái nhìn về những người đi theo Ngài như thế? Thưa, nguyên nhân gần, đó là: họ đang phải sống trong sự bất công trước ách thống trị của chính quyền thuộc địa Roma. Đồng thời, họ còn phải oằn vai gánh nặng với những luật lệ do “các kinh sư và người Pharisieu” đặt ra hết sức phi lý.


Thì đây, hãy nhìn xem, có phi lý không kia chứ! Các ngài kinh sư và Pharisieu, họ chỉ biết “ngồi trên tòa Môse giảng dạy… rủ cho được một người theo đạo, nhưng khi họ theo rồi, lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục…”.

Chính vì thế, Đức Giê-su đã nhìn những người đi theo mình như là những con chiên bị những kẻ “chăn thuê” dẫn dắt. Thế nên, hôm đó, Ngài đã nói lên một thông điệp, thông điệp rằng: “Tôi phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (x.Ga 10, ...16)

Trước đám đông cử tọa, Đức Giê-su tuyên bố: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”, cuối cùng, Ngài đã nói lên lòng mong đợi của một người mục tử nhân lành, rằng: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”(x.Ga 10, 27-28)

“Ban cho sự sống đời đời”. Vâng, đó chính là nguyên nhân xa, một nguyên nhân đã làm cho Thiên Chúa “chạnh lòng thương xót” đến nỗi đã sai Con Một Người xuống thế gian, để thế gian được nghe, được nói, được trò chuyện với Thiên Chúa, qua Đức Giê-su.

Thật vậy, trong thông điệp của Đức Giê-su, người Mục Tử nhân lành”, trước đông đảo cử tọa, Ngài đã tuyên bố rằng: “Tôi và Chúa Cha là một”.

***
“Tôi là mục tử nhân lành”, với thông điệp này, nó gợi cho ta nhớ tới Thánh Vịnh 100, 3: “Chính Người đã dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta thuộc dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt”. Ở một chương khác, cũng sách Thánh Vịnh, chúng ta được nghe“…ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt”(Tv 95, 7).

Với dân Do Thái xưa, tiêu biểu là vua David, thì đó là một hồng phúc. Chính ông ta đã cảm nhận được điều đó, nên đã thốt lên: “CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ”. Ông ta, từng là người chăn chiên, ông ta biết, cuộc sống của chiên sẽ như thế nào là do người chăn như thế nào. Mà, người chăn, là một Thiên Chúa giàu tình thương, thì sao lại không là hồng phúc!

Với chúng ta hôm nay, thì sao? Chúng ta, cùng quan điểm vua David, hay như môt số người Do Thái xưa, nhìn Đức Giê-su như là “kẻ điên khùng”, khi nghe thông điệp “người Mục Tử nhân lành, một thông điệp mà Ngài đã công bố?(x.Ga 10, 16-21)
Vâng, Skip Heittzig trong một bài viết mang tựa đề “The good sherperd and his happy sheep”, đã có câu trả lời, rằng: “Chúa gọi chúng ta là chiên vì Ngài biết bản chất của con người. Với bản năng thích hùa theo đám đông, sự sợ hãi và nhút nhát của chúng ta, sự bướng bỉnh và ngu dại của chúng ta và bản chất chống nghịch của chúng ta, chúng ta rất giống những con chiên, hơn nữa chiên không thể tự mình sống còn. Chúng đòi hỏi sự quan tâm thường trực, sự giải cứu và sự chăm sóc của người chăn, nếu không chúng sẽ chết”.
Skip Heittzig chia sẻ tiếp, rằng: “Dù vậy, điểm quan trọng ở đây không phải chúng ta giống như những con chiên, nhưng đúng hơn, chúng ta có một người chăn tuyệt vời”.
Cuối cùng, Skip Heittzig kết luận, “Đó là điều để khoe khoang, hãy nhìn xem Đấng chăn giữ tôi là ai? Hãy xem ai là người kiểm soát cuộc đời của tôi?”
***
Thưa bạn, bạn có đồng ý, đây là một câu trả lời đáng để cho chúng ta suy nghĩ? Nếu có, hãy để tâm hồn mình một phút trong thinh lặng, và tự hỏi: là một Ki-tô hữu, “Chúa có phải là người kiểm soát cuộc đời của tôi? Và tôi đã có được những giây phút “nghe tiếng Ngài gọi”?
Vâng, quả là một câu hỏi không dễ trả lời. Không dễ, như lời mô tả của Ron Rolheiser,OMI, là bởi: “Chúng ta bị bao vây bởi rất nhiều tiếng gọi. Hiếm có giây phút nào trong đời sống mà chúng ta không có ai hay không có cái gì đang gọi tới, ngay cả trong giấc ngủ, những giấc mơ và những cơn ác mộng cũng bắt chúng ta phải chú ý.
Và mỗi một tiếng gọi đều có nhịp điệu và thông điệp riêng của nó. Một số giọng mời gọi chúng ta bước vào, hứa hẹn một cuộc sống tươi đẹp nếu chúng ta làm cái này hay cái nọ, mua sản phẩm này hay ý tưởng kia; một số giọng đe dọa chúng ta. Một số giọng dẫn dắt chúng ta đến gần với thù hận, cay đắng và tức giận, có những giọng khác đòi hỏi chúng ta cố gắng hướng tới thương yêu, lòng biết ơn và tha thứ.
Một số tiếng gọi nói với chúng ta rằng chúng đùa cợt và vui nhộn, chứ không phải là chuyện nghiêm túc, lại có những tiếng gọi khác tuyên bố hùng hồn rằng mình là cấp bách và quan trọng, là tiếng gọi của chân lý không thể kỳ kèo, tiếng gọi của Thiên Chúa”.

Ôi, quả là quá nhiều “tiếng gọi”…

Vậy, chúng ta phải làm gì để nhận ra, đâu là tiếng gọi của Thiên Chúa?

Vâng, ngài Ron Rolheiser,OMI cho ta câu trả lời: “có nhiều nguyên tắc từ Chúa Giê-su, Thánh Kinh, và từ những mạch nguồn sâu thẳm của truyền thống Ki-tô của chúng ta vốn có thể giúp ích cho chúng ta” Và rồi ngài chia sẻ tiếp: “Tiếng gọi của Thiên Chúa được nhận ra trong những lời thì thầm và giọng khẽ, cũng như trong sấm chớp và bão giông”.

Đúng vậy, Samuel như một điển hình. Kinh Thánh kể rằng, đã có lần Đức Chúa thì thầm gọi Samuel trong đêm thanh vắng. Lần đầu tiên, Samuel không nhận ra. Sau, nhờ lời chỉ dẫn của Thầy Ê-li, Samuel đã nhận ra, nghe lời thầy dạy, Samuel cất tiếng nói với Chúa: “Lạy Đức Chúa... tôi tớ Ngài đang lắng nghe”.

Và Thánh Kinh, cũng vậy, đó chính là nơi có rất nhiều “tiếng gọi” của Chúa mà chúng ta sẽ được nghe, nếu chúng ta tiếp cận.

Bởi từ Thánh Kinh, chúng ta mới được biết, rằng: có một người Mục Tử Nhân Lành, người đó chính là Đức Giê-su, một Giê-su Phục Sinh, đã hy sinh chính mạng sống mình vì “đàn chiên”, một Giê-su Phục Sinh, vẫn đứng đó, nơi bàn Tiệc Thánh và cất tiếng mời gọi những “con chiên” yêu dấu của mình, rằng: hãy đến để nhận lấy một thứ cỏ, không phải là thứ cỏ dại, nhưng là thứ cỏ đem lại sự sống đời đời, thứ cỏ mang tên “Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô”.

Và, quan trọng hơn hết, qua Thánh Kinh, chúng ta luôn thấy một Đức Giê-su Phục Sinh, vẫn tiếp tục nói lên lòng mong đợi của một người mục tử nhân lành, rằng: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2016

Chúa đó, phải không, thưa Ngài!

Chúa Nhật III – PS – C

Chúa đó, phải không, thưa Ngài!

Bốn mươi ngày sau Phục Sinh, Đức Giê-su đã hiện ra rất nhiều lần với các môn đệ. Mỗi lần hiện ra, công việc mà Ngài cho là ưu tiên hàng đầu, đó là củng cố đức tin cho các ông.

Có lúc, để vực dậy niềm tin cho các môn đệ, Đức Giê-su đã “mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”. Có lần, như trường hợp hai môn đệ trên đường Emmau, Ngài “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả sách Thánh”. Lại có khi, để họ nhận ra Ngài, Đức Giê-su đã thể hiện bằng cử chỉ “bẻ bánh”. Và, đặc biệt hơn cả, đó là, làm phép lạ. Câu chuyện về phép lạ với “mẻ cá đầy”,  được Đức Giê-su thực hiện ở Biển hồ Ti-bê-ri-a như một điển hình.(x.Ga 21, 1-19).

**   
Vâng, chuyện là thế này. Sau sự kiện Đức Giê-su hiện ra để chứng thực cho sự Phục Sinh của Ngài với tông đồ Tô-ma, các môn đệ cùng nhau trở về Biển hồ Ti-bê-ri-a.
Tại Biển Hồ, thánh sử Gio-an cho biết: “ông Simon Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-dy-mô, ông Na-tha-na-en người Cana miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau”.

Hôm đó, như một người thủ lãnh, ông Phêrô khởi xướng một cuộc hải hành đánh bắt cá. Tất cả mọi người cùng hưởng ứng. Con thuyền lướt sóng ra khơi trong niềm hy vọng của hơn bán tiểu đội. Họ, kẻ lái, người chèo, người thả lưới… Nhưng, than ôi! kết quả chỉ là con số zero.   Câu chuyện kể rằng: “Đêm ấy, họ không bắt được gì cả”.(x.Ga 21, …3)

Hãy để cho mình một chút tưởng tượng. Mà tại sao không tưởng tượng nhỉ! Có lẽ… có lẽ đêm đó, đứng trước nỗi thất vọng của mọi người, anh cả Phê-rô nhìn sao trời, cất tiếng thở than não nề, rằng: “Ai đã từng đêm thức đêm mới biết đêm dài. Mới nghe lòng mình chợt buồn vì thương nhớ ai”.

Vâng, chắc hẳn đêm đó ông Phê-rô “chợt buồn vì thương nhớ” đến Đức Giê-su. Phải chi, có  Thầy ở đây nhỉ! Hẳn rằng, Thầy sẽ “cứu bồ” các ông, như đã từng cứu các ông năm xưa, một cú cứu ngoạn mục. Hồi ấy, suốt cả đêm, họ cũng không đánh bắt được gì. Thế nhưng, sau khi nghe lời Thầy “chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới”. Ông nhớ như in, rằng: hôm đó, ông và các bạn đồng nghiệp đã “bắt được rất nhiều cá, đến nổi hầu như rách cả lưới”(x.Lc 5, …6) Còn đêm nay… coi như “lốc”. Sáng bảnh mắt rồi, còn gì nữa mà chài với lưới!

Vâng, sáng hôm đó, đang khi các ông đem thuyền về neo bến cũ, thì, có bóng dáng “Đức Giê-su đứng trên bãi biển”. Thế nhưng, không một ai nhận ra Ngài. Ngay cả khi Ngài hỏi “Các chú có gì ăn ư!” Các ông vẫn điềm nhiên trả lời: “Thưa không”.

Không có gì ư! Thế rồi, cũng giống như lần trước,  Đức Giê-su khuyên các ông tiếp tục ra khơi với lời dặn dò: “Cứ thả lưới bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”.

Thưa,bạn, nếu là bạn, bạn có nghe lời không? Có lẽ không ít người sẽ không nghe. Không nghe cũng đúng thôi, đúng là bởi, ai lại đi nghe lời một kẻ xa lạ, không quen biết mình. 

Thế nhưng, các môn đệ lại nghe lời. Chuyện kể rằng: “các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.

Tới đây thì mắt các ông mở ra. Và người đầu tiên chính là: “người môn đệ được Chúa thương mến”. Người này nói với Phê-rô: “Chúa đó”.  

Chúa đó ư! Bằng động tác thuần thục của một ngư phủ, ông Phê-rô “vội khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển”. Còn các môn đệ khác thì, “chèo thuyền vào bờ, kéo theo lưới đầy cá”. 

Vâng, “lưới đầy những cá lớn đếm được một trăm năm mươi ba con”.  Các ông cùng với Đức Giê-su, (vì các ông biết rằng đó là Chúa), đã có một bữa “cá đuối nướng” đầy thi vị. 

Thế nhưng, nếu Đức Giê-su dùng phép lạ để chỉ thỏa mãn cơn đói thuộc thể, thì có gì đáng nói! Còn những bữa ăn “thuộc linh” thì sao đây! 

Ai… ai sẽ là người tiếp nối công việc Ngài đã thực hiện trong bữa tiệc ly, “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra (và) trao cho…?” Ai sẽ là người, làm như Ngài đã làm tại biển hồ Ti-bê-ri-a: “cầm lấy bánh trao cho.. rồi cá (nữa)?”


Thế nên, hôm đó, tại biển hồ Ti-bê-ri-a, Đức Giê-su “bàn giao” nhiệm vụ cho các môn đệ, đại diện là tông đồ Phê-rô, bằng những lời gửi gắm đầy trách nhiệm,rằng: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy… Hãy chăn dắt chiên của Thầy… Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. 

Ba lần nhắn nhủ như ba lần khẳng định, là anh… là anh và chỉ là anh Phê-rô. Anh Phê-rô, anh phải như là một thủ lãnh của các thủ lãnh, để tiếp tục lèo lái con thuyền, không phải con thuyền mà anh đang sở hữu để lưới cá, nhưng là “Con Thuyền Giáo Hội”, để “lưới người”.

Vâng, hôm đó, mặc dù có sự hiện diện hai anh em nhà Dê-bê-đê (là hai người muốn được ngồi bên tả và bên hữu Thầy”,  nhưng không thấy họ phản đối điều gì cả.
Mà, có gì để phản đối kia chứ! Hãy nhìn xem! một tông đồ Phê-rô, sau khi đã lãnh nhận trách nhiệm, người ta phải kinh ngạc vì ông  đã “làm cho Giêrusalem ngập đầy  giáo lý của các ông” (x.Cv 5, 28)

*** 
Thánh Vịnh 121 có chép: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến từ nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ ĐỨC CHÚA, là Đấng dựng nên cả đất trời”. 

Vua David đã cảm nghiệm được điều này. Và, các môn đệ cũng thế. Trong lúc quá bế tắc cho sự sinh tồn của mình, các ông đã “ngước mắt” nhìn ra bãi biển, nơi Đức Giê-su đang đứng đó. Và các ông đã nhận được “ơn phù hộ” từ một Đức Giê-su Phục Sinh. 

Nhắc đến điều này để làm gì? Thưa, là để chúng ta nhớ rằng, cũng như các môn đệ xưa, công cuộc mưu sinh của chúng ta hôm nay, không phải là không có những lúc ngặt nghèo, không phải là không có những hôm “không kiếm được đồng xu teng nào cả”. 

Vào những lúc ấy,  không gì tốt hơn là hãy “ngước mắt” nhìn Đức Giê-su Phục Sinh. “Chính Chúa sẽ là người canh giữ bạn. Chính Chúa là Đấng vẫn chở che”. Vâng, đó chính là kinh nghiệm của Vua David.

****  
Hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh vẫn “đứng đó”, tất nhiên, chỗ đứng của Ngài không phải ở một bờ biển xa xăm nào đó trên thế giới này, nhưng là trong “ngôi nhà tạm”, một ngôi-nhà-tạm được đặt ngay giữa lòng “Con Thuyền Giáo Hội” và được tông đồ Phê-rô, mà hôm nay, đại diện là ngài đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô, lèo lái.

Thế nên, để có thể “ngước mắt nhìn Đức Giê-su Phục Sinh”, không có phương cách nào tốt hơn là hãy bước lên “Con Thuyền Giáo Hội”. 

Trên Con Thuyền Giáo Hội, qua một vài cá nhân riêng lẻ, đôi lúc có vẻ như yếu đuối và cũng “vấp ngã” như Phêrô xưa kia. Nhưng sẽ thật sự sai lầm, nếu chỉ nhìn vào sự vấp ngã của một vài cá nhân lẻ tẻ đó,  mà có ý định rời bỏ Con Thuyền Giáo Hội.

Đừng quên rằng, trên Con Thuyền Giáo Hội, vào bất cứ thời điểm nào, vào bất cứ không gian nào, vẫn không thiếu những người như Mẹ Te-rê-sa Calcutta, hoặc như Lm. Macximilianô Kobe v.v…

Một bức thư ngỏ, tuy đã cũ, nhưng vẫn còn tính thời sự hôm nay. Đó là thư ngỏ của Linh mục Martin Lasarte, SDB, đã được gửi cho nhật báo The New York Times là một tờ báo lâu đời ở Mỹ, nổi tiếng là chống đạo Công Giáo, (điển hình là các linh mục), một cách có hệ thống, thư viết rằng: “hãy quan tâm đến hàng ngàn các linh mục khác, đã hiến đời mình và phục vụ hàng triệu trẻ em, thanh thiếu niên và các người bất hạnh nhất ở bốn phương trời của thế giới”.

Cũng trong bức thư ngỏ, ngài đã làm chứng rằng “Tôi phải di chuyển qua các con đường đầy mìn do chiến tranh trong năm 2002, để giúp đỡ các em nhỏ đang chết đói từ Cangumbe đến Lwena (Angola), bởi vì cả chính quyền không thể làm được và cả các tổ chức phi chính phủ không được phép làm.

Tôi đã chôn cất hàng chục trẻ em chết do việc dời chỗ vì chiến tranh. Chúng tôi đã cứu sống hàng ngàn người dân ở Mexico, nhờ một trung tâm y tế duy nhất hiện hữu trong một vùng có diện tích 90.000 km2, với việc phân phát thực phẩm và các loại giống cây trồng.

Chúng tôi đã có thể cung cấp giáo dục và trường học trong mười năm qua cho hơn 110.000 trẻ em. Cùng với các linh mục khác, chúng tôi đã cứu trợ cho gần 15.000 người ở các trại du kích quân, sau khi họ đã đầu hàng và giao nạp vũ khí, bởi vì thực phẩm của chính phủ và của Liên Hiệp Quốc không thể đến được với họ…”

Vâng, đó là những gì mà chúng ta nên quan tâm và New York  Times nên đăng tải, thay vì đăng tải vài vụ “vấp ngã” lẻ tẻ của một vài linh mục riêng lẻ, nếu quý báo còn chút lương thiện…

Cuối thư ngỏ, vị linh mục này có một lời cầu nguyện đầy chân thành được ghi lại như sau “Quá khứ của con, Lạy Chúa, con phó thác cho lòng Thương xót của Chúa; hiện tại của con, cho Tình yêu Chúa; và tương lai của con, cho sự Quan Phòng của Chúa”.

Vì thế, hôm nay, nếu người vấp ngã là chính ta, đừng vội ngã lòng, hãy nhớ rằng: Đức Giê-su, trên Con Thuyền Giáo Hội, Ngài vẫn luôn hiện diện qua các Bí Tích (Giải Tội và Thánh Thể), và chờ chúng ta “ngước nhìn”.

Vâng, nếu chúng ta “ngước nhìn” và đón nhận. Đức Giê-su Phục Sinh, qua vị linh mục, Ngài sẽ nói với chúng ta, như đã nói với người phụ nữ ngoại tình năm xưa, rằng: “Ta không lên án con đâu. Thôi cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. 

Nếu chúng ta “ngước nhìn” và đón nhận. Đức Giê-su Phục Sinh, qua vị linh mục, Ngài sẽ nói với chúng ta, như đã nói với các môn đệ năm xưa, rằng: “Hãy cầm lấy mà ăn”.

Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, mặc cho những phong ba bão táp, phong ba bão táp bởi những chủ thuyết vô thần, hiện sinh, bởi những phong trào hô hào Thiên Chúa đã chết rồi, bởi những nhà cầm quyền vô tôn giáo, Con Thuyền Giáo Hội không vì thế mà bị “cuốn theo chiều gió”, trái lại vẫn lướt sóng ra khơi. 

Nhờ đâu? Thưa, nhờ có sự hiện diện của Đức Giê-su Phục Sinh, trong ngôi nhà tạm, ngự trên Con Thuyền Giáo Hội. Thì đây, Đức Giê-su đã chẳng nói rằng: “Thầy ở lại với anh  em mọi ngày cho đến tận thế” đó sao!

Thưa bạn, bạn có tin không? Nếu tin, tôi và bạn, chúng ta hãy bước lên Con Thuyền Giáo Hội, đến bên “ngôi nhà tạm”, ngước nhìn” Đức Giê-su Phục Sinh mà cất tiếng thưa với Ngài, rằng: “Chúa đó, phải không, thưa Ngài”!

Petrus.tran

Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2016

Đừng vắng mặt như Thánh Tô-ma…

Chúa Nhật– II – PS – C

Đừng vắng mặt như Thánh Tô-ma…

“Chúa đã sống lại thật rồi”. Sự kiện này đã được  các môn đệ nói với ông Tô-ma, rằng: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Thế nhưng, Tô-ma vẫn chưa tin. 

Không hiểu từ bao giờ, cứ mỗi mùa lễ Phục Sinh, nhắc đến Tô-ma, người ta thường nói, ông là kẻ “cứng lòng tin”. Có người còn phong cho ông là “ông tổ” chủ nghĩa thực chứng.

Có phải thế không? Hay,  tất cả mười môn đệ còn lại đều cứng lòng như ông?  Thưa, Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, qua  trình thuật Tin Mừng Gio-an, sẽ cho chúng ta câu trả lời chính xác. (Ga 20, 19-31).

**
Vâng, theo thánh sử Gio-an kể lại, thì, chuyện xảy ra vào chiều ngày thứ nhất trong tuần. Hôm đó, các môn đệ của Đức Giêsu tụ họp trong một ngôi nhà. Các ông vẫn chưa thoát khỏi sự bàng hoàng về cái chết của Thầy mình. Các ông vẫn chìm  trong sự  sợ hãi và hoang mang.. 

Làm sao không sợ hãi khi nhóm thượng tế và các kỳ mục đã nham hiểm cho lính một số tiền lớn và bảo họ tung tin đồn rằng, vào ban đêm “các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác” (Mt 28, 13). 

Vào thời đó, trộm xác là một tội rất nặng. Cho nên, hôm đó, “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”. 

Còn hoang mang ư! Vâng, hãy nhìn xem, nếu được tính từ hôm “thứ sáu sầu thảm”,  ngày Đức Giêsu bị đóng đinh trên cây thập tự tại núi Sọ, nay đã quá bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Sắp hết ba ngày rồi… Thế mà, lời phán hứa của Thầy rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9, 31)… Ôi! Sao vẫn chưa thấy ứng nghiệm! 

Vâng, đang lúc tâm hồn các môn đệ  “…như lá úa trong cơn mê chiều, nhiều cơn gió cuốn xoáy xoay trong hồn và cơn đau này vẫn còn đây”, thì… không ai có thể tin được, “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em”.

Thầy đó ư! Lời Thầy đã ứng nghiệm rồi sao! Thưa, đúng vậy. Sự hoang mang và ngờ vực, sự sợ hãi và lo lắng của các ông được nhường chỗ cho: “niềm vui mừng vì được thấy Chúa”. Chính Đức Giêsu, chứ không là ai khác, “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Bàn tay và cạnh sườn in đậm dấu tích của vết đinh và mũi đòng.

Hôm đó, thật đáng tiếc, thiếu vắng tông đồ Tôma. Chính sự vắng mặt của ông đã khiến ông không tin sự kiện Đức Giêsu hiện đến với các bạn đồng môn của mình. Ông ta quan niệm, rằng: “Bách văn bất như nhất kiến Trăm nghe không bằng một thấy”. 
Thế nên, dù đã được các bạn đồng môn quả quyết “Chúng tôi đã được thấy Chúa”, ông vẫn không tin. Không tin, ông còn lớn tiếng nói rằng “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).

Tám ngày sau, cũng giống như lần trước, mặc cho “các cửa còn đóng kín” Đức Giêsu hiện đến, Ngài đứng giữa các ông, cũng một lời chúc “Bình an cho anh em”, rồi Ngài bảo với ông Tôma rằng, “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.” (Ga 20, 27).

Nghe thế, Tôma đứng sững như hình hài pho tượng, nghĩ đến những chữ “nếu… nếu tôi… nếu tôi…”, có lẽ lúc đó ông ta lẩm bẩm “nếu ngày đó mình đừng (không tin), thì ngày nay có đâu buồn đau, có đâu buồn đau”!!!
 
Đúng vậy, nếu hôm đó Tô-ma đừng thách thức thì hôm nay ông đâu có phải buồn đau nghe Đức Giê-su nói: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”.
 
Nhìn Thầy Giê-su, một Giê-su bằng xương bằng thịt, với tất cả dấu tích của cuộc khổ hình, sự hồ nghi đã biến khỏi tâm hồn của ông, hình ảnh một Đức Giê-su Phục Sinh rõ mồn một trước đôi mắt ông. Và rồi, ông đã cất tiếng nhìn nhận Đức Giê-su chính là: “…Chúa của con, …Thiên Chúa của con” (x.Ga 20, 28).
 
** *
Trước sự cứng lòng tin của Tô-ma, Đức Giê-su chỉ nói với ông một câu “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.”Phải chăng, đây là lời Đức Giê-su trách cứ ông Tô-ma?
 
Thật ra, đâu chỉ có mình Tô-ma cứng lòng tin. Còn đó là cả nhóm mười người trong họ, dù đã nghe bà Maria Mác-đa-la nói “(Chúa) đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin”(x.Mc 16, 11)
 
Rồi đến hai môn đệ trên đường Emmau,theo lời họ kể, dù đã biết “có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi… ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy”… Ấy thế mà, hai vị vẫn chưa tin, họ khăn gói quả mướp trở về Emmau, quê mình.
 
Thì đây, dù đã đi bên cạnh Đức Giê-su suốt cả buổi chiều, rồi được nghe Ngài diễn giải Kinh Thánh, hai vị vẫn không nhận ra một Đức Giê-su Phục Sinh. Phải đợi đến khi Ngài mở đôi mắt tâm hồn, họ mới nhận ra Ngài qua cử chỉ “bẻ bánh”.
 
Lại còn bà Maria Mác-đa-la, “Trên đường bà thấy những gì? Xin kể cho chúng tôi nghe”. Vâng, bà ta đã thấy “Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su… Bà tưởng là người làm vườn” (x.Ga 20, 14-15)
 
Vâng, kẻ đáng trách, chính là cả “Nhóm Mười Một”. Đức Giê-su,  trong một lần tỏ mình ra cho các ông, khi các ông đang dùng bữa, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người trỗi dậy” (x.Mc 16, 14)
 
Dẫu sao, sự cứng lòng tin của Tô-ma, sự chậm tin của những môn đệ khác, đã chứng minh rằng:  họ không hề là những người có một đức tin “mù quáng, tin đại”, trái lại, họ là những người  có một niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh, đích thực. Nói cách khác, các Ngài đã thật sự gặp được Đức Giê-su Phục Sinh.
 
Cuối cùng, nhờ sự cứng lòng tin của Tô-ma, nên các ông (và hôm nay là chúng ta) được Đức Giê-su tặng thêm một lời chúc phúc, “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
 
*** *
Và bây giờ là đến chúng ta. Là một Ki-tô hữu, sau bao mùa Phục Sinh, hãy để tâm hồn mình một phút trong thinh lặng và tự hỏi, tôi đã tin rằng Đức Giê-su đã Phục Sinh? Tôi đã thật sự gặp Đức Giê-su Phục Sinh?
 
Nếu ta chưa gặp, phải chăng là vì ta tìm “Người sống ở giữa kẻ chết”? Nói cách khác, phải chăng là vì ta lo mải mê tìm những lạc thú trần gian… tìm những hư danh chóng qua v.v…?
 
Nếu ta chưa gặp, phải chăng là vì ta không lắng nghe tiếng Chúa Phục Sinh gọi tên mình,  như xưa kia Chúa Phục Sinh đã gọi tên bà Maria Mác-đa-la rằng: “Maria”? Ngược lại, hay ta để đôi tai của mình nghe những tiếng gọi của quyền lực, của danh vọng, của tiền bạc, là những thứ chỉ đưa ta tới chốn thung lũng âm u, nghi ngờ, chết chóc?
 
 
Đức Giê-su Phục Sinh không bao giờ ngừng gặp gỡ, cho dù đó có là giờ thứ hai mươi lăm. Cho dù ta chỉ là một người “cứng lòng tin” trong số cả triệu người đã tin, muốn được gặp Ngài

Để gặp gỡ, sẽ không bao giờ Ngài mệt mỏi bởi thời gian. Sẽ không bao giờ Ngài thất vọng về “con số”, dù đó chỉ là con số một. Thì đây, đã có một Phao-lô tại Damas, một Augustino thành Hippo, một Phanxicô Assisi, một Charles de Foucauld, một Pascal v.v…

Riêng Tông đồ Phao-lô, ngài đã làm chứng điều này. Ngài nói: “Người cũng đã hiện ra với tôi, (trước đó là hơn năm trăm anh em một lượt), là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non”(x.1Cor 15, 8)

Đừng bao giờ thắc mắc vì sao tông đồ Tô-ma,  lý do nào ngài đã “vắng mặt”, vào ngày thứ nhất trong tuần,  vì đó là điều không còn cần thiết. 

Nếu có hỏi, hãy hỏi mỗi chúng ta hôm nay, rằng:  Lý do nào khiến chúng ta “vắng mặt” trong ngày Lễ Chúa Nhật?

Chúa Giêsu Phục Sinh không quá thiên vị, Ngài vẫn đứng đó, đứng ngay “Bàn Tiệc Thánh” chờ đợi những ai tìm đến gặp Ngài.Ngài vẫn đứng ngoài cửa tâm hồn của ta và nói: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng ta  và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta”(x.Kh 3, 20)

Vâng, để thấy Chúa Giê-su Phục Sinh, để Chúa Giê-su Phục Sinh gọi tên của mình, không nhất thiết phải  tìm  đến “ngôi mộ trống” ở Giê-ru-sa-lem năm xưa. Nơi cần đến, chính là ngôi nhà thờ, tại bàn Tiệc Thánh Thể,  nơi đây, Đức Giê-su Phục Sinh, qua vị linh mục, sẽ nói với chúng ta rằng: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.  

Đừng quên, lời phán hứa của Đức Giê-su, cho những ai đến tham dự bàn Tiệc Thánh, rằng “Ai ăn … sẽ được sống muôn đời”.

Thưa bạn, bạn có tin không? Vâng, câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, hãy nghe lời khuyên của  Lm Charles E. Miller, rằng: “Chúng ta đừng để mình trở thành kẻ đa nghi, và cũng đừng vắng mặt như Thánh Tô-ma”.

Vâng, đã là một Ki-tô hữu: “đừng vắng mặt như Thánh Tô-ma”.

Petrus.tran

Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...