Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2016

Hãy nương cậy nơi Chúa.

Chúa Nhật XVIII – TN – C
 
Hãy nương cậy nơi Chúa.
 
Cuộc sống của con người là một chuỗi dài của những ước mơ. Bên cạnh những ước mơ, còn đó là những định hướng cho tương lai của mình. Những ước mơ và sự định hướng đó thành công hay thất bại luôn phụ thuộc vào khát khao của ta có cháy bỏng hay không. 
 
Nó cũng không loại trừ ta phải có sự tự tin, sự kiên trì và có kế hoạch. Khi nói tới kế hoạch, có thể nói rằng, mỗi người là một cách thức riêng tư. Và cứ sự thường thì, dựa vào sự hiểu biết của mình, người ta luôn nghĩ rằng, tốt nhất là hãy nương cậy vào vào một ai đó (có thế lực) như một bảo đảm cho thành công của mình. 
 
Thế nhưng, với cuộc sống hôm nay, nói theo nhận xét của người Roma xưa “Homo homini lupus - Con người đối xử với nhau chẳng khác gì chó sói”, thì ai sẽ là người để ta nương cậy? Tạ ơn Chúa, Kinh Thánh cho ta biết, có một Đấng có thể điều khiển được kế hoạch của ta theo ý Người, mà chúng ta không thể làm khác đi được. 
 
Thật vậy, nếu người xưa cho ta biết “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, thì, Kinh Thánh nói rõ hơn, rằng : “Hãy hết lòng tin tưởng vào ĐỨC CHÚA, chớ hề cậy dựa vào hiểu biết của con. Hãy nhận biết Người trong mọi đường đi nước bước. Người sẽ san bằng nẻo đường con đi” (Cn 3, 5-6) 
 
Đức Giê-su, trong những ngày còn tại thế, Ngài cũng đã không ít lần truyền dạy mọi người hãy phó thác mọi kế hoạch cho cuộc sống của mình vào Thiên Chúa. Rõ nét nhất, đó là câu chuyện một người đến xin Ngài làm thẩm phán để chia gia tài. 
 
Vâng, chuyện được kể rằng: Một hôm, có một người trong đám đông đến gặp Ngài. Người này gặp Đức Giêsu để xin Ngài chữa bệnh ư! Thưa không, người này đến xin Ngài đứng ra dàn xếp việc “chia gia tài”… 
 
Chia gia tài ư! Vâng, theo truyền thống Do Thái, rabbi chính là người có thẩm quyền phân xử và có lẽ người này nghĩ rằng Đức Giêsu cũng là một rabbi, nên đã đến với Ngài và nói “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”. 
 
Thế nhưng, thật đáng tiếc, Đức Giêsu đã từ chối, từ chối bằng một câu trả lời như trách khéo, rằng “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện, hay người chia gia tài cho anh?” (Lc 12,14). 
 
Tại sao Đức Giêsu không phân xử? Thưa, khi đến gặp Ngài, qua câu nói: “bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi”, vâng, có vẻ như người này muốn áp đặt, muốn ra lệnh Đức Giêsu phải thực hiện rốt ráo điều anh ta xin. 
 
Mà, Đức Giê-su đến thế gian nào phải để làm thẩm phán hay quan tòa của thế gian! 
 
Giêsu đến thế gian là để “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn… công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. 
 
Muốn Giê-su trở thành một rabbi sao! Được thôi! Nhưng Rabbi-Giêsu, sẽ không là thẩm phán, Ngài “là đường, là sự thật và là sự sống”, nói tắt một lời là để “ai tin vào Người thì được sự sống muôn đời”. 
 
Chia gia tài để số tiền đó thuộc về ta ư! Đúng vậy… “Đồng tiền là tiên là phật. Là sức bật của tuổi trẻ. Là sức khỏe của tuổi già. Là cái đà của phát triển. Là nổi điên của kẻ giàu. Là nỗi đau của kẻ yếu. Là điểm yếu của kẻ tham. Là đam mê của kẻ trộm. Là nỗi hỗn độn của thị trường. Là chặng đường của doanh nhân. Là cái cân của công lý. Có tiền là hết ý”, thế thì cớ sao không đòi chia gia tài?
Thế nhưng, đồng tiền như thế, đồng tiền có mua được sự sống đời đời?
 
Chính vì thế, Đức Giêsu cho người này một lời khuyên, Ngài khuyên rằng, “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”. 
 
Và sau đó, Đức Giêsu đã kể một dụ ngôn, dụ ngôn nói về “người phú hộ thu tích của cải cho mình”. Dụ ngôn được kể rằng, “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa màu!”. 
 
Ơ kìa! Chuyện nhà nông mùa màng bội thu và lo ngại kho bãi không còn chỗ chứa thì có gì để lên án! Đúng, đúng là không có gì đáng lên án, mà còn phải khen nhà phú hộ là khôn ngoan biết lo xa với những dự tính như “xây những cái kho lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó”. Kinh Thánh chẳng đã khen “Người khôn ngoan biết để dành” đó sao! 
 
Thế nhưng, điều cần nói ở đây, đó là nhà phú hộ kia, trước những thu hoạch đạt được, lại dương dương tự đắc coi trời bằng vung, cho rằng, tất cả “của cải ê hề, dư xài nhiều năm”, mà ta có, không liên quan gì đến trời đất gì cả, chỉ duy nhất một người sở hữu đó là “ta”. 
 
Đáng trách hơn, ông ta ngạo mạn vung vít rằng, “Hồn ta hỡi… cứ ăn uống vui chơi cho đã!” Ông ta không cần biết, ai đã tạo dựng “hồn-ta”? 
 
Ai… ai đã “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”?. Vâng, quả là một lời tuyên bố rất kiêu căng ngạo mạn. Ông ta quên rằng: Kinh Thánh có nói “Sự kiêu ngạo đi trước sự bại hoại theo sau”. 
 
Qua câu chuyện dụ ngôn, Đức Giê-su cho chúng ta biết, sau lời tuyên bố đó, Thiên Chúa đã lên án ông ta rằng: “Đồ ngốc!” Vâng, đúng là ngốc thật, vì như lời Thiên Chúa nói tiếp, thì giả như “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” 
 
Thiên Chúa không chúc dữ người giàu có. Trái lại, giàu có là ơn phúc Thiên Chúa ban. Thật vậy, sách sáng thế ký đã kể rằng, “ông I-xa-ác đã gieo vãi trong đất ấy, và năm đó ông thu hoạch gấp trăm lần, ĐỨC CHÚA đã chúc phúc cho ông, và ông trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu vô kể… khiến cho người Phi-li-tinh phải ghen tị”. Và còn Gióp nữa, ông ta được mệnh danh là người giàu có số một trong số các con cái Phương Đông (x.G 1, 2) 
 
Điều Đức Giê-su muốn truyền dạy, qua dụ ngôn nảy, đó là: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó”. 
 
**
“Đồ ngốc” phải chăng, đó cũng là lời Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay? Đúng vậy, nếu chúng ta chỉ biết “thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”. 
 
Vâng, trong thư thứ nhất gửi cho Ti-mô-thê, thánh Phao-lô có lời cảnh báo cho những ai làm giàu trước mặt thế gian, rằng: “Còn những kẻ muốn làm giàu thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong”. 
 
Và sau đó ngài nói tiếp: “Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã xa lạc đức tin và chuốc bao nỗi đau đớn sâu xé”(x.1Tim 6, 9-10). 
 
Thực tế trong cuộc sống hôm nay, điều cảnh báo của thánh Phao-lô đã xảy ra nhan nhản khắp nơi, không chỉ ngoài xã hội mà ngay cả trong đời sống giáo hội. 
 
Trở lại dụ ngôn “nhà phú hộ”. Vâng, qua dụ ngôn này, thông điệp Đức Giê-su đưa ra, đó là, trước hết hãy nương cậy vào Thiên Chúa. Trong những ngày còn tại thế, chính Ngài đã từng có lời truyền dạy, rằng: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia. Người sẽ thêm cho” (x.Mt 6, 33)
 
Với Lm. Charles E. Miller, ngài cho thêm lời khuyên “Chúng ta có thể và phải cầu nguyện cho các nhu cầu cá nhân của mình và của những người thân, đồng thời cũng nhớ đến lời thánh Phao-lô nhắc nhớ: ‘anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới”. 
 
Thế nào là hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới? Thưa, đó là: “đừng xòe tay ra nhận, rồi nắm lại khi phải cho đi” (Hc 4,31). 
 
Phải chăng, lời Kinh Thánh này như là một kế hoạch tốt nhất cho việc xây cất kho lẫm cho cuộc đời mình? 
 
Thưa, đúng vậy. Bởi, như lời Đức Giê-su đã nói “Mỗi lần các người làm như thế cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”. 
 
Làm-cho-chính-Ta-vậy, có khác nào là “làm giàu trước mặt Thiên Chúa”! 
 
Vâng, chúng ta có quyền lựa chọn, hoặc theo kế hoạch của nhà phú hộ, hoặc theo kế hoạch của Đức Giê-su truyền dạy. Nhưng, có một điều chúng ta cần nhớ, đó là, đừng để sự lựa chọn của chúng ta trở thành nguyên cớ, mà sau này, nơi tòa phán xét, quan tòa Giêsu sẽ nói với chúng ta rằng “Đồ ngốc!”
 
Thưa bạn, bạn có sợ vào ngày sau hết Đức Giê-su sẽ nói với mình câu nói đó? Nếu sợ, điều tốt nhất của chúng ta hôm nay, đó là, mỗi khi chúng ta đưa ra một kế hoạch nào đó cho cuộc đời mình, thì “Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Nương cậy vào Người, Người sẽ ra tay”(x.Tv 37, 5)
 
Petrus.tran

Thứ Ba, 26 tháng 7, 2016

“Lạy Cha...”

Kinh Lạy Cha: thông điệp của tình yêu.

Là một tín hữu Công Giáo, hẳn rằng, không ai trong chúng ta lại không biết đến lời cầu nguyện được mang tên là kinh Lạy Cha. Thế nhưng, nếu được hỏi, kinh Lạy Cha tác giả là ai, có phần chắc, không ít người trong chúng ta không biết đến. Ai là tác giả kinh Lạy Cha? Thưa, chính là Đức Giê-su. Điều này đã được ghi lại trong tin mừng thánh Luca.

Vâng, tin mừng thánh Luca kể lại rằng: “Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện và khi Người cầu nguyện xong thì có một người trong nhóm môn đệ…” đến bên Đức Giêsu.

Người này là ai và tại sao lại đến một mình? Phải chăng là để “thỏ thẻ” riêng tư với Đức Giêsu xin đặc ân này, đặc ân kia, như anh em nhà Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an có lần đến bên Ngài xin được ngồi bên tả, bên hữu Thầy, khi Thầy được vinh quang? Thưa, không thấy thánh sử Luca nói đến tên. Còn chuyện “xin” thì đúng là có.

Thế nhưng, điều anh ta xin, không phải xin một điều gì đó cho cá nhân anh ta, mà là xin cho “chúng con”, xin cho tất cả những người bạn đồng môn của mình.

Anh ta xin gì! Thưa, đến bên Đức Giêsu, anh ta nói: “Thưa Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông”. Xin-Thầy-dạy-cầu-nguyện-ư!

Ô hay! Chẳng lẽ trước kia các Rabbi Do Thái không dạy các ông cầu nguyện sao!

Thưa không phải, hầu hết các tín hữu Do Thái đều biết cầu nguyện. Theo truyền thống, họ cầu nguyện ba lần mỗi ngày và bốn lần trong ngày lễ Sabát hoặc các ngày lễ quan trọng khác. Ngoài các buổi cầu nguyện chung, người Do Thái còn cầu nguyện riêng và đọc kinh tạ ơn cho những sinh hoạt khác, trong ngày.

Thế thì, vì sao người môn đệ đó lại xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện? Xin thưa, Do Thái giáo có nhiều hệ phái khác nhau và tùy theo mỗi hệ phái, cách thức cầu nguyện cũng khác nhau. Các khác biệt có thể kể đến như: “kinh đọc, mức độ thường xuyên của các buổi cầu nguyện, số lượng kinh cầu trong các buổi phụng vụ, cách sử dụng nhạc cụ và thánh ca, các lời kinh cầu theo ngôn ngữ tế lễ truyền thống hoặc tiếng địa phương” (nguồn: internet).

Mười hai môn đệ là một tập hợp của nhiều vùng miền khác nhau, rất có thể, giữa các ông, với sự bảo thủ theo hệ phái, đã không có một sự thống nhất trong việc cầu nguyện. Nay, sau nhiều lần chứng kiến hình ảnh Thầy-của-mình cầu nguyện với một tâm hồn ngây ngất hướng lòng lên Chúa Cha,vâng, chắc hẳn hình ảnh linh thiêng đó đã in đậm vào tâm trí các ông với những câu hỏi “vì sao”?

Vì sao! Vì sao mỗi lần Thầy Giêsu cầu nguyện, trời và đất như có sự tâm giao? Vì sao chỉ một lời Thầy Giêsu cầu nguyện “thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người…” (Lc 3, 22).
Vì sao cứ hỏi vì sao! Vì sao cứ hỏi vì sao trên trời, hay sao!

Vâng, có thể đó là lý do khiến các ông khao khát được chính ông Thầy của mình, chứ không phải “ông Gioan tu rừng”, dạy cho các ông cách cầu nguyện. Đáp lại lòng khao khát của các môn đệ, Đức Giêsu đã dạy rằng: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con,và xin đừng để chúng con xa chước cám dỗ”.

** Có gì khác biệt giữa bài cầu nguyện mà Đức Giêsu đã dạy các môn đệ, (và hôm nay là cho chúng ta), với những bài cầu nguyện theo truyền thống đạo Do Thái?

Thưa có, khác biệt thứ nhất và quan trọng nhất, đó là, qua bài cầu nguyện, Đức Giêsu đã cho các môn đệ biết rằng, Thiên Chúa không phải là một “ông thần” xa lạ và ngăn cách, nhưng là một Thiên Chúa rất gần gũi với con người, một Thiên Chúa là “Cha”, một người Cha không còn bị ngăn cách bởi “các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe”, nhưng là một người Cha sẵn sàng ban cho những ai đến “cầu xin”, sẵn sàng tiếp đón những ai đến “tìm” và sẵn sàng tiếp nhận những ai đến “gõ cửa”.

Thật rõ ràng khi hôm đó Ngài đã nói về một Thiên Chúa Cha đầy lòng thương xót, rằng: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy. cứ gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho”. 

Và, như một cách nhấn mạnh về thông điệp này, Đức Giê-su đã làm một so sánh rất thực tế, rằng: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”

Khác biệt thứ hai cũng không kém phần quan trọng, đó là, qua bài cầu nguyện, Đức Giêsu đã “nâng cấp tình người” lên một bậc. Nếu luật xưa đã dạy “không báo oán, không cưu thù” thì nay, qua bài cầu nguyện, Đức Giêsu dạy rằng, chẳng những không báo oán ,không cưu thù mà còn phải “tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”.

Vâng, có thể kết luận rằng, bài cầu nguyện Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ khi xưa, chính là một thông điệp, thông điệp về tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người.

*** “Lạy Cha”. Vâng, Đức Giêsu,qua Giáo Hội, Ngài vẫn tiếp tục dạy chúng ta lời kinh nguyện mẫu mực này. Sẽ không thể là một người Kitô hữu đúng nghĩa, nếu một ai đó trong chúng ta không biết, không thuộc bài kinh cầu nguyện này.

Tại sao? Xin thưa, bởi vì, chính trong lời kinh này nhắc nhở chúng ta nhớ đến điều răn quan trọng nhất của người Kitô hữu, đó là “mến Chúa và yêu người”.

Thật vậy, khi đọc những lời cầu nguyện đầu của bài kinh này, một cách nào đó, nhắc nhở chúng ta hãy đặt Thiên Chúa trên hết tất cả những danh dưới gầm trời này. Và đó cũng chính là một lời mời gọi chúng ta “yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” của ta.

Còn lời những lời cầu nguyện tiếp theo thì sao? Thưa, những lời kinh nguyện này mời gọi chúng ta “yêu người”, một cách thức yêu người rất nhân bản. Thật vậy, ta không thể nói tôi “yêu người” khi ta không “tha lỗi” vô điều kiện cho những ai “mắc lỗi” với chúng ta.

Khó đấy! nhưng đó là một lời cầu nguyện, một lời cầu nguyện do chính Đức Giê-su truyền dạy, và chúng ta đọc mỗi ngày.

Vâng, về điểm này, ĐTC Phanxico, trong bài giảng lễ sáng ngày thứ năm 16.06.2016, tại nguyện đường Santa Marta, có lời chia sẻ, rằng: “Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta tha cho những ai lỗi phạm với chúng ta như Cha tha cho chúng ta, nên đây là lời kinh đem đến ý thức anh chị em với nhau, ý thức chúng ta là một gia đình. Thay vì hành xử như Cain thù ghét em trai mình, điều quan trọng là chúng ta phải biết tha thứ, quên đi những lỗi phạm với chúng ta, hãy có thái độ lành mạnh biết nói rằng ‘thôi quên đi’ và đừng tích tụ những cảm giác hiềm khích, phẫn uất hay muốn báo thù”.

Và, ngài nói tiếp: “khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta có thể cảm nhận Chúa đang nhìn mình và lời kinh này phải là đá tảng cho đời sống cầu nguyện của chúng ta”. (nguồn: INTERNET)

Thế nên, mỗi khi đọc bài kinh cầu nguyện này, đừng đọc như một “con vẹt”, như là để “trả bài” trước mặt Thiên Chúa. Đọc như thế, có thể nói rằng, chúng ta đang biến mình thành “cái máy cassette tụng kinh”, đọc như thế có khác nào “lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời”. Vâng, Đức Giêsu nói: “Đừng bắt chước họ”. (Mt 6, 8).

Chúng ta đã được dạy rằng, khi đọc những bài kinh nguyện mẫu, hãy “miệng đọc lòng suy” và đừng quên lời thánh Phaolô dặn dò rằng, hãy đem tất cả tâm tình của một người con trải-lòng-ra “cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều (chúng ta) thỉnh nguyện” (Pl 4, 6).
Một khi chúng ta đọc kinh nguyện trong một tâm tình như thế, hãy tin, không có lý do gì Cha-chúng-ta-là-Đấng-ở-trên-trời, lại không nhậm lời, và như lời Đức Giêsu đã nói: “Lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”

Có thể kết luận rằng, khi đọc Kinh Lạy Cha dù là ở “tư thế đứng, có lúc dang tay ra, có lúc ngước mắt lên trời, có lúc nắm tay người bên cạnh… bất luận tư thế hay cử chỉ của chúng ta là thế nào trong lúc đọc kinh Lạy Cha, anh em phải nhận ra mình được diễm phúc biết bao khi xưng hô với Thiên Chúa, theo cách của Chúa Giêsu (đã xưng hô trong vườn cây dầu) khi gọi Thiên Chúa là “Abba, Lạy Cha”. (trích lời giảng của Lm Charles E. Miller) “

Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”. Vâng, hãy đọc với tất cả tâm tình “miệng đọc lòng suy”. Nếu không đọc với tâm tình như thế, thì, những lời kinh nguyện của chúng ta, dù được đọc hàng triệu lần, thì cũng chỉ như: “Dã tràng se cát biển đông. Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Nói, theo cách nói nhà đạo, “chẳng sinh ơn ích gì”.

Petrus.tran                          

Thứ Bảy, 16 tháng 7, 2016

Có Chúa: đó là chọn lựa tốt nhất.




Có Chúa: đó là chọn lựa tốt nhất.
Chúa Nhật XVI - TN – C
 

Thăm viếng là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống con người. Có những cuộc thăm viếng đem lại cho ta niềm vui. Vui, vì người đến thăm viếng, họ đem cho ta niềm vui và hy vọng. Cũng có những cuộc thăm viếng để lại nơi ta nỗi buồn. Buồn, vì người thăm viếng để lại nơi ta những âu sầu, lo lắng.

Nói tới sự viếng thăm,  mà không nói tới sự hiếu khách, quả là một sự thiếu xót. Kinh Thánh đã có lời khuyên: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13, 2).

Ông Gióp, một nhân vật nổi tiếng thời Cựu Ước,  chính là mẫu người điển hình về lòng hiếu khách. Bất cứ ai, dù là người xa lạ, ông ta vẫn tỏ lòng hiếu khách “mở cửa đón mời”, khi họ đến viếng thăm. (G 31, 32). 

Với người Việt Nam, lòng hiếu khách được thể hiệu rất thịnh tình, “khách đến nhà không gà cũng vịt”.  Có khách đến nhà, quen hay lạ, thân hay sơ… chủ nhà dù nghèo khó cũng tiếp đón chu đáo và tiếp đãi một cách thịnh tình, với quan niệm, đói năm chứ không đói bữa…

Là người Ki-tô hữu, sự thăm viếng và lòng hiếu khách là điều rất tế nhị. Thánh Luca, qua câu chuyện hai chị em Mác-ta và Maria, không chỉ cho chúng ta thấy rõ điều đó, mà còn như là một kim chỉ nam cho đời sống đức tin của mình.  (x.Lc 10, 38-42)

**
Chuyện được kể lại rằng: Hôm đó,  trong lúc Đức Giêsu cùng các môn đệ đang rảo bước đi trên đường, bỗng nhiên, có một người phụ nữ tiến đến, người phụ nữ này tên là Mác-ta. Cô ta ngỏ ý mời “Người vào nhà”.

Việc cô Mác-ta mời Đức Giêsu vào nhà mình cứ tưởng rằng sẽ đem lại cho cô ta niềm vui và hạnh phúc.

Thế nhưng, thực tế lại không phải là như thế. Niềm vui Chúa đến và hạnh phúc được phục vụ Chúa đã biến cô Mác-ta cứ như một con rối. 

Thật vậy, hôm đó, nào có phải chỉ một Thầy Giêsu đến, còn cả những người môn đệ của Ngài nữa, có tới cả mười hai người, quả là một gánh quá nặng, thế mà cái con bé Maria lại cứ thản nhiên “ngồi bên chân Chúa” chẳng màng đến bà chị đang “tất bật (ngược xuôi như con rối) lo việc phục vụ”.
Như giọt nước tràn ly, Mác-ta đến bên Đức Giêsu than thở:  “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao?”. 

Phụng phịu… Vâng,  Mác-ta, rất có thể đã  đến bên Đức Giê-su với khuôn mặt phụng phịu, nói: “Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”

Đáng tiếc thay! Lời cầu cứu của Mác-ta không được đáp ứng. Trái lại,   bộc lộ  nơi cô nàng một sự mệt mỏi, nản lòng, nếu không muốn nói là tức giận.

“Mác-ta! Mác-ta ơi!” Sự thăm viếng của Thầy Giê-su trở thành gánh nặng của cô sao? Để tỏ lòng hiếu khách, hà tất phải mân cao cỗ đầy!

Kìa đấy! hãy nhìn ông Dakêu, khi được Đức Giêsu thổ lộ rằng “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”, đâu thấy ông ta “tất bật” lo việc cơm nước cho Đức Giêsu! Trái lại, Dakêu vẫn có thể  tỏ lòng hiếu khách của mình thật chân tình chỉ bằng những giây phút “ta với ta” bên Ngài. 

Vâng, nói tới giây phút ta-với-ta, có lẽ không ai trong chúng ta lại không nhớ đến nhà thơ Nguyễn Khuyến. Qua một bài thơ, một bài thơ đã đi vào lịch sử văn học, ông ta cho chúng ta nhìn thấy lòng hiếu khách của mình rất chân thật và dễ thương làm sao. 

Thơ rằng: “Đã bấy lâu nay bác tới nhà, Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa. Ao sâu, sóng cả, khôn chài cá;  Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà. Cải chửa ra cây, cà mới nụ;  Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa. Đầu trò tiếp khách, trầu không có, Bác đến chơi đây, ta với ta”. 

Vâng, Dakêu không biết Nguyễn Khuyến, nhưng ông ta biết cách tỏ lòng hiếu khách của mình với Đức Giê-su “y chang” cung cách của Nguyễn Khuyến. Nghĩa là  chỉ ngồi bên Đức Giêsu “ta với ta”, ấy vậy mà, qua những giây phút tâm tình đó,  Đức Giêsu không chút phàn nàn về ông ta, trái lại, Ngài nói với Dakêu rằng “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (x. Lc 19, 9). 

“Mác-ta! Mác-ta ơi!” Không phải Thầy không thấy Mác-ta “đầu tắt mặt tối”. Không phải Thầy muốn “đì” Mác-ta nên không đả động gì đến lời yêu cầu của cô… 

Bảo nó giúp một tay ư! Ai lại làm thế! Nó đang “ngồi bên chân Chúa”, nó cũng đang tỏ lòng hiếu khách với Thầy bằng cách ngồi bên Thầy tâm tình “ta với ta”, kia mà! 

Hôm đó, Đức Giêsu đã cho Mác-ta biết rằng, Maria – cô em gái của nàng, “đã chọn phần tốt nhất”.

***
Qua câu chuyện này, đừng nghĩ rằng Đức Giê-su coi thường sự phục vụ. Chính Ngài đã nói “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em;  ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 43).

Cô Maria đã phục vụ. Tuy nhiên, nếu cô ta, nói theo cách nói của tông đồ Phê-rô, “tiếp đón nhau mà không lẩm bẩm kêu ca”, thì hay biết mấy. (x.1Pr 4, 9).

Vâng, đó là một điều khó thực hiện. Hãy thử tưởng tượng, trong một cộng đoàn luôn xảy ra cảnh “ông nói gà bà nói vịt”, ai trong chúng ta có thể phục vụ cộng đoàn đó mà không-lẩm-bẩm-kêu-ca! Phục vụ cho những người già khó tính, hoặc những bệnh nhân aids hay bộc lộ tính khí thất thường v.v… thật khó để mà không có những lúc “lẩm bà lẩm bẩm”, phải không, thưa quý vị!

Phải làm sao để vượt qua thách thức này? Thưa, không gì tốt hơn là học lấy kinh nghiệm của thánh Phaolô. 

Trước những khó khăn và vất vả cho việc phục vụ dân ngoại, với kinh nghiệm bản thân, ngài chia sẻ, rằng: “Tôi vui mừng chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (x.Cl 1, 24)

Vâng, khi phục vụ, hãy nhớ rằng: tất cả là vì “lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh”.

**** 
Trở lại với cô Maria. 

Thánh sử Luca cho biết, “Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”. 

Chúa đã truyền dạy điều gì với Maria? Thưa, thánh sử Luca không ghi lại. Tuy nhiên, qua cách diễn tả tư thế “ngồi bên chân Chúa”của cô Maria, thánh sử muốn nói với mọi người rằng, cô ta đang ngồi trong tư thế của một người môn đệ lắng nghe lời dạy dỗ và sẵn sàng đón nhận lệnh truyền của Thầy mình.

Khởi đầu cho sứ vụ loan báo Tin Mừng, trải qua bốn mươi ngày trong hoang địa, bị Satan cám dỗ về miếng ăn, Đức Giê-su nói “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”. 

Thế nên, đến với gia đình Mác-ta và Maria, chúng ta có thể tin rằng, Đức Giê-su đã nói với Maria về những gì có liên quan đến Lời Chúa. Hơn thế nữa, Ngài còn muốn biến cuộc thăm viếng của mình thành một bữa đại tiệc, “Đại Tiệc Lời Chúa”.

Và, như chúng ta đã thấy, Maria đã không bỏ lỡ cơ hội thưởng thức bữa đại tiệc này, thế nên, hỏi sao Đức Giê-su không thể không nói “Maria đã chọn phần tốt nhất”.

Muốn bày tỏ tinh thần phục vụ (đức ái) tốt nhất ư! Vâng, Lời Chúa sẽ như là “ngọn đèn”, sẽ như là “ánh sáng” chỉ đường dẫn lối, để chúng ta thực hiện.  

Cùng với cảm nghiệm này, tác giả Duy Thạch DVD, qua bài viết tựa đề “Chọn lựa nào là tốt nhất”, chia sẻ rằng:  “Mọi hành động của chúng ta đều phải dựa trên nền tảng của Lời Chúa thì mới đạt kết quả tốt đẹp. Nếu mỗi người chúng ta không có những giây phút lắng nghe, suy gẫm Lời Chúa thì làm sao biết được sự hướng dẫn của Chúa? Chúa Giêsu không phủ nhận mọi công lao vất vả của Mácta. Người cũng không dạy chúng ta cứ đến nhà thờ cầu nguyện suốt ngày và không cần làm gì cả. Người dạy chúng ta phải biết để tâm nghe tiếng Người, để cho lời Người hướng dẫn mọi hoạt động của chúng ta”. 

*****
Giờ đây, với chúng ta, chúng ta hãy tự hỏi: tôi cũng đã chọn phần tốt nhất như cô Maria, xưa kia? Tôi cũng sẵn sàng “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy”. 

Đức Giê-su của hôm nay, Ngài vẫn luôn hiện diện nơi ngôi làng Bê-ta-ni-a, một Bê-ta-ni-a mới, đó chính là ngôi nhà thờ.  Vâng, với tư tưởng này, Lm Charles E. Miller chia sẻ rằng: “Theo một ý nghĩa thẳm sâu, Anh chị em phải hiểu rằng, trong thánh lễ, chúng ta cũng ngồi bên chân Chúa Giêsu ở phần phụng vụ Lời Chúa. Công Đồng Vatican II đã dạy rằng: ‘Chúa Kitô hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong nhà thờ” (Hiến chế về Phụng vụ Thánh, số 7).

Chưa hết, điểm khác biệt nơi ngôi làng Bê-ta-ni-a mới này, Chúa Giê-su là người phục vụ ta, chứ không phải ta là người phục vụ Chúa. Thật vậy, tiếp tục lời chia sẻ, Lm Charles E. Miller cho biết “nơi bàn tiệc Thánh Thể, Chúa Giêsu phục vụ chúng ta “Mình và Máu Đức Kitô, không phải do Macta dọn ra mà do chính Người dọn ra”. 

Còn nơi bàn tiệc Lời Chúa ư! Vâng,  Ngài dạy chúng ta “lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29)

Có lòng hiền hậu và khiêm nhường, có cuộc viếng thăm nào lại không đem lại niềm vui và sự hy vọng cho mọi người! Có lòng hiền hậu và khiêm nhường, có sự phục vụ nào lại  không để lại dấu ấn tình yêu thương!

Có niềm vui, có sự hy vọng và nhất là có tình yêu thương. Vâng, nhất là có tình yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời.
Có Đức Chúa Trời, đó chính là “chọn lựa tốt nhất”, tốt nhất cho chính cuộc đời của mỗi chúng ta. 

Cuối cùng, có Đức Chúa Trời trong chính cuộc đời ta, hãy tin, trong ngày phán xét, Thầy Giê-su sẽ nói với ta rằng: “Đó là chọn lựa tốt nhất”.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 10 tháng 7, 2016

Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.



Trưa 5/7, Công an TP Hà Tĩnh cho biết, đang tạm giữ hình sự Nguyễn Văn Tiến, để điều tra tội giết người. Theo cơ quan điều tra, ngày 4/7 đơn vị tiếp nhận thông tin từ phía hội đồng thi THPT quốc gia trường Đại học Hà Tĩnh về việc giám thị Phạm Thị Oanh (23 tuổi, trú Hà Nam), hiện đang là sinh viên Đại học Huế được cử đi làm giám thị bị mất tích.
Nghi có vụ án mạng, công an đã vào cuộc điều tra. Nhiều giờ sau, Tiến được xác định là nghi can, và bị bắt khi đang lẩn trốn trên địa bàn TP Hà Tĩnh. Anh ta đang là tài xế của một hãng taxi trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.

Theo lời khai bước đầu tại cơ quan điều tra, tối 3/7, Tiến chở nữ giám thị từ xã Thạch Hạ về TP Hà Tĩnh đi lễ. Sau lễ nhà thờ xong, trên đường trở về, anh ta đã dừng xe bóp cổ nữ giám thị, cướp đi một túi xách, điện thoại di động và 250 nghìn đồng tiền mặt. Khi chị Oanh chết, Tiến chở thi thể nữ giám thị tới cầu Sú (khối 1, trị trấn Cày, Hà Tĩnh) để phi tang.

Vâng, qua vụ án này, cũng như những vụ án trước đây, (vụ Lê văn Luyện, hay vụ thảm sát cả một gia đình ở Bình Phước, chẳng hạn), có thể nói rằng, chúng ta đang phải sống trong xã hội đầy bạo lực, một xã hội mà phẩm hạnh của con người ngày một xấu đi. 

Nếu có ai hỏi vì đâu nên nỗi, có lẽ không ai trong chúng ta lại không nhận định, rằng: Vâng, chỉ vì ngày nay, “tình người” như một thứ xa xỉ, quá đắt giá để con người sở hữu... 

Thì đây, thật không thể tin được, gần đây, đã có những nhà từ thiện bị chất vấn rằng “động cơ  của việc làm từ thiện là gì?”. Một câu chất vấn được đưa ra, theo nhận định của một số blogger,  chỉ để “xoáy, vặn, chì chiết, bắt bẻ những sơ suất về thái độ, về cách thức, về chất lượng hàng từ thiện, khoái trá bàn luận về những chuyến hàng từ thiện bị địa phương từ chối”.(nguồn: internet)

Vâng, quả là một chất vấn rất thiếu tình người khiến ta liên tưởng tới một lời nhận xét của người Roma xưa “Homo homini lupus - Con người đối xử với nhau chẳng khác gì chó sói”

Tất nhiên, chỉ có những loại con người mà phần “người” thì ít, còn phần “con” thì nhiều, mới có những cách chất vấn, cách đối xử với nhau như thế. Đã là một con người phải có tình người. Là một Ki-tô hữu, “tình người” như là điều kiện ắt có và đủ để thiên hạ nhận biết đó là môn đệ Đức Ki-tô.

Kinh thánh dạy chúng ta rằng, “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20). 

Khi nói về tình người, Đức Giê-su cũng đã đưa ra một bài học sâu sắc về tình người. Bài học đó đã được Ngài truyền dạy, qua một dụ ngôn, dụ ngôn mang tên “Người Samari tốt lành”. 

**Dụ ngôn được kể, rằng: Có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu, để thử người: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (Lc 10, 25). Đây không phải là lần đầu tiên có người tìm đến Đức Giêsu để hỏi Ngài một câu hỏi với nội dung như thế. Trước đây, cũng đã có một chàng thanh niên giàu có đến với Đức Giêsu, cũng với ý ngay lành nêu trên.

Với chàng thanh niên giàu có, Đức Giêsu đã đưa ra những lời khuyên, để nhờ đó, anh ta có thể đón nhận được điều anh ta muốn có. Rất tiếc, anh này “còn lắm bon chen… còn lắm đam mê…”, cuối cùng, anh ta quay gót “thôi đành hẹn lại kiếp sau”.

Ngược lại, với người thông luật, thay cho lời khuyên, Ngài đã đưa ra một câu hỏi, một câu hỏi ngầm ý như một lời trách cứ, rằng “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” 

Vâng, làm sao không trách cứ chàng thông luật này cho được. Người thông luật, chính là thầy thông giáo, thầy thông giáo chính là người am hiểu, rành rẽ luật Môse, luật Môse được ghi trong ngũ thư là những cuốn sách nói rất rõ về Mười Điều Răn, về lề luật, về lễ nghi thờ phượng Đức Chúa Trời.

Nói cách khác, là thầy thông luật, ông ta dư biết phải trả lời như thế nào. Thật vậy, sau khi nghe câu hỏi của Đức Giêsu, vị thông luật đã trả lời “ngọt sớt”, rằng “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Trời, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”.

Đấy! chúng ta thấy đấy! qua cách trả lời của ông ta, như thể chính ông ta là người ra câu hỏi.

Vâng, mọi sự tưởng chừng như chấm hết khi Đức Giê-su nói với ông ta rằng: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.  Thế nhưng, ông thầy thông luật này không chịu dừng ở đó.  Ông ta còn muốn chất vấn Đức Giê-su, một sự chất vấn rất thâm hiểm, biến câu trả lời của mình thành câu hỏi, một câu hỏi hóc búa, trước là để thử Đức Giêsu, sau là để chứng tỏ mình-có-lý. “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” 

Ai! “Ai là người thân cận của tôi ?” Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Đức Giêsu, một lần nữa, Ngài đã dùng một dụ ngôn, một dụ ngôn cho đến ngày nay, giới luật pháp quốc tế đã biến nó thành một đạo luật mang tên “luật người Samari nhân hậu”.

Đây là một đạo luật rất cũ, nhưng thiết tưởng chúng ta cũng cần biết, qua phần chia sẻ của Lm. Jude Siciliano, OP,  trong một bài giảng về chủ đề người Samari nhân hậu, rằng: “Trong thế giới luật pháp, có ‘luật người Samari nhân hậu’, luật này yêu cầu bảo vệ hợp pháp với những ai giúp đỡ chính đáng cho người khác khi người đó bị thương tích, đau yếu hoặc trong những tình cảnh hiểm nghèo. Luật người Samari nhân hậu này nhằm khuyến khích người khác trợ giúp những ai lâm cảnh hoạn nạn”.

Trở lại với dụ ngôn “người Samari nhân hậu”. Qua dụ ngôn này,  chúng ta sẽ  được thấy  ba nhân vật lần lượt xuất hiện. Thứ nhất là thầy tư tế. Thứ hai là thầy Lê-vi, và cuối cùng là một người Samari.  Cả ba người, kẻ trước người sau, đều đi trên một lộ trình, lộ trình từ “Giêrusalem xuống Giêricô” (x.Lc 10, 30).

Cả ba đều nhìn thấy cảnh bi đát của một người lữ khách. Anh ta “bị rơi vào tay kẻ cướp… bị lột sạch… bị đánh nhừ tử…” và bị quẳng ra nằm rên rỉ ngay bên vệ đường. Không thể tin được! Dù trông thấy người lữ khách đang nằm “nửa sống nửa chết”… Nhưng cả thầy tư tế lẫn thầy Lêvi đều “tránh qua bên kia mà đi”.

Còn người Samari ư! Vâng, anh ta cũng thấy, nhưng không bỏ đi. “Động cơ nào… động cơ nào…”  Thưa, đúng ra phải nói là: động lực nào thúc đẩy anh chàng Samari không bỏ đi! Thưa, chính là “lòng thương xót”. Nói cách khác, con tim chàng Samari “rung động”.

Đúng vậy,  con tim  chàng Samari rung động. Thế nên,  lòng thương xót của anh ta không dừng ở đôi mắt, không dừng ở tấm lòng, nó được lan tỏa tới đôi chân và đôi tay. Chuyện kể rằng “Ông ta lại gần”. Lại gần làm gì? Để xem trên con người bất hạnh này còn thứ gì quý giá “hốt hụi chót” chăng!

Thưa không. “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc” (Lc 10, 34)
Chưa hết, tới quán trọ, chàng Samari còn “lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, khi trở về, chính tôi sẽ hoàn trả lại bác” (x.Lc 10, 35)

Viết tới đây, tôi chợt nhớ đến nạn hôi của ở Việt Nam. Có lẽ, ai trong chúng ta cũng còn nhớ đến vụ “hôi bia” xảy ra ở Biên Hòa, cách nay vài năm. Hôm đó, tại khu vực vòng xoay Tam Hiệp (thuộc KP.1, phường Bình Đa, TP.Biên Hòa, Đồng Nai), chiếc xe tải chở 1,5 ngàn thùng bia bị đổ xuống đường, hàng trăm người lao vào hôi của. Có cả người mang xe ba gác ra chở bia mặc tài xế và lơ xe van xin.   

Thật buồn thay! “tình người” trong thời buổi hôm nay là như vậy đó!

Trở lại câu chuyện dụ ngôn. Câu trả lời đã rõ. “Ai là người thân cận của tôi ?”. Đối với thầy thông luật cũng như toàn thể người Do Thái, họ quan niệm rằng “người thân cận” chính là người đồng đạo, đồng hương và đồng chủng tộc. 

Với Đức Giêsu, qua dụ ngôn, Ngài không chỉ gửi đến thầy thông luật một “đáp án” mà còn để lại nơi ông ta một quan niệm mới về “tình người”.

“Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” Thầy thông luật với một nhãn giới mới về “tình yêu thương” ông ta đã không ngần ngại trả lời rằng “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”.

*** Là một Ki-tô hữu, chúng ta cũng được dạy rằng: “trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”. 

“Yêu người” -  người đó là ai?  Thưa,  “Bẩt cứ ai cần sự trợ giúp của chúng ta đều là người thân cận. Nếu có lòng cảm thương trong con tim, bạn có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai đang cần sự trợ giúp”.

Vâng, đó chính là lời  ĐTC Phanxicô đã nói với hơn 80.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần. Sau đó, Ngài nói tiếp, rằng: “Sự cảm thương, tình yêu, không phải là một tâm tình mông lung,  nhưng có nghĩa là lo lắng cho tha nhân cho tới độ chính mình phải trả giá. Nó có nghĩa là để cho mình bị liên lụy bằng cách làm mọi sự cần thiết để tới gần người khác cho tới độ tự đồng hóa với họ: ‘Hãy yêu tha nhân như chính mình’. Đó là giới răn của Chúa”(nguồn: đài Vatican)

Với lời giáo huấn nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng, người thân cận của chúng ta không ở đâu xa, không phải ở tận cung đường “từ Giê-ru-sa-lem lên Giê-ri-cô”, nhưng là ở ngay bên cạnh chúng ta, họ là người hàng xóm, họ là đồng nghiệp, tất nhiên, họ cũng là những người có liên hệ tự nhiên chặt chẽ với chúng ta,  như cha mẹ với con cái, vợ chồng, anh  em… rất nhiều, rất nhiều và rất nhiều.

Chúng ta không chỉ quan tâm đến họ về mặt “thuộc thể”, như giúp đỡ tiền bạc vật chất, nhưng còn phải quan tâm về mặt “thuộc linh”, tinh thần, đức tin.

Đúng vậy, qua lăng kính thần học, Lm. Charles E. Miller chia sẻ rằng, “Tội lỗi ‘mai phục’ trên đường đi của nhân loại, chực tước đoạt nhân phẩm của chúng ta, trấn lột chúng ta và cướp đi ân điển của Thiên Chúa. ‘Tội’ đánh đập ta nhừ tử, rồi bỏ mặc ta dở sống dở chết. Chúa Giêsu đến nâng ta dậy, không phải để đặt lên lưng một con vật nào đó, mà là lên vai của Người và đưa ta về ngôi nhà Giáo Hội. Nơi đây, chúng ta được chăm sóc cho đến lúc Người lại đến trong vinh quang trong ngày chúng ta được sống lại”. 

Với lời chia sẻ này, ngoài việc “thương xác bảy mối” chúng ta còn phải “thương linh hồn bảy mối”. 

Vì trên thực tế, còn đó rất nhiều người đang cần ta giúp đỡ phần linh hồn. Họ chẳng khác gì người nạn nhân trong dụ ngôn. Họ bị ma quỷ trấn lột, lấy mất những tài sản thuộc phần thiêng liêng. Họ bị đánh trầm trọng, không bằng tay chân, nhưng bằng những chủ thuyết lệch lạc, đại loại như chủ thuyết vô thần, đầy sự  lừa lọc và dối trá, hoặc bằng những thú đam mê dục vọng, bằng tiền tài danh vọng, hay bằng một nền văn hóa sự chết.

Họ bị bỏ lại bên ngoài Giáo Hội. Họ đang cần chúng ta “chạnh lòng thương”, họ cần chúng ta giúp đỡ, không bằng “hai quan tiền” nhưng bằng sự hy sinh, hãm mình và nhất là bằng lời cầu nguyện, vì như lời Chúa Giê-su nói, “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi”(x.Mc 9, 29)

Đừng quên, tông đồ Phao-lô có nói: “Anh em không mắc nợ nhau điều gì  ngoài món nợ yêu thương, vì ai thương yêu, người đó giữ trọn lề luật”.  Thế nên, đã là một Ki-tô hữu, chúng ta phải là “người Samari tốt lành”. 

Trở lại với ĐTC Phanxicô, hôm đó, kết thúc bài giáo huấn về dụ ngôn người Samari tốt lành, ngài nói: “Dụ ngôn này là một món quà tuyệt diệu cho tất cả chúng ta, và cũng là một dấn thân nữa! Chúa Giêsu lập lại với từng người trong chúng ta điều Ngài đã nói với vị tiến sĩ Luật: ‘Hãy đi và làm như vậy’. Chúng ta tất cả được mời gọi đi cùng con đường của người Samari nhân hậu, là gương mặt của Chúa Kitô: Chúa Giêsu cúi xuống trên chúng ta, biến thành tôi tớ của chúng ta, và như thế Ngài đã cứu chuộc chúng ta, để cả chúng ta nữa cũng có thể yêu thương  nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta, theo cùng một cách thức”.

Vâng, đúng là “một món quà tuyệt diệu”, một món quà để chúng ta ý thức đến việc “dấn thân”, việc dấn thân của một người Ki-tô hữu.  

Thưa bạn, bạn có đồng ý như thế? Nếu có, ngay bây giờ, chúng ta hãy dấn thân, dấn thân bằng việc thực thi lời Đức Giê-su truyền dạy: “Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.                 

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...