Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2018

Chỉ cần ta “quyết từ nay thờ Chúa…”.


Chúa Nhật Lễ Lá.   

Chỉ cần ta “quyết từ nay thờ Chúa…”.

Mùa Chay đã khép lại. Và hôm nay, chúng ta bước vào một tuần được gọi là Tuần Thánh. Tuần Thánh, bắt đầu bằng việc Giáo hội cử hành Lễ Lá, một ngày lễ nhớ tới việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem, được dân chúng đón rước và tôn vinh như một vị quân vương.

Về sự kiện này, thánh Luca đã tường thuật lại như sau: “Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường”. Và “Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã được thấy. Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!”... Sau lễ lá, Giáo hội dành riêng ba ngày được gọi là “Tam Nhật Thánh”.

Tam Nhật Thánh được bắt đầu vào thứ Năm, với ngày này, Giáo hội cử hành nghi thức rửa chân và nhắc lại việc Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể. Kế đến là thứ sáu, với ngày này, Giáo Hội tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giê-su. Sau đó, vươn tới cao điểm là một thánh lễ long trọng vào chiều tối thứ bảy, chúng ta quen gọi là Lễ  Vọng Phục Sinh. Cuối cùng được kết thúc với một thánh lễ Mừng Chúa Phục Sinh. Thánh Lễ cử hành chính ngày Chúa Nhật Phục Sinh.

Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể. Tưởng niệm cuộc thương khó của Ngài. Mừng Chúa Phục Sinh. Đó là điều người tín hữu Công Giáo tin và tôn vinh. Điều này không tự Giáo Hội đặt ra, nhưng đó là niềm tin tông truyền và được ghi chép đầy đủ trong các sách Tin Mừng.

Việc Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể, thánh sử Mác-cô đã kể lại rằng:  Hôm ấy,  là ngày lễ Vượt Qua. Đang khi dùng bữa, “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra , trao cho các ông và nói: ‘Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy’. Và Người cầm chén rượu, dâng lời Tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này Người bảo các ông: ‘Đây là Máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Thiên Chúa”. (x.Mc 14, 22-25). 

Còn với việc tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su ư! Vâng, đã có người biểu lộ ý tưởng của mình như sau:  “Có thể nói được rằng đây là lễ giỗ hằng năm Giáo Hội kính nhớ Thầy Chí Thánh của mình.”(trích nguồn: internet). Ví von như thế, e rằng có khập khiễng quá chăng!

Tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su, mà lại xem đó như là “một lễ giỗ” ư! Sao mà kỳ vậy?  Cái chết của Ngài, có phải là một cái chết của phàm nhân, để rồi mỗi năm đến ngày đó, làm một đám giỗ ăn nhậu linh đình (như người không có đạo) hoặc xin một thánh lễ cầu cho linh hồn (như người có đạo)!!!  

Cái chết của Đức Giê-su là một cái chết “thánh thiêng”, một cái chết sinh “ơn cứu chuộc chứa chan nơi Ngài”

Tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su là tưởng nhớ đến những bất công và bạo lực của thần quyền cũng như thế quyền (thời đó), là nhớ lại sự phản bội và nhát đảm của các môn đệ, mà Ngài đã phải gánh chịu trong thinh lặng và đớn đau, để coi đó như một bài học, một bài học về sự trung tín, cho chúng ta, hôm nay. 

Tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su là hướng đến một Thiên Chúa là tình yêu, Người đã “…Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(x.Ga 3, 16)

**Giờ đây, chúng ta hãy trở lại Ghết-si-ma-ni, nơi được cho là đã xảy ra cuộc bố ráp, bắt bớ để rồi dẫn đến “cuộc thương khó” của Đức Giê-su, chúng ta sẽ thấy cái chết của  Ngài đúng là một cái chết thánh thiêng, một cái chết “vì người mình yêu”.

Vâng, vài hôm trước đó, nhóm thượng tế  đã sắp đặt một kế hoạch truy bắt Ngài. Kế hoạch đó được Giuđa Iscariot vạch ra. Trước đó, y đã lén lút đi gặp các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ  để bàn về cách thức nộp Đức Giêsu cho họ.

Được các thượng tế hứa hẹn sẽ “cho ba mươi đồng bạc”, vì thế cho nên “từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.” .Và khi mọi sự đã được họ hoạch định. Một nhóm người được các thượng tế và kỳ mục sai đi tầm nã Đức Giêsu.

Trong lúc đó, tại Ghếtsimani, Đức Giê-su đang  nguyện cầu. Ngài cảm thấy “buồn đến chết được”. Vâng, làm sao không buồn, vì kẻ phản bội lại là một người trong nhóm mười hai.

Ánh đuốc bập bùng cộng tiếng vó ngựa vang rền đã phá tan sự thĩnh lặng của Giết-si-ma-ni. Tiếng gươm giáo và gậy gộc va chạm  đã khiến cho ai nấy phải rợn người. Vòng vây mỗi lúc một xiết chặt hơn. Ghếtsimani bỗng chốc phủ trùm bầu khí của bạo lực và chết chóc. Và  khi Giuda Iscariot xuất hiện. Như một con hổ đói, y xông đến Đức Giê-su, hôn Ngài.

Nụ hôn ư!…Đó là  một cử chỉ biểu lộ tình yêu thương, sao nay lại là một ám hiệu để bắt bớ! Thưa, đúng vậy. Đó là ám hiệu mà y đã nói với đồng bọn: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy.” Ôi! nụ hôn của thần chết...

Ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, không ít lần người ta tìm cách giết Ngài, đe dọa và ném đá Ngài. Đức Giêsu đều tìm cách lánh đi. (x.Ga 8,59). Nhưng hôm nay, tại vườn Ghếtsimani, Giêsu người Nazareth, Ngài đứng lặng… Ngài đứng lặng… lặng như “chiên bị dẫn đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng”.(Isaia)

 Toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ người Do Thái ập đến bắt Đức Giêsu. Họ trói Ngài rồi điệu đến dinh thượng tế Caipha. Toàn thể những thành viên Hội Đồng Công Tọa quá đỗi bất ngờ trước chiến tích của tên “phản thùng” Giuđa Iscariot.

Tại đây, Đức Giêsu đã phải hứng chịu suốt đêm màn tố khổ tại dinh thượng hội đồng, đầy bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, điều đó cũng chưa làm Hội Đồng Công Tọa mãn nguyện. Họ muốn Ngài phải chết.  Thế nên, không có  kế nào tốt hơn là “dẫn độ” Đức Giê-su đến Phi-la-tô, một quan tổng trấn La-mã, người có quyền tuyên án tử hình. Và họ đã làm.

Trên đường tới dinh tổng trấn, ngoài những sự đau đớn do bị đánh đập, Đức Giê-su còn đau đớn hơn khi “gà chưa kịp gáy” thì người môn đệ của mình “đã ba lần chối là không biết Thầy”.

Tại dinh tổng trấn, khi Philatô xuất hiện. Ông ta chết lặng nhìn thân thể tiều tụy rã rời của Đức Giêsu.  Hình hài của Đức Giêsu, thật đúng như những gì ngôn sứ Isaia đã mô tả: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi người ta phỉ nhổ” (x.Is 50, 6).

Chỉ qua vài lời thẩm vấn, Phi-la-tô cho rằng, Đức Giê-su “chẳng can tội gì đáng chết” (Lc 23,14). Thế nhưng, dù có thẩm quyền, ông ta vẫn không đủ can đảm trả tự do cho Đức Giê-su, vì ông ta sợ, sợ trước những tiếng gào thét, ném về Đức Giê-su: “Giết! Giết nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá”.

Sau một chút do dự, Philato “chữa cháy” bằng việc đem ra một tù nhân, một gã cướp khét tiếng, phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật, tên là Baraba. 

Và, như một thông lệ, vào những ngày lễ lớn, quan tổng trấn đại diện cho Rôma, có thói quen ân xá cho một phạm nhân. Hôm đó, Philatô đã đưa Đức Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng cho họ chọn lựa.Tiếc thay, kế hoạch của quan tổng trấn “phá sản”. Hôm đó, toàn dân đã la lớn: tha Baraba và đóng đinh Giêsu.

Phiên tòa chấm dứt, chấm dứt qua việc “rửa tay”,  phủi bỏ trách nhiệm của ngài tổng trấn Philato. Hôm ấy, mệt mỏi vì những tiếng gào thét cuồng nộ của đám đông, Philato  ngượng ngùng “trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá”.

Con đường  thương khó bắt đầu trải ra cho Đức Giêsu. Mấy hôm trước, Ngài đã được đón tiếp như một quân vương. Nhưng hôm nay, ôi thật đúng là con đường của chết chóc! Lưỡi gươm và mũi đòng đã được thay cho những nhành thiên tuế.

Người ta thấy có một nhóm phụ nữ “vừa đấm ngực vừa than khóc Người”, thế nhưng, Đức Giêsu đã quay lại và cho họ một lời khuyên: “Đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu.”.  

Các bà quên rằng, Đức Giêsu, nếu muốn, Ngài đã có thể cầu xin Thiên Chúa Cha “cấp ngay cho (Ngài) hơn mười hai đạo binh thiên thần” để giải thoát Ngài. Nhưng! “như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được?”.

Đức Giê-su đã chấp nhận cuộc “thương khó” dẫu cho những điều xảy ra cho Ngài “khó thương”; cũng chỉ vì… “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”.

*** Chiều tối thư sáu, lúc màn đêm buông xuống cũng là lúc Đức Giê-su được mai táng trong mồ, phụng vụ không có thánh lễ. Suốt ngày thứ bảy, tất cả giáo đường đều thinh lặng, thinh lặng kính viếng thánh giá Chúa Ki-tô.

Nhắc tới điều này để làm gì? Thưa, để chúng ta cũng thinh lặng, không chỉ thinh lặng kính viếng thánh giá Chúa Ki-tô, nhưng còn thinh lặng để hỏi mình, rằng: tôi đã đến với Tuần Thánh như thế nào? Tôi có xem Tuần Tam Nhật như là một cơ hội để thẩm định lại niềm tin mình?

Vâng, hãy tự hỏi,  như người Do Thái xưa, vào ngày này (Lễ Lá), họ đã không ngớt reo hò hoan hô Đức Giê-su: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”, còn hôm nay, chúng ta…  chúng ta cũng hoan hô chúc tụng Ngài! Chúng ta cùng kính thờ Ngài!

Hay, chỉ vì muốn có một cuộc sống giàu sang phú quí, chúng ta quay sang hoan hô, chúc tụng: thần tiền bạc, thần danh vọng, thần quyền lực v.v…? Nếu có, thì đừng quên, Đức Giê-su có lời truyền dạy: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì”

Hoặc, chỉ vì một phút yếu lòng nghĩ rằng “chẳng chết chóc gì đâu”, chúng ta lại hoan hô, lại đón mời, lại lăn sả vào: “thần dâm bôn, thần phóng đãng, thần say sưa chè chén” v.v…Nếu có, hãy coi chừng, đi theo những vị thần này, thánh Phao-lô cảnh báo: “những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (x.Gl 5, 21)

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, tại Golgotha, một trong hai tên gian phi, nhờ đã nhận Đức Giê-su chính là “vị thần” của đời mình, y đã được cứu. Vâng,  y đã được cứu chỉ một lời khẩn khoản nài xin: “Ông Giê-su ơi! Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”.

Thế nên, đừng để Tuần Thánh đi qua mà chúng ta vẫn chưa có sự lựa chọn. Thế nên, hãy tự hỏi mình: “Tôi chọn Đức Giê-su, hay chọn Baraba - một biểu tượng của gian ác, của bạo lực”!

Nếu chọn Giê-su! Vậy thì, hãy đến với Tuần Thánh trong tâm tình cầu nguyện, nguyện rằng: “Xin giúp con đường thiêng liêng theo lối. Quyết từ nay thờ Chúa hết tâm tình”.

Nói cách khác, để được “vào Nước của Chúa”, để được “ông Giê-su nhớ đến” chỉ cần…chỉ cần chúng ta quyết-từ-nay-thờ-Chúa-hết-tâm-tình.

Vâng,  chỉ cần ta “quyết từ nay thờ Chúa hết tâm tình”.

Petrus.tran

Thứ Ba, 20 tháng 3, 2018

Hãy dám chết ở trong lòng một ít…


Chúa Nhật V – MC – B 

Hãy dám chết ở trong lòng một ít…


Chỉ còn một tuần nữa, Mùa Chay sẽ khép lại. Theo truyền thống, tuần kế tiếp được gọi là tuần thánh. Trong tuần này, cao điểm là “Tam Nhật Thánh” (thứ năm, thứ sáu và thứ bảy), Giáo Hội cử hành mầu nhiệm chính Đức Giê-su đã hoàn tất vào buổi chiều của bữa tiệc Vượt Qua, đó là Mầu nhiệm Thánh Thể. Long trọng hơn nữa, là lễ tưởng niệm cuộc thương khó và tử nạn của Ngài.  

Nói về cuộc thương khó và tử nạn của Ngài, chúng ta có thể xem đó như là một bản tuyên ngôn, bản tuyên ngôn về “ơn cứu chuộc chứa chan nơi Đức Giê-su Ki-tô” .

Mà đúng vậy, khi nói về sự cứu chuộc, trong một cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do Thái, Đức Giê-su đã tuyên bố, rằng: “như ông Mô-sê đã gương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được gương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. (Ga 3, 14-15)

Về sự việc “phải được gương cao”, Đức Giê-su đã nói rất rõ ràng với các môn đệ, tới ba lần, rằng: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Với lần thứ hai, nội dung không khác là bao nhiêu. 

Và, lần thứ ba, Ngài đã tuyên bố “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người…”(x…Mc 10, 33-34)

Hồi ấy, khi nói về “cuộc thương khó và tử nạn” của Đức Giê-su, các môn đệ, đặc biệt là tông đồ Phê-rô hết sức ngỡ ngàng, ông ta đã “kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người”. Ông ta nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy”.

Vâng, có thể nói, đó là một lời trách ngay lành. Nhưng, với Đức Giê-su thì không. Ngài đã nói với tông đồ Phê-rô, rằng: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. 

Tư tưởng của Thiên Chúa, đó là:  Đức Giê-su phải chịu chết. Điều này đã được Ngài dùng một hình ảnh rất đời thường, như một lời giải thích: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (x.Ga 12, 24) 

Và, đúng như lời Đức Giê-su đã nói. Cái chết của Ngài không phải là cái chết “trơ trọi” tại đồi Golgotha, nhưng đã là một cái chết  sinh “ơn cứu chuộc chứa chan nơi Ngài” . 

Hôm ấy, hôm Đức Giê-su công bố chân lý này, thánh sử Gio-an cho biết, “bấy giờ có tiếng từ trời cao vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”. Tiếng từ trời vọng xuống đó, đã được Đức Giê-su cho biết, đó là “vì các ngươi”.

Vâng, đúng là “vì các ngươi”,  “vì loài người chúng ta”, Đức Giê-su đã chịu chết, chết trên thập giá tại đồi Golgotha, một cái chết để “cứu chuộc mọi người”, đúng như lời Ngài đã phán hứa: “Phần tôi, khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. 

**
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, Đức Giê-su vẫn mời gọi mỗi chúng ta đến, đến dưới chân cây thập giá, mà nay đã trở thành cây “thánh giá”, nơi đây, Ngài sẽ “kéo chúng ta lên với Ngài”. Mà, đã là một Ki-tô hữu, có ai trong chúng ta lại không được Ngài “kéo lên” nhỉ! 

Vâng, Đức Giê-su đã kéo chúng ta lên với Ngài. Được kéo lên với Đức Giê-su, chúng ta sẽ làm gì? Phải chăng là hãy tự hỏi mình rằng: tôi đã tiếp nhận “Mầu nhiệm Vượt Qua”, mầu nhiệm mà Đức Giê-su đã đón nhận? 

Nói cách khác, là một Ki-tô hữu, tôi đã tiếp nhận cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giê-su, như là của tôi?
Tiếp nhận cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giê-su, không nhất thiết chúng ta cũng phải “vác thập giá lên Golgotha và chịu chết nơi đó” như Đức Giê-su đã lãnh chịu. Bởi, nếu tất cả chúng ta thực hiện điều này, diện tích đồi Golgotha sẽ không đủ chỗ để chứa những cây thập giá của chúng ta. 

Tiếp nhận cuộc “thương khó” của Đức Giê-su, đó là hãy tiếp nhận những điều “khó thương” đã và đang xảy ra chung quanh chúng ta, ngay trong gia đình chúng ta. 

Thì đây, điều khó thương trong gia đình chúng ta, ngày nào mà không có! Nhìn ông chồng ngày nào cũng say xỉn, có “khó thương” không kia chứ! 

Vâng, rất nhiều… rất nhiều chuyện “khó thương” từ ông bố, từ người mẹ, từ đứa con, từ người hàng xóm đến người bạn đồng nghiệp v.v… đã đem đến cho chúng ta, mà không thể nêu hết ra đây…  Chúng ta sẽ ‘tiếp nhận”?

Còn… còn tiếp nhận cuộc “tử nạn” của Đức Giê-su thì sao? Thưa, , đó là hãy chết-đi-cho-tội-lỗi của mình, hãy chết đi cái bản ngã của mình. Đó là chết đi cho những dục vọng xấu xa: dâm bôn, phóng đãng. Đó là chết đi cho những cá tính: nóng giận, chia rẽ, hận thù. ghen tuông. Đó là chết đi cho những thái độ thờ  trước những bất công, bạo lực. Đó là chết đi sự vô cảm trước những hoàn cảnh bệnh tật, đói nghèo, của tha nhân.

Còn nữa, tiếp nhận cuộc “tử nạn” của Đức Giê-su không nhất thiết phải chết trên thập giá, như Đức Giê-su khi xưa. Với chúng ta hôm nay, chỉ cần… chỉ cần “chết ở trong lòng một ít”, là đủ.

“Chết ở trong lòng một ít” là chết như thế nào? Thưa, đó là, trong một thời đại người ta cổ võ cho chủ nghĩa vô thần, người ta lợi dụng sự độc quyền về truyền thanh, truyền hình, báo chí, sách vở v.v… để ra rả những lời bêu rếu, chửi bới, chê cười, nhạo báng “Đạo Chúa”, thế mà chúng ta không phẫn nộ, không oán giận, vẫn biểu lộ tình yêu thương, sự khoan dung… Vâng, đó chính là chúng ta đã “chết ở trong lòng một ít” vậy.

Trong vai trò là một bác sĩ, một y tá, trước một bệnh nhân, chúng ta không “làm tình làm tội” họ, không đòi hỏi “phong bì phong bao”, chúng ta điều trị họ, săn sóc họ với tất cả lương tâm nghề nghiệp của mình v.v… Đó… đó chính là chúng ta đã “chết ở trong lòng một ít” vậy. 

Nói chung, ở bất cứ vai trò gì trong xã hội, nếu chúng ta chịu thiệt thòi chút ít, thiệt thòi tiền bạc, chịu mất mát chút ít,  chút ít quyền lợi…vì đức tin. Đó… đó chính là chúng ta đã “chết ở trong lòng một ít” vậy.

Không dám “chết ở trong lòng một ít”, hy sinh cho tha nhân ở đời này, mà chỉ muốn có được một cuộc sống sung túc, một cuộc sống chỉ mình ta, cho mình ta… 

Vâng, kết quả, có phần chắc, đó là mất đi cuộc sống đời đời. Câu chuyện ông nhà giàu và anh Lazaro, như một điển hình.

Mà, cớ gì chúng ta, là những Ki-tô hữu, lại không “chết ở trong lòng một ít”, vì Danh Đức Giê-su! Đừng quên, Đức Giê-su đã nói: “ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.

Đây là một lệnh truyền, một lệnh truyền cho bất cứ ai muốn trở nên môn đệ của Đức Giê-su. Vâng, có quá khó để thực hiện chăng!

Nếu thấy khó, đừng quên, tại vườn Ghết-sê-ma-ni, Đức Giê-su cũng đã có chút “khó khăn” khi phải đối diện “Mầu Nhiệm Vượt Qua”. Chuyện được kể rằng: “Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến”. Người đã thổ lộ với các môn đệ mình, rằng: “Tâm hồn Thầy buồn rầu đến chết được”. 

Trước thảm cảnh này, Đức Giê-su đã làm gì? Thưa, cầu nguyện, Ngài có lời truyền dạy, rằng: “Anh  em hãy canh thức và cầu nguyện… Vì tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn”. Và, quả thật, Đức Giê-su, trong những giây phút đen tối đó, Ngài cầu nguyện liên lỉ. Chúng ta hãy nghe lời nguyện cầu của Ngài: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi thì xin vâng ý Cha”(x.Mt 26, 42)

Chính vì thế, để có thể thực hiện lệnh truyền (nêu trên), không gì tốt hơn là hãy cầu nguyện. Hãy noi gương Đức Giê-su xưa kia “lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khấn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng”. 

Đấng-có-quyền-năng, hôm nay, chính là Đức Giêsu Kitô. Một Đức Ki-tô Giê-su “trở nên nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai tùng phục Người” (x.Dt 5, 9)

Cuối cùng, hãy nhớ lời  Đức Giê-su tuyên phán: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.

Thưa quý Bạn… quý bạn có muốn lời tuyên phán của Đức Giê-su ứng nghiệm nơi cuộc đời mình? Nếu muốn, hãy sống với tâm tình chết-ở-trong-lòng-một-ít. 

Vâng, chỉ cần ta dám “chết ở trong lòng một ít”.

Petrus.tran







Thứ Hai, 12 tháng 3, 2018

Hãy tin vào Đức Ki-tô Giê-su…


Chúa Nhật IV – MC – B

Hãy tin vào Đức Ki-tô Giê-su…

Có một nhà truyền giáo đã tuyên bố rằng: “Nếu chẳng may toàn bộ các sách Kinh Thánh thất lạc (hoặc bị đốt bỏ, như kiểu Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn nho), mà còn giữ lại được đoạn 3 câu 16 trong Tin Mừng thánh Gio-an,  với câu đó cũng đủ để mọi người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa đối với con người như thế nào.”

Đoạn 3 câu 16 của Tin Mừng thánh Gio-an, đã nói gì? Thưa, nói  rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Chính Đức Giê-su, chứ không là ai khác, Ngài đã nói điều đó trong một cuộc đàm đạo với một thủ lãnh của người Do Thái, tên là Ni-cô-đê-mô.

Chi tiết về cuộc đàm đạo đó đã được thánh sử Gio-an ghi lại như sau: Hồi ấy, “trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do Thái. Ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm”.

Gặp Đức Giê-su, ông ta đã nói với Ngài như thể nói với một người mình từng quen biết, rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết, Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến”.

Dựa vào đâu mà ông ta nói về Đức Giê-su như thế? Thưa, ông ta đã dựa vào “những dấu lạ” mà ông ta cho rằng Đức Giê-su đã làm, vì như ông ta nói: “chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy đã làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy”.

Đúng vậy, Đức Giê-su, ngay khi bắt đầu ra đi loan báo Tin Mừng, Ngài đã làm rất nhiều dấu lạ, dấu lạ hóa nước thành rượu trong một bữa tiệc cưới tại Cana như là một điển hình.

 Còn chuyện Ngài  “được Thiên Chúa sai đến” ư! Thưa, cũng đúng . Thế nhưng, Đức Giê-su được sai đến không chỉ để người ta coi như là “một tôn sư”, nhưng là để khôi phục cho con người “quyền trở nên con Thiên Chúa”.

Hôm đó, sau những lời tranh luận với ông Ni-cô-đê-mô về sự tái sinh, Đức Giê-su đã khẳng định điều đó khi Ngài công bố một thông điệp, thông điệp rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

“Con của Người” sẽ làm gì để đem lại sự sống muôn đời cho nhân loại? Thưa, hôm đó Đức Giê-su cho biết: “như ông Mô-sê đã gương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được gương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. (Ga 3, 14-15)

Đối với người Do Thái, nói tới chuyện Mô-se gương cao con rắn đồng, có phần chắc ai cũng hiểu, nhưng khi nói “Con Người cũng sẽ phải được gương cao như vậy”, không biết, hồi đó,  ông Ni-cô-đê-mô có hiểu câu nói đó của Đức Giê-su không!

Tuy nhiên, có phần chắc, ông ta sẽ hiểu, hiểu Đức Giê-su nói gì, khi Ngài nói tiếp rằng “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”.

Sau này, quả đúng như lời Đức Giê-su nói, vào một buổi chiều ngày thứ sáu, trên đồi Golgotha, “Con của Người”, chính là Ngài, đã bị giương cao, giương cao trên cây thập giá. Cây thập giá đó, trở thành cây thánh giá, một cây thánh giá, để ai tin, thì người ấy “được cứu độ”.

**
“Được Cứu Độ - Được Sống Muôn Đời”. Vâng, đó chính là kết quả từ cây Thánh Giá của  Chúa Giêsu Kitô. Cây Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô như là cây trường sinh mới, một cây-trường-sinh-mới đã được tác tạo bằng chính thân xác của Ngài. Nó đã được gieo hạt tại miền đất Belem và đã trổ sinh hoa trái khi được “trồng xuống” tại đồi Golgotha.

Nói tắt một lời, nó chính là Tình yêu của Thiên Chúa qua Đức Giê-su Ki-tô, mà chúng ta được hưởng “ơn cứu độ”.  

Thánh Phao-lô, đã cảm nghiệm được điều này, nên đã có lời chia sẻ: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ”.

“Ơn Cứu Độ và Sự Sống Muôn Đời” đã có, và ân huệ mà Thiên Chúa ban cho con người không bao giờ bị giới hạn bởi không gian lẫn thời gian. Vấn đề còn lại là “lòng tin”,  lòng tin của chúng ta. Chúng ta có tin và đón nhận tình yêu của Người?

Mà, cớ gì chúng ta không đón nhận nhỉ!

***
Nói tới lòng tin, có thể nói, đó là một thách đố lớn đối với chúng ta, khi mà chúng ta đang phải sống trong một xã hội vô thần, một xã hội cổ võ cho một nền văn hóa sự chết, một nền văn hóa “tiền là tiên là phật”, một nền văn hóa dạy dỗ con người rằng: Thiên Chúa đã chết rồi, một nền văn hóa ngạo mạn rêu rao rằng: “Thằng trời đi chỗ khác chơi; Để cho nông hội tiến lên làm mùa” v.v…

Ở một xã hội như thế, một xã hội nhồi nhét chúng ta (cũng như con em chúng ta) một nền văn hóa như thế, rất có thể, chỉ vì một phút yếu lòng, chúng ta gục ngã trước những mưu ma chước quỷ của Sa-tan và bè lũ của chúng.

Rất có thể, chỉ vì một phút yếu lòng, chúng ta yêu thế gian đến nỗi “bán” Con Một của Người là chính Đức Giê-su, bằng cách này hay cách khác.

Thế nên, hãy để một phút hồi tâm và tự hỏi, tôi có “bán đứng” lương tâm mình chỉ vì một chút lợi lộc, của cải, tiền bạc mà thế gian ban cho? Tôi có “bán đứng” đồng nghiệp mình chỉ vì một chút danh vọng,    thế gian ban cho? Tôi có bán đứng đồng môn mình chỉ vì một chút quyền lực mà thế gian ban cho?

Đối với gia đình, tôi có bán đứng người bạn trăm năm của mình chỉ vì một phút yếu lòng để cho “hồn lỡ sa vào đôi mắt em”,  một em chân dài nào đó? v.v…

Nếu … nếu chúng ta có một phút yếu lòng! Hãy nhớ đến dụ ngôn “người cha nhân hậu”. (x.Lc 15, 11-32).
 Hãy tin vào lòng nhân hậu và sự bao dung của Thiên Chúa, như người con thứ trong dụ ngôn đã tin.

Hãy đứng lên và đi về với Thiên Chúa, như người con thứ  đã “tin” rằng, người cha sẽ tha thứ và anh ta đã “đứng lên, đi về cùng cha”.

Còn nữa, hãy nhớ lời Chúa, qua miệng lưỡi ngôn sứ Isaia, đã phán rằng “Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận. Tội các ngươi, dẫu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (x.Is 1, 18)

Cuối cùng, hãy mở cuốn Kinh Thánh ra, mở ra và xem Kinh Thánh đã nói gì về Thiên Chúa, một Thiên Chúa là tình yêu.

Phải chăng, Kinh Thánh cho chúng ta biết Thiên Chúa, qua Đức Giê-su Ki-tô, đã làm cho “năm chiếc bánh và hai con cá” hóa ra nhiều để cho con người có cái ăn, khi con người đói!

Phải chăng, Kinh Thánh cho chúng ta biết Thiên Chúa, qua Đức Giê-su Ki-tô, đã chữa lành bệnh tật cho những người đau yếu tật nguyền!
Phải chăng, Kinh Thánh cho chúng ta biết Thiên Chúa, qua Đức Giê-su Ki-tô, đã làm cho Lazaro đã chết và “chôn trong mồ được bốn ngày”, được sống lại!

Có phần chắc, (riêng tôi, tôi nghĩ như vậy), rằng: không ai trong chúng ta lại không nói: “đúng vậy”.

Nếu chúng ta đồng thanh nói: “đúng vậy…”  Vậy thì, chớ có dại mà đặt niềm tin vào Satan cũng như vào sự gian trá của thế gian, nơi chỉ dẫn chúng ta đi về cõi thung lũng của nghi ngờ, của sự chết đời đời.

Nếu chúng ta đồng thanh nói: “đúng vậy…”  Vậy thì, không gì tốt hơn là chúng ta hãy để cho tâm hồn trở về trong thinh lặng và tự hỏi rằng: tôi đã thật sự: “phó thác đời tôi vào Chúa”

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Tuy nhiên, đừng quên rằng, khi đã là Ki-tô hữu, con người của chúng ta chính là “tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su”(x.Ep 2, 10).

Thưa quý bạn, khi chúng ta sống trong Đức Ki-tô Giê-su, đó chính là lúc chúng ta đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, lời mời gọi “tin vào Con của Người”.

Thưa quý Bạn, thánh Phao-lô nói: “Bộ mặt thế gian này đang biến đi”. Và, như lời thánh vịnh 90, cho biết: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi. Mà phần lớn chỉ là những gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi”  (Tv 90, 10).

Và, thưa quý Bạn, cái gì sẽ tồn tại, nếu không là sự sống đời đời trong Đức Giê-su Ki-tô! Cái gì sẽ tồn tại, nếu không là niềm tin, “tin vào Con của Người” để được “sự sống muôn đời”!

Thế nên, đừng để quá muộn. Hãy đến và hãy nói với Thiên Chúa, rằng: Lạy Chúa, con “Tin vào Con của Người”.

Vâng, ngay bây giờ, tôi và bạn, chúng ta “Hãy tin vào Đức Ki-tô Giê-su”.

Petrus.tran


Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...