Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2016

Có một cuộc đổi đời…


Chúa Nhật XXXI - TN – C

Có một cuộc đổi đời…
***************

Tuần trước (23/10/2016)  gọi là Chúa Nhật truyền giáo. Nhớ, năm 2014, trong “Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo”,  Giáo Hoàng Phan-xi-cô có lời viết: “Ngày nay còn nhiều người không biết Đức Giê-su. Vì thế, việc rao giảng cho người ngoài Ki-tô giáo là việc cấp bách, mà tất cả mọi thành viên trong Giáo Hội được kêu gọi để tham dự vào sứ vụ truyền giáo này, bởi, từ bản tính Giáo Hội là truyền giáo. Giáo Hội được sinh ra là để ra đi”.

Trong một thông điệp khác, ĐTC nói: “Cha muốn mọi người ra đi! Cha muốn Giáo Hội ra ngoài đường phố!... Bắt đầu từ vùng ngoại ô, với những người ở xa nhất, với những người không thường xuyên đi nhà thờ. Họ cũng được mời đến dự bàn tiệc Chúa” (nguồn: internet).

Phải, truyền giáo là ra đi và gặp gỡ, vì là lệnh truyền của Đức Giê-su: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”.

Kinh Thánh ghi lại nhiều câu chuyện về sự ra đi và gặp gỡ của Đức Giê-su. Câu chuyện “Ông Da-kêu”, như một điển hình.

**
Chuyện kể rằng: Hôm ấy, Đức Giê-su đến Giê-ri-cô.  “Ở đó có một người tên là Da-kêu, ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có”.

Vâng, chỉ một vài dòng mô tả, ta có thể tin rằng, ông này bị rất nhiều người “căm ghét”. Tại sao? Thưa, bất cứ thời buổi nào, chẳng ai ưa người thu thuế, họ thường thu nhiều hơn quy định mà họ phải thu, nhờ đó họ rất giàu, cho nên nhìn họ là thấy ghét.

Ấy thế mà, Đức Giê-su không “ghét” ông ta.

Thật vậy, hôm ấy, khi nghe đồn có ông Giê-su, ông Da-kêu “tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai…”.

Và khi ông thấy, trời ạ! vây quanh Ngài là một rừng người. Tiếc thay! “ông ta lại lùn”, thật khó để chen chân đến bên  Ngài.

Vâng, người xưa thường nói: “cái khó ló cái khôn”, trong lúc khó khăn về “thước tấc”, chợt ông thấy trước mặt mình là cây sung. Ố hay đấy! Cái khôn trong người ông “ló ra”. Tại sao không leo lên đó nhỉ! Và, như một đứa trẻ con,  ông đã leo… “leo lên cây sung để xem Đức Giê-su, vì Ngài sắp đi ngang qua đó”.

Trời thương, Đức Giê-su có đi ngang qua. Và, “Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên…”. Trên cây, Dakêu nhìn xuống,  người ông muốn thấy, nay đã thấy.

Hóa ra “Đây là Người” ư! Chưa kịp bảy tỏ niềm vui, thì, ông nghe như có tiếng ai gọi tên-cúng-cơm của mình.

Đúng, không thể tin được! Chính là Đức Giêsu. Ngài nhìn lên và nói với ông: “Này ông Dakêu, xuống mau đi…”

Nằm mơ ư! Không! Đôi tai ông nghe rõ mồn một tiếng Đức Giêsu nói: “hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.
Thế là, mặc cho những kẻ hiếu kỳ xầm xì với nhau, rằng: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Ông Da-kêu phớt lờ, “vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người”.


***
Nhà ông Dakêu là “nhà người tội lỗi” ư! Có sao đâu! Vì đó  chính là lý do để Đức Giêsu “phải ở lại nhà ông”.
Đức Giêsu đến Giê-ri-cô không phải là đến để thăm di tích lịch sử, một lịch sử hàng ngàn ngàn năm trước, người hùng Giô-suê cùng đạo quân mình, đã tiến chiếm Giê-ri-cô, một Giê-ri-cô như là bàn đạp để thiết lập một quốc gia Do Thái hùng mạnh, dưới triều đại vua David.
Không! Ngài đến là để “đến với những con chiên lạc nhà Israel”.
Mà, Da-kêu, như ta được biết, là một người, nói theo cách nói ngày nay,  chí ít cũng là “chi cục trưởng” một chi cục thuế, một chức vụ đáng nể, hái ra tiền, những đồng tiền (tất nhiên) có hơi hám bất chính, thế thì, ông có khác gì “con chiên lạc nhà Israel”! Vậy, có gì ngăn cản Đức Giê-su đến với ông?
Hôm ấy, sau khi Đức Giê-su quá bộ về nhà Da-kêu, thật tuyệt vời, một thay đổi lớn trong con người ông, tất cả quyền hành lẫn quyền lợi, ông coi như pha.  
Nhìn Đức Giê-su, ông nói: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”. Tiếp đến, ông khẳng định: “Nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”.
Ôi! một người lùn-thể-xác, nhưng không lùn-đức-ái.
Ôi! một người thể-xác-lùn, nhưng không lùn-công-bằng.
Trước sự “lột xác” của ông ta, Đức Giê-su nói: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này…”. Và, cuối cùng, Ngài kết luận: “…người này cũng là con cháu tổ phụ Apraham”.
Hôm ấy, kết thúc câu chuyện, Đức Giê-su nói: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.  
Vâng, vào nhà Da-kêu, Đức Giê-su đã hành sử đúng vai trò của một người “đến tìm và cứu”. Ngài không một lời lên tiếng chỉ trích Da-kêu. Ngài, nói theo cách nói của tác giả sách khôn ngoan, đã “nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải”(x.Kn 11, …22).
Và thật, Da-kêu đã ăn năn hối cải. Qua cuộc gặp gỡ với Đức Giê-su, ông ta đã “có một cuộc đổi đời”.
****
Qua câu chuyện ông Da-kêu, thật phải đạo khi chúng ta cần xem lại cuộc sống Ki-tô hữu của mình.
Hãy xem lại, bao nhiêu năm (mười, hai mươi, ba mươi, năm mươi v.v…) là một Ki-tô hữu, tôi đã bao nhiêu lần “gặp gỡ Đức Giê-su?”
Vâng, chắc hẳn không ít người sẽ trả lời: nhiều lắm, nhiều lắm. Này nhé, mỗi ngày Chúa Nhật tôi đã gặp Ngài trong Thánh Lễ, qua phần tham dự Tiệc Thánh Thể. Này nhé, tôi còn gặp Ngài vào những lúc kinh nguyện nữa cơ.
Tốt. Thế nhưng, gặp Ngài nhiều như thế, thế mà cuộc sống của tôi có đổi thay? Nói cách khác, tôi đã “có một cuộc đổi đời”, như cuộc đổi đời của Da-kêu?
Vâng, phải có một cuộc đổi đời, bởi nếu không, chúng ta cũng chỉ như một số người Do Thái xưa.
Hồi ấy, có rất nhiều người gặp gỡ Đức Giê-su. Họ đã gặp và đã được “ăn no nê”, thế nhưng, họ chưa “đổi đời”. Trái lại, vào giờ thứ 25, giờ Ngài đứng trước dinh tổng trấn Phi-la-tô, họ lại gào thét tha Ba-ra-ba và đòi đóng dinh Ngài vào thập giá.
Lại có  người đến gặp gỡ Đức Giê-su, nhưng rồi “sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi” chỉ vì một đòi hỏi duy nhất của Ngài “Hãy đi bán những gì anh có cho người nghèo… rồi hãy đến theo tôi”.
Và đây, một câu chuyện ngắn như là  mẫu mực cho một cuộc đổi đời. Cách đây vài năm, ở Việt Nam có tiếp đón một nhân vật quen gọi là “chứng nhân đức tin”. Anh ta tên Nick Vujicic. Nick sinh ra trong hoàn cảnh không bình thường. Không có tay cũng không có chân. Thật ra, chỉ có một bàn chân nhỏ thò ra mà anh ta thường gọi đùa là “cái đùi gà”.      
Sự thiếu vắng tay chân đã biến anh thành mục tiêu của sự chế giễu. Anh bị trầm cảm. Năm 8 tuổi, anh có ý định tự tử. Năm 10 tuổi, Nick cố dìm mình trong bồn tắm, nhưng vì nghĩ đến cha mẹ, anh đã ngưng việc điên rồ đó.
Cho đến khi Nick “gặp gỡ Đức Giê-su”. Người ta kể rằng: Năm 15 tuổi, anh đã gặp gỡ Đức Giê-su qua câu chuyện “anh mù Ba-ti-mê”. Sau khi đọc câu chuyện này, Nick nói: “Tôi không phải là một người bị trừng phạt. Tôi là sự sáng tạo đặc biệt để Chúa biểu lộ công việc của Ngài qua tôi.
Trong đoạn video bài “Something more – Điều lớn hơn”, Nick nói: “Chúa đã có kế hoạch cho cuộc đời tôi và đó là lý do vì sao tôi đã không thể dìm mình xuống bồn tắm”(nguồn: internet)  
Vâng, Nick, một mẫu mực của sự đổi đời ngày nay. Đời anh ta, trở thành đời sống “chứng nhân đức tin” của Thiên Chúa.
Thế nên, một lần nữa, hãy tự hỏi, sau bao lần gặp gỡ Đức Giê-su, tôi đã thật sự có một cuộc đổi đời?
Da-kêu, sau khi gặp gỡ Đức Giê-su, ông ta đã “đổi đời”. Nói rõ hơn, ông ta đã đổi đời qua việc chuyển cuộc gặp gỡ của mình với Đức Giê-su, thành cuộc gặp gỡ của mình với tha nhân, từ lối sống “cho mình”  đổi thành lối sống “cho người” – “đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”.
Cũng vậy, với chúng ta! Chúng ta cũng sẽ đổi đời bằng cách chuyển cuộc gặp gỡ của ta với Đức Giê-su, thành cuộc gặp gỡ của ta với tha nhân, từ lối sống “cho mình” đổi thành lối sống “cho người”?
Tại sao không gặp gỡ với tha nhân? Tại sao ta không gặp nhau “Trao cho nhau yêu thương tình loài người?” Tại sao ta không gặp nhau “Trao cho nhau tin yêu đừng gian dối?” Tại sao ta không gặp nhau, để đem “Tình yêu thương trao nhau xây đắp trên tình người!”
Thế giới ngày nay, xã hội ngày nay đang thiếu vắng tình yêu thương, sự tin yêu, tại sao ta không “cố gắng yêu thương người, dù người không yêu ta, hãy cứ yêu thương hoài?”
Là một Ki-tô hữu, phải có những cuộc gặp gỡ và trao cho nhau những điều nêu trên, có như thế, nó mới làm sáng danh những cuộc gặp gỡ của ta với Đức Giê-su. Và, hơn hết, nó chứng tỏ rằng, ta “có một cuộc  đổi đời”.
Petrus.tran


Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2016

Đừng… tôn mình lên.

  Chúa Nhật XXX - TN – C 

Đừng… tôn mình lên.


Trong bảy mối tội đầu, chúng ta được dạy rằng “Thứ nhất: chớ kiêu ngạo”. Còn trong Kinh Thánh, chúng ta được biết, có sáu điều khiến Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Người ghê tởm, và điều thứ nhất, đó là: “con mắt kiêu ngạo”(x.Cn 6, 16-19)

Tại sao kiêu ngạo lại bị coi là gớm ghét và ghê tởm? Thưa, nó chính là tác nhân dẫn con người đến biết bao thói xấu xa, như: khoe khoang, ích kỷ, khinh chê người khác, cho mình là trung tâm của vũ trụ v.v…

Với Đức Giê-su, khi nói về sự kiêu ngạo, Ngài đã có lời truyền dạy, rằng: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

Và, để cho mọi ngưởi hiểu thế nào là “tôn mình lên”, thế nào là “hạ mình xuống”, Đức Giê-su đã dùng một dụ ngôn, để làm sáng tỏ vấn đề. Dụ ngôn mang tên “người Phariseu và người thu thuế” (x.Lc 18, 9-14).

** Dụ ngôn được kể rằng : “Có hai người… một người thuộc nhóm Phariseu, còn người kia làm nghề thu thuế ”. Họ cùng lên đền thờ và cùng thực hiện một hành vi đạo đức, đó là “cầu nguyện”. Tưởng, chúng ta cũng nên biết, Pharisêu là người có địa vị cao và được tôn trọng trong cộng đồng tôn giáo do danh tiếng của họ về lòng nhiệt thành, tuân giữ lề luật cách nghiêm ngặt.

Còn người thu thuế ư! Ôi! họ chỉ là những người cộng tác với Đế Quốc Roma, những kẻ lợi dụng chức quyền để nhũng nhiễu dân chúng, họ thường bị xem là “phường tội lỗi”.

Hôm đó, nơi đền thờ, để chứng tỏ danh tiếng của mình, ông Pha-ri-sêu “đứng thẳng, nguyện rằng: Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không bao như kẻ khác: trộm cắp,, bất chính, ngoại tình… Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18, 11-12).

Người thu thuế, vâng, thật trầm lặng, anh ta “chẳng dám ngước mắt lên trời… vừa đấm ngực vừa thưa rằng: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 13).

Qua hai cách cầu nguyện nêu trên, có lẽ, không ai trong chúng ta lại không ngưỡng mộ “người thuộc nhóm Pha-ri-sêu”, một con người đầy tinh thần bất khuất, dám “ăn chay mỗi tuần hai lần”. Trong khi “tiêu chuẩn” giữ chay, vào thời đó, mỗi năm chỉ có một lần vào “Ngày Xá Tội Vong Ân”.

Ngược lại, với người thu thuế. Vâng, không cần bàn tới. Lời “tự thú trước bình minh” của ông ta, đủ để kết luận, ông ta không thuộc nhóm người công chính.

Vâng, đó là với cái nhìn của chúng ta. Nhưng, với Đức Giê-su, thì khác hẳn. Với Ngài, thật không thể tin nổi, nó như một vụ nổ bom hạt nhân, hôm đó, Đức Giêsu nói rằng: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính; còn người kia thì không”. (Lc 18,14).
“Người này”… Người này là ai ? Thưa, “tên thu thuế”, người đã biết “tự hạ mình” xuống, nhận ra con người thật của mình. Còn “người kia”… Thưa, không nói ra, ai cũng có thể hiểu rằng chính là ông Phariseu, người đã tự “tôn mình lên”, ưỡn ngực ngạo nghễ nơi đền thờ.

*** Vâng, chẳng có gì nghịch lý cả. Hãy nhớ, Đức Giê-su đã chẳng từng nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”, đó sao!

Người thu thuế đúng là kẻ tội lỗi, như lời anh ta thú nhận. Chẳng những đã thú nhận tội lỗi mình; anh ta còn có lòng sám hối ăn năn “xin thương xót con”, một lòng sám hối ăn năn khiến cho “cả triều thần Thiên Quốc đều vui mừng hớn hở” (Lc 15,7).

Còn ông Pha-ri-sêu ư! Thật ra ông ta cũng sẽ nhận được “vòng hoa dành cho người công chính”, bởi, như lời tông đồ Phaolô nói, “Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó” (2Tm 4,8).

Thế nhưng thật đáng tiếc! Tâm tình cầu nguyện của ông Phariseu chẳng khác gì những lời tỉ tê của một người đi hối lộ. Hãy nhìn xem, ông ta đã đem đến trước mặt Thiên Chúa những lời tỉ tê như thế nào? Tỉ tê “Công đức (ăn chay) lẫn tiền bạc (tiền dâng một phần mười)” ư? Nó có khác gì một món quà “hối lộ” để mong Đức Chúa ban cho ông tấm bằng khen “Người tốt việc tốt” như thói đời, người ta thường làm.

Nằm mơ chăng! Với Thiên Chúa – “Đừng hối lộ, Người chẳng nhận đâu”. (Hc 35, 11).

Chưa hết, trong lời “cầu nguyện” của ông ta, lại có hơi hám của sự “kiêu căng” khinh chê người khác, “con không như… tên thu thuế kia”. Ông ta quên rằng: “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau ” (Cn 16,18).

Hôm đó, kết thúc dụ ngôn, Đức Giê-su truyền dạy: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(x.Lc 18, …14)

****
Cũng như những dụ ngôn khác, qua dụ ngôn này, chúng ta hãy tự hỏi, “tôi là ai”, trong hai nhân vật của dụ ngôn nêu trên? Là ông Pha-ri-sêu ư! Chúng ta không bao giờ “trộm cắp, bất chính, ngoại tình ư?”. Vâng, có gì mà không đáng tự hào! Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể tự hào về điều này, một khi chúng ta cũng như ngài Phao-lô “Tự hào trong Chúa” (x.2Cor 10, …17)

Còn, nếu là bản sao của anh chàng thu thuế? Vâng, ai trong chúng ta mà không phạm tội “thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời”. Thế nên, hãy hạ mình xuống, đấm ngực, mà “Thú nhận cùng Thiên Chúa là Cha toàn năng và cùng anh chị em”, rằng: “Tôi đã phạm tội… trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu xót”.

Qua lời thú nhận này, hãy tin, Đức Giê-su, cũng sẽ nói với chúng ta, như đã nói với anh thu thuế, rằng: “Người này, khi trở xuống về nhà, thì đã được nên công chính rồi”. 

Người ta kể rằng: Có một chiếc xe đông lạnh kẹt dưới gầm cầu. Muốn kéo chiếc xe đó ra, hoặc phải phá cây cầu, hoặc phải cưa thùng đông lạnh của chiếc xe. Đang lúc mọi người bối rối trong việc chọn lựa một trong hai phương án, thì, có một em nhỏ đến và nói: Thưa các ông, chẳng có gì khó, chúng ta hãy xì tất cả bánh xe, chiếc xe sẽ hạ thấp xuống. Lúc đó, sẽ có một độ thấp vừa đủ để chiếc xe chui qua gầm cầu.

Vâng, trong cuộc sống, đôi lúc cũng cần có một “độ thấp” nhất định, để chiếc xe cuộc đời của chúng ta ngọt ngào lăn bánh. Nói cách khác, đó chính là sự “tự hạ mình”.

Trong cuộc sống đức tin, điều này lại còn quan trọng hơn nữa. Với “độ thấp” của sự hạ mình, nó làm cho cuộc sống của ta trở nên nhu mì, hiền lành và khiêm nhường. Mà, đó là điều Đức Giê-su chúc phúc: “Phúc thay ai có lòng nhu mì, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”(x.Mt 5, 4) Và, đừng quên Đức Maria có nói: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng… Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (x.Lc 1, 51-52).

Câu chuyện dụ ngôn đã khép lại. Vấn đề của chúng ta, hôm nay, đó là, hãy tự hỏi: tôi có muốn được “Đất Hứa làm gia nghiệp?” – Tôi có muốn “Người nâng cao?” 

Nếu muốn, hãy thể hiện lời truyền dạy của Đức Giê-su, “hạ mình xuống”, và mỗi lần cầu nguyện, hãy cầu nguyện với một tâm tình như tâm tình người thu thuế: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.

Ý thức được mình chỉ là một kẻ tội lỗi, có phần chắc, chẳng ai trong chúng ta “tôn mình lên”. Vâng, là một Ki-tô hữu đích thực, “Đừng… tôn mình lên”.

Petrus.tran      

Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2016


Chúa Nhật XXIX -TN - C

Tại sao không cầu nguyện luôn!

Mỗi ngày bạn có cầu nguyện không? Tại sao không! Vâng, tại sao không, bởi ngay từ ngàn xưa, như lời Kinh Thánh cho biết, đến thời ông Sết “người ta bắt đầu kêu cầu danh Đức Chúa”(x.St 4, …26).

Trong bất cứ tôn giáo nào, người ta đều coi trọng sự cầu nguyện. Với Kitô giáo, cầu nguyện được ví như “hơi thở” của linh hồn. Được ví như thế, thế nên, tại sao ta không cầu nguyện mỗi ngày, nhỉ!

Đức Giêsu cũng rất coi trọng đến việc cầu nguyện. Kinh Thánh cho biết, Ngài vẫn thường xuyên “đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện”.

Khi cầu nguyện, Đức Giê-su có lời khuyên, rằng “đừng lải nhải như dân ngoại”. Và, quan trọng hơn, đó là phải biết “kiên trì”. Để mọi người hiểu rõ thế nào là kiên trì, Đức Giê-su đã dùng một dụ ngôn. Dụ ngôn mang tên “quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy”(x.Lc 18, 1-8)

**

Dụ ngôn được kể rằng: “Trong thành kia có một ông quan tòa. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”.

Vâng, mở đầu câu chuyện, với sự mô tả về một ông quan như thế, quả là bất hạnh cho những ai được ông ta ra tay xử kiện. Tại sao? Thưa, bởi theo kinh nghiệm của cuộc sống, chưa thấy một ông quan “vô thần” nào được coi là “dân chi công bộc” cả.

Nghiệt ngã là vậy, ấy thế mà cũng có một bà góa đến xin ông xử kiện. Xử gì? Vâng, đến trước quan, bà nói: “Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho”.

Xin ngài minh xét ư! Bà này có “xâm mình” không nhỉ? Tại sao lại nghĩ như thế? Thưa, bởi, xã hội thời đó, thời mà người ta trọng nam khinh nữ, thường người đàn bà phải chịu sự câm nín, không được có tiếng nói nơi cộng đồng, vậy mà, bà góa trong dụ ngôn vẫn cứ đến, hỏi sao không nghĩ rằng, bà ta uống thuốc liều!

Đó là, chưa nói đến việc quan tòa thời đó được mô tả là “Tất cả bọn chúng đều thích ăn hối lộ, và chạy theo quà cáp. Chúng không phân xử công minh cho cô nhi, cũng chẳng quan tâm đến quyền lợi quả phụ”? (Is 1, 23).

Chưa hết, họ còn “đặt ra những luật lệ bất công… viết nên các chỉ thị áp bức… để biến bà góa thành mồi ngon cho chúng, và bóc lột kẻ mồ côi”? (Is 10,2)

Tuy nhiên, bà góa vẫn thản nhiên. Bà không đến một lần. Chuyện kể rằng: bà ta “đã nhiều lần đến”.

Vâng, bà góa, có thể nói, đã vận dụng đúng lời Albert Eintein nói: “Không phải là tôi quá thông minh, chỉ là tôi chịu bỏ ra nhiều thời giờ hơn với rắc rối”. Và bà ta đã thành công.

Thật vậy, trước kế sách “lỳ đòn” này, ông quan tòa như ngồi trên đống lửa. Cuối cùng, ông ta nghĩ: “Dầu ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ góa này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc”.

Có thể kết luận, qua dụ ngôn này, thông điệp Đức Giê-su đưa ra, đó là: phải kiên trì “cầu nguyện luôn, không được nản chí”.

***

Để thành công trong công việc, Edison cho rằng, do 10% thiên tài, phần còn lại là do 90% sự nhẫn nại và lòng kiên trì. Câu chuyện dân tộc Do Thái xưa, giao chiến với người Amalech là một minh chứng điển hình.

Kinh Thánh kể rằng: hồi đó, khi dân Do Thái đang trên đường đến miền đất hứa. Bất ngờ họ bị người Amalech chận đánh tại Rophidim.

Xét về tương quan lực lượng, Amalech là một đạo quân tinh nhuệ. Trong khi đó, người Do Thái chẳng khác nào một đám quân ô hợp. Nói cách khác, giữa Do Thái và Amaléch đúng là “trứng chọi đá”.

Thế nhưng, như người đời thường nói: “thấy vậy mà không phải vậy”. Đúng, hôm đó, cứ tưởng rằng trứng sẽ bị nghiền nát bởi đá, ngược lại, (trứng) Do Thái đã “đánh bại (hòn đá) Amalech… xóa hẳn tên tuổi Amalech, khiến cho thiên hạ không còn nhớ đến nó nữa”(x.Xh 17,13…14). Nhờ đâu, quân sử Do Thái có được chiến tích như thế? Thưa, đó là nhờ ông Môsê, ông ta đã nhẫn nại, kiên trì “đứng trên đỉnh đồi” kêu cứu Thiên Chúa “cho đến khi mặt trời lặn” (x. Xh 17, 12)

Trở lại dụ ngôn, hôm ấy, Đức Giê-su đã cho mọi người một lời dạy dỗ chân tình: “Anh em nghe quan tòa bất chính nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?”

Đúng vậy, hơn ba trăm năm sau, (332 – 387), có một người tên là Monica, người phụ nữ này đã kiên trì, suốt hơn hai mươi năm, ngày đêm liên lỉ cầu nguyện cho gia đình mình, một gia đình hoàn toàn vô đạo.

Và, Thiên Chúa đã “minh xét” cho bà, đó là “…Mẹ chồng và Patricius (chồng bà) đã xin Rửa Tội và tin theo Chúa. Còn Augustinô (con bà) đã chia tay bè rối Manichê (Nhị Nguyên) là một tà thuyết chống lại Giáo Hội và đức tin của Công Giáo mà ông đã dồn toàn tâm toàn trí trong suốt chín năm trường. Sau đó ngài được Rửa Tội. Hai người con còn lại là Navigio và Perpetua cũng xin chịu phép Thanh Tẩy và gia nhập Giáo Hội Chúa. Sau này cả hai đã đi tu dòng” (nguồn: internet).

Vâng, ông Mô-sê hay bà Monica, nói như thánh Phaolô đã nói: Họ đã cầu xin Thiên Chúa “với tất cả lòng nhẫn nại” (2Tm 4, …2).

****

“Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”.

Là một Ki-tô hữu, trước lời truyền dạy này, thưa bạn, bạn có “cầu nguyện luôn?”.

Vâng, có lẽ câu trả lời là có, phải không, thưa bạn! Tuy nhiên, chắc hẳn không ít người trong chúng ta có đôi lúc “nản chí”.

Tại sao lại nản chí? Phải chăng là vì lời cầu nguyện của chúng ta không có sự hồi âm? Vâng, phải nhìn nhận rằng, một trong những điều ảnh hưởng lớn nhất cho đời sống cầu nguyện của chúng ta, đó là sự “hồi âm”. Chính sự chậm trễ trong sự hồi âm khiến ta sinh ra sự nản lòng.

Thế nhưng, có bao giờ chúng ta tự hỏi, biết đâu lời cầu nguyện của mình không được hồi âm, “…là vì (ta) xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Xin trúng số… số đề, chẳng hạn!)

Biết đâu, lời cầu nguyện của chúng ta không có sự hồi âm, là vì chúng ta chưa đủ sự nhẫn nại và lòng kiên trì! Chưa đủ sự nhẫn nại và lòng kiên trì, biết đâu là vì chúng ta chưa đủ lòng tin!

Với việc chậm trễ hồi âm, hãy xem đó như là một phước hạnh, phước hạnh để ta có cơ hội “cầu nguyện khẩn thiết” hơn, phước hạnh để ta đến gần hơn vào cuộc tương giao giữa Chúa với ta!

Một người có đức tin mạnh mẽ, vấn đề hồi âm trở thành thứ yếu, điều quan trọng, lúc đó, chính là mối tương giao mật thiết giữa ta và Chúa. Chính mối tương giao này khơi dậy trong ta một niềm tin, một niềm tin cầu nguyện liên lỉ không thôi.

Thì đây, với thánh Phao-lô, ngài cũng chỉ có một lời khuyên: "Hãy cầu nguyện không ngừng".

Còn rất nhiều tấm gương những con người chuyên tâm cầu nguyện, liên lỉ cầu nguyện, trong suốt chiều dài lịch sử Giáo Hội, chúng ta không thể liệt kê ra đây. Mà, liệt kê ra đây để làm gì? Để xem đó như là “những dẫn chứng thực tế” ư! Ấy chết, nếu thế thì, có khác gì mấy ộng kẹ Pha-ri-sêu xưa, thay vì vâng nghe lời Đức Giê-su dạy, lại đi đòi Ngài cho xem “dấu lạ…!”

Vâng, có lẽ điều cần thiết hơn, đó là, hãy “suy đi nghĩ lại” về lời truyền dạy của Đức Giê-su, cũng như những lời khuyên của tông đồ Phao-lô, (nêu trên), và đem làm hành trang cho đời sống cầu nguyện của mình. Đừng tự biện minh cho mình, rằng “thời buổi này không có giở ăn trưa, làm gì có thời gian để đọc những mớ lý thuyết trừu tượng” đó.

Suy nghĩ như thế, đúng là lối suy nghĩ của kẻ vô thần. Chính mớ lý thuyết trừu tượng đó, sẽ giúp chúng ta “chắc chắn trong niềm tin”, điều mà thánh Augustin đã từng trải, qua lời lời chia sẻ sau: “Niềm tin làm phát sinh cầu nguyện, và cầu nguyện một khi đã phát sinh sẽ đem lại chắc chắn trong niềm tin”.

Nếu tất cả mỗi chúng ta đều chắc chắn trong niềm tin, nhờ vào việc cầu nguyện liên lỉ không ngừng, có phần chắc, trong ngày “Con Người ngự đến”, Đức Giê-su sẽ không phải phàn nàn, rằng “liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” Vậy, tại sao không! Tại sao không “cầu nguyện luôn (và) không được nản chí”!

Petrus.tran         

Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2016

Chỉ cần… lớn bằng hạt cải.


Chúa Nhật XXVII – TN – C

Chỉ cần… lớn bằng hạt cải.

Chúng ta bắt đầu bước vào tháng mười. Và như truyền thống đẹp, đây là tháng Giáo Hội dành riêng nhớ đến Đức Maria.

Nói đến Đức Maria, có lẽ, không ai trong chúng ta lại không liên tưởng đến hai chữ “xin vâng”. Thật vậy, theo những gì Kinh Thánh đã ghi, cuộc đời của Đức Maria quả là một chuỗi dài của nhiều lời xin vâng.

Nói tới lời xin vâng thứ nhất, và có thể đây là lời xin vâng khó khăn nhất trong đời của Đức Maria, đó là ngày sứ thần Chúa loan báo, rằng: “Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người, Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.

Nghe xong lời loan báo, Đức Maria không khỏi run rẩy thốt lên: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”
Để trấn an trước một Maria “run như run thần tử thấy long nhan”, sứ thần Chúa nói: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”.

Lời Chúa nói như thế, Đức Maria chỉ còn biết đáp lời mời gọi bằng hai chữ xin vâng. Xin vâng, vì Mẹ “đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói”. Xin vâng, vì Mẹ phó thác vào “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”.

Nhờ có lòng tin và tâm tình phó thác, Mẹ đã vác hai chữ “xin vâng” đến hang lừa tại Belem, qua Ai Cập, rồi về Na-da-rét và cuối cùng lên tới tận chân đồi Golgotha. ** Với chúng ta hôm nay, khi trở thành Ki-tô hữu, đó cũng chính là khởi đầu cho lời xin vâng, một hình thức mới, “đáp lời mời gọi”, lời mời gọi của Đức Giê-su: “Hãy đến cùng Ta”.

Chỉ có điều, chúng ta đáp lại lời mời gọi đó như thế nào! Như Đức Maria với một tâm tình phó thác? Như Đức Maria cho hết suốt cuộc đời mình? Hay có đôi lúc, chỉ vì một vài yếu tố bất lợi cho cuộc sống của ta, ta lại “hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh”! Nói cách khác, ta thiếu lòng tin hoặc yếu đức tin, vào Ngài?

Nói tới yếu đức tin, thật ra, các tông đồ xưa, tuy đã bỏ hết mọi sự và đi theo Đức Giê-su, họ vẫn có đôi lúc thiếu hoặc yếu đức tin, vào Thầy của mình.

Bằng chứng, một ngày nọ, Đức Giêsu cùng các môn đệ có một chuyến hải trình trên biển hồ. Và, đang khi thuyền rẽ sóng, bất ngờ, một trận cuồng phong nổi lên. Thuyền của các ông bị ngập nước và lâm nguy. Tuy là các ngư phủ lão luyện, các ông vẫn không khỏi sợ hãi. Sự sợ hãi đó khiến các ông đã gọi Đức Giê-su dậy, vì lúc đó Ngài đang ngủ.

Hôm đó, Ngài thức dậy “ngăm nghe sóng gió, sóng gió liền ngừng và biển lặng ngay”. Nhìn các ông như những con nai vàng ngơ ngác, Đức Giê-su trách: “Đức tin anh em ở đâu?”

Qua câu chuyện này, quả đúng là các môn đệ đã bộc lộ sự “thiếu lòng tin”của mình. Chính vì thế, một lần nọ, khi Thầy và trò bên nhau, các ông thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”.

Đây không phải là lần đầu tiên các môn đệ xin Thầy mình điều liên quan đến đời sống tâm linh.

Nhớ, có lần các ông đã ngỏ ý với Đức Giê-su “xin dạy chúng con cầu nguyện”. Và, Đức Giê-su đã dạy các ông “Kinh Lạy Cha”.

Nay, xin thêm lòng tin ư! Đức Giê-su sẵn sàng. Hôm đó, đáp lại lời xin của các ông, Đức Giêsu nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì, dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. (Lc 17, 6)

Đã có không ít người khó hiểu về lời truyền dạy này. Tại sao lòng tin lại chỉ cần “lớn bằng hạt cải? Và, sao các môn đệ không có phản ứng gì khi Thầy mình nói như thế!

Vâng, rất dễ hiểu. Các môn đệ là cư dân ở Palestina, các ông hiểu thấu đáo về sự ví von của Thầy mình qua hình ảnh “hạt cải”. Chỉ là một hạt cải nhỏ bé, nhưng với thời gian, nó trở thành cây cải, một cây cải có thể cao lớn tới ba thước, và như thánh Mat-thêu cho biết, “chim trời làm tổ trên cành được”(x.Mt 13, 31)

Ví von lòng tin lớn bằng hạt cải, Đức Giêsu không cường điệu hóa vấn đề. Đây chỉ là một cách nói, một cách nói để diễn tả “sự lớn mạnh của lòng tin”.

Chưa dừng ở đó, hôm đó, Đức Giê-su còn nói đến “nét đẹp” của người có lòng tin. Đó là, người đó “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17, 10).

*** Trở lại với các môn đệ đáng yêu của Đức Giê-su. Thật phước hạnh khi các ông xin thêm lòng tin.

Xin thêm lòng tin, vì các ngài hiểu rằng, đó chính là “sức mạnh thuộc linh”, một sức mạnh để làm hành trang cho cuộc đời chứng nhân của mình.

Thì đây, đã có lần Đức Giê-su chẳng nói “Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói”, đó sao! Chiên con, một biểu tượng của sự hiền lành Nước Trời, mà đâm đầu vào giữa bầy sói, một biểu tượng của sự dữ trần gian, làm sao chiến thắng nếu không có sức mạnh của lòng tin! 

**** Bây giờ là đến chúng ta. Hãy để tâm hồn mình trong thinh lặng và tự hỏi: Tôi có lòng tin vào Chúa không? Hãy tự hỏi lòng mình: “tôi có tên trong danh sách những người kém lòng tin”? Và, nếu có, thì “tôi có như các tông đồ (xưa), thưa với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”!

Ngôn sứ Kha-ba-cuc, đã làm gì khi ông ta “phải chứng kiến tội ác hoài?” Khi trước mắt ông ta “toàn là cảnh phá phách bạo tàn, chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ”… 

Thưa, ông ta phàn nàn với Chúa: “Cho đến bao giờ, lạy ĐỨC CHÚA, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: Bạo tàn mà Ngài không cứu vớt”(x.Kb 1, 2)

Hôm nay, chúng ta đang sống trong một xã hội cũng tương tự như thời ngôn sứ Kha-ba-cuc. Một xã hội tràn ngập tội ác, đầy dẫy “chước cám dỗ”, một xã hội lúc nào cũng muốn giơ dao dọa giết Thiên Chúa, một xã hội thậm chí đã tuyên bố Thiên Chúa đã chết rồi. Nói tắt một lời, một xã hội rất dễ làm cho chúng ta mất lòng tin.

Chúng ta cũng chạy đến Chúa phàn nàn như ngôn sứ Kha-ba-cuc? Tốt thôi, nhưng đừng quên la lên với Người: “Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con”.

Đừng quên, lòng tin, chính là “đặc sủng của Thiên Chúa”, đặc sủng mà chúng ta đã nhận được qua Bí Tích rửa tội, như lời thánh Phao-lô nói với Ti-mô-thê, rằng; “đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh” (x.2Tm 1, …6)

Thế nên, việc xin thêm lòng tin, chính là cơ hội để chúng ta “khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa”. Đặc sủng đó chính là “một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương và biết tự chủ” (x.2Tm 1, 7)

Thưa Bạn, đầy sức mạnh Thần Khí, “khơi dậy” tình thương và biết tự chủ, có lẽ nào chúng ta không đánh bật được những cây dâu, cây dâu “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, chia rẽ, tranh chấp, ganh tị, say sưa, chè chén”, ra khỏi con người ta!! Có lẽ nào ta không đánh bật những mưu ma chước quỷ luôn rình rập bên cạnh cuộc đời ta?

Đừng nghi ngờ vào “Sức mạnh Thần Khí”. Hãy nhớ, một lần nọ, có một người cha đã nghi ngờ quyền năng của Đức Giê-su về việc chữa lành cho con ông bị quỷ ám.

Hôm đó, đến bên Đức Giê-su, ông nói: “Nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi”. Ngay lập tức, Đức Giê-su trách: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có thể đối với người tin”.

Vâng, chỉ cần có “Lòng tin – Đức tin”. Và, thánh Phaolô khẳng định “Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu”( 2 Tm 1, …9).

Ân sủng đó, cha cậu bé bị quỷ ám đã tuyên xưng: “Tôi tin!”. Và chúng ta, chắc hẳn cũng tuyên xưng như thế..

Điều quan trọng, và rất cần thiết cho chúng ta hôm nay, đó là, trong những khoảnh khắc khó khăn nhất của đời mình, ta có cùng tâm tình như người cha cậu bé bị quỷ ám mà thưa với Chúa rằng: “Xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi”, hay không? (x.Mc 9, 24)

Vâng, nếu có… chỉ cần… ta chỉ cần xin Chúa giúp cho lòng tin yếu kém của mình “lớn bằng hạt cải”, mà thôi.

Petrus.tran           

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...