Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2018

Hãy về nhà và yêu thương gia đình mình.


Lễ Thánh Gia…


Hãy về nhà và yêu thương gia đình mình.


Bạn có thể làm gì để xây dựng hòa bình thế giới? Vâng, Mẹ Tê-rê-sa Calcutta đã có lời khuyên rằng: “Hãy về nhà và yêu thương gia đình mình”. 


“Gia Đình”… trong  cái nhìn toàn diện, gia đình chính là nền tảng của xã hội và cũng là của Giáo Hội. Và, đi vào thực tế  của mỗi người, gia đình luôn là điểm tựa cho chính mình. Trong  suốt cuộc đời này,  chẳng bao giờ có bất kỳ ai sẽ quan tâm tới mình, hơn những người thân yêu trong gia đình.


Gia đình quan trọng là vậy. Thế nhưng, đáng buồn thay! Ngày nay, không ít người đã không còn quan tâm đến hai chữ gia đình. Người ta đã không còn coi gia đình như là một tổ ấm. 


Người ta đổ lỗi do những biến động xã hội trên thế giới, hoặc do những chủ thuyết lệch lạc gây ra. Để rồi, khi nói tới gia đình,  người ta đã nghi ngờ và tự hỏi: gia đình “… là đường đưa ta tới thiên đàng hay đưa tới địa ngục” (Honoré de Balzac)


Vâng, đổ lỗi thì rất dễ. Nhưng, nếu chỉ dựa vào những sự kiện đó (nêu trên) và cho rằng nó là tác nhân chính gây ra những cuộc khủng hoảng, những sự đổ vỡ trong gia đình thì e rằng chưa đúng lắm. 


Sự đổ vỡ hay khủng hoảng trong gia đình, nguyên nhân chính đó là: sự thiếu vắng Thiên Chúa, không tuân giữ lề luật Chúa, (nặng hơn) đó là sự chối bỏ Thiên Chúa. 


Kinh Thánh đã ghi lại nhiều bài học cay đắng khi một gia đình nào đó từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa. Kinh Thánh cũng đã ghi lại nhiều trường hợp gia đình đổ vỡ chỉ vì gia đình đó không tuân giữ lề luật Thiên Chúa.   Gia đình nguyên tổ Adam và Eva như một ví dụ điển hình. 


** Thiên Chúa, trong chương trình sáng tạo, Người đã tạo dựng một gia đình hoàn thiện. Gia đình đầu tiên đó gồm có Adam và Eva. Người đã đặt gia đình Adam-Eva vào một nơi gọi là vườn Eden. 


Tại đây, Thiên Chúa đã ban cho họ quyền làm bá chủ “cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”. Chỉ một điều duy nhất, đó là: “trái của cây cho biết điều thiện  điều ác, thì… không được ăn” (Stk 2, 16) 


Nhưng than ôi! Gia đình Adam và Eva đã bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa, hai ông bà nghe lời dụ dỗ của satan và đã ăn. Để rồi, từ khi phạm tội bất tuân, sự khủng hoảng bắt đầu xảy ra trong gia đình nguyên tổ. 


Sự khủng hoảng đầu tiên, đó là, hai ông bà “trốn… để khỏi giáp mặt ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa”. Không giáp mặt Thiên Chúa, kể như gia đình họ không còn sự hiện diện của Thiên Chúa.


Không còn sự hiện diện của Thiên Chúa, gia đình Adam và Eva mất đi sự gắn bó “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” của mình. Mất đi sự gắn bó, gia đình Adam-Eva mất đi “hai tiếng yêu thương”. Mất đi hai tiếng yêu thương, gia đình Adam-Eva trở thành “bãi chiến trường”.  Tại bãi chiến trường đó, hai người con là Cain và Abel trở thành thù nghịch. Kết quả người anh Cain giết em mình là Abel. 


*** Phải  “có Chúa và tuân giữ lề luật Người”, thì gia đình đó mới có sự bình an và hạnh phúc. Tấm gương gia đình Nazareth, một gia đình đã được Kinh Thánh ghi lại: người cha là Giu-se, người mẹ là Maria và người con là Giê-su đã minh chứng rõ nét cho lời nhận định nêu trên. Vâng, đó là một Gia-Thất-Thánh. 

Gia Thất này không “thánh” bởi những “vầng hào quang” mà các vị họa sĩ, khi vẽ, thường tô điểm trên khuôn mặt các Ngài. Gia Thất này không “thánh” do những lời đồn đãi bởi những “ngụy thư” mang tính chất “huyền thoại”.

Gia thất này được gọi là “gia thất thánh” do bởi, đây là một gia thất mà mọi người trong gia đình đều “có Chúa và tuân giữ lề luật Người”.

Thật vậy, chúng ta hãy trở về làng Nazareth cổ kính năm xưa mà xem, có gia đình nào “có Chúa và tuân giữ lề luật Người”, như gia đình Giuse-Maria-Giêsu!

Vâng, gia đình họ đã  “tuân giữ lề luật Người” một cách tuyệt đối. Dù đã được thiên sứ Chúa cho biết con mình “… nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”, nhưng không vì thế mà ông bà Giuse-Maria lại có thái độ “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Trái lại, các Ngài vẫn trung thành với lề luật do “Đấng Tối Cao” ban hành, qua Mosê, công bố. 

Luật Đấng-Tối-Cao dạy rằng “mọi đàn ông con trai… sẽ phải chịu cắt bì”, thế là Hài Nhi Giêsu khi đủ tám ngày, đã “làm lễ cắt bì” (Lc 2, 21).

Luật Đấng-Tối-Cao dạy rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, thế là ông bà Giuse-Maria đã giữ đúng luật “đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa”

Thế nhưng, chính hôm cả gia đình Giuse-Maria-Giêsu “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua” người ta mới có thể thấy, đây thật sự là một gia đình “Có Chúa”.

Câu chuyện đã được ghi lại, rằng: “(Năm đó), khi Đức Giê-su được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ”.

Và, sau khi “xong kỳ lễ, hai ông bà trở về”. Riêng Đức Giê-su, Ngài đã “ở lại Giêsusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết”. (x.Lc 2, 43).

Ôi! Phải chăng cha mẹ Đức Giêsu vô tâm, thiếu trách nhiệm với người con của mình? Thưa, không phải thế.

Chuyện là thế này, Đền thờ Giêrusalem có bốn cổng, hai cổng dành cho nữ và hai cổng dành cho nam. Khi vào, nam và nữ phải đi đúng cổng quy định. Riêng trẻ em, có thể đi bên nào tùy thích.

Vì thế, chuyện các ngài “cứ tưởng là (Đức Giê-su) về chung với đoàn lữ hành” là điều không có gì đáng trách.

Vâng, có gì phải đáng trách khi các ngài đâu có quên trách nhiệm của mình với người con! Đây, chúng ta hãy nhìn xem, “sau một ngày đường (ông bà) mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc… (và khi) không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm” (Lc 2, 45).

Sau ba ngày tìm kiếm, thật không tin được khi thánh Giu-se và Đức Maria thấy con mình “đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi”.

Đúng, đúng là khó tin được, khó tin nhưng vẫn là sự thật, sự thật là “Ai nghe (Đức Giê-su) nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của (Ngài)”.

Hôm ấy, trong một vài phút “sửng sốt”, Đức Maria nói với con mình: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”

Và, Đức Giê-su trả lời rằng: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”

Qua câu trả lời của Đức Giê-su, thánh sử Luca cho biết: “Ông bà không hiểu lời Người nói”.

Đúng… đúng là Đức Maria và thánh Giu-se đã “không hiểu lời Người vừa nói”, nhưng, liệu điều đó có tác động xấu đến mối liên hệ gia đình giữa các ngài và Đức Giê-su?

Thưa không, Đức Maria và Thánh Giuse tuy không hiểu, nhưng các Ngài vẫn đặt niềm tin vào lời “Con Đấng Tối Cao”. Bởi nếu không tin, làm sao khi trở về Nazareth, Đức Maria vẫn “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2, …51).

Còn Đức Giê-su ư! Thưa, thánh sử Luca ghi lại rằng, Đức Giêsu đã “cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài”. Người “càng ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta”…

Vâng, một gia đình như thế, quả là một gia-thất-thánh, một gia đình mọi người đều “có Chúa và tuân giữ lề luật Người”.

***

Là một Kitô hữu, một người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta đã nhìn, đã lấy gia đình Giuse-Maria-Giêsu như là mẫu mực cho cuộc sống gia đình của chúng ta?

Hay chúng ta cho rằng, mô hình “gia đình Giuse-Maria-Giêsu” thật khó thích hợp trong một  xã hội đang cổ xúy cho một nền văn hóa sự chết, cổ xúy phá thai, cổ xúy bạo lực, mạnh vì gạo bạo vì tiền, mà chúng ta đang sống? 


Là một Ki-tô hữu, một  người tin vào Đức Giê-su, gia đình chúng ta có sống một cuộc sống luôn “có Chúa và tuân giữ lề luật Người”?


Hay chúng ta cho rằng một gia đình sống “có Chúa và tuân giữ lề luật Người” sẽ mang lại nhiều rắc rối, rắc rối vì không được dối trá, dù rằng cả một số đông người trong xã hội đang dối trá chúng ta? 


Hay chúng ta cho rằng một gia đình sống “có Chúa và tuân giữ lề luật Người” sẽ mang lại nhiều trở ngại, trở ngại vì không được năm thê bảy thiếp, trở ngại vì không được làm giàu… làm giàu bất chính, như người ta?


Hãy nhớ lời Kinh Thánh dạy: "Được cả thế gian mà mất linh hồn thì nào ích gì". 


Ngày 25/12/2018 vừa qua, chúng ta có một đại lễ kỷ niệm mừng Chúa Giáng Sinh. Chúa Giáng Sinh, nói theo ngôn ngữ Thánh Kinh, thì, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”.


Qua một gia đình, Đức Giê-su đã cư ngụ giữa chúng ta. Tại sao lại phải qua một gia đình? Thưa, là bởi, Thiên Chúa muốn phục hồi giá trị của gia đình bằng một gia đình mới, gia đình thánh, gồm có: Thánh Giuse, Thánh Maria và Thánh Tử Giêsu.


Chúng ta vui mừng về điều này? Và, chúng ta đón nhận? Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, Kinh Thánh dạy rằng: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (x.Ga 1, 12) 


Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, trong một bài giảng về gia đình Nazareth, ngài đã chia sẻ rằng: “Có một niềm vui lớn lao của gia đình, đó là sự lớn mạnh trưởng thành của các con: tất cả chúng ta đều biết điều ấy. Hài Nhi Giêsu lớn lên, thêm vững mạnh, thêm khôn ngoan, được ơn nghĩa trước mặt Thiên Chúa. 


Những điều ấy diễn ra cho những người con, cho Hài Nhi Giêsu. Chúa Giêsu thực sự là một con người giữa loài người chúng ta. Con Thiên Chúa trở thành một trẻ thơ, để từng ngày lớn lên, để thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, để ơn phúc Thiên Chúa đổ xuống trên Người. Mẹ Maria và Thánh Giuse rất vui khi nhìn thấy tất cả những điều ấy đến với người con Giêsu. 


Và đó cũng là nhiệm vụ của một gia đình, nhiệm vụ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đầy đủ và hài hòa của trẻ thơ, để trẻ thơ có thể có một cuộc sống tốt đẹp như Thiên Chúa muốn và để xây dựng thế giới.” (nguồn: đài Vatican)


“Có một cuộc sống tốt đẹp như Thiên Chúa muốn và để xây dựng thế giới”… Làm sao đây? Thưa, hãy làm cho gia đình mình là một gia đình “có Chúa và tuân giữ lề luật Người”. 


Một cách cụ thể, “Hãy về nhà và yêu thương gia đình mình” (Mẹ Tê-rê-sa)


Petrus.tran










Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2018

ĐỨC MARIA như một điển hình cho chúng ta.


Chúa Nhật IV – MV – C


ĐỨC MARIA như một điển hình cho chúng ta.

Giáng Sinh đã gần kề. Và, những biểu ngữ như: Merry Christmas - Chúc Mừng Giáng Sinh - Giáng Sinh Vui Vẻ v.v…  đã được trang trí khắp nơi nơi.

Với người Công Giáo, có một biểu ngữ thường được dùng để trang trí trước cổng nhà thờ, hoặc trên máng cỏ Chúa Hài Đồng, đó là biểu ngữ mang những dòng chữ sau đây: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.

Có thể nói rằng, hàng triệu triệu người Công Giáo rất quen thuộc với câu chúc tụng này. Đây là lời ngợi khen Thiên Chúa, trong ngày Chúa Giê-su Giáng Sinh, do “muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần ngợi khen” (x.Lc 2, 13-14)

Trong ngày lễ Giáng Sinh, người Công Giáo (cũng như không Công Giáo) đều tỏ bày niềm vui của mình qua việc đối xử với nhau một cách đặc biệt hơn, như: biểu lộ sự vui vẻ, đem sự bình an và thể hiện tình yêu thương đến cho mọi người. Vâng, đây là những việc làm thường được gọi là “Tinh Thần Giáng Sinh”.
Giáng Sinh sắp trở về và cớ sao chúng ta không thể hiện Tinh Thần Giáng Sinh nhỉ!

**
Có một con người thật  “thuộc dòng dõi vua David”, được tiêu biểu cho tinh thần Giáng Sinh, đó chính là Đức Maria. Dựa vào đâu để nói Đức Maria tiêu biểu cho tinh thần Giáng Sinh? Thưa, dựa vào cuộc sống ưu việt của Mẹ.

Mà thật vậy. Kinh Thánh đã ghi chép lại cuộc sống của Đức Maria là một cuộc sống chất chứa những niềm vui, niềm vui có Thiên Chúa ở cùng. Kinh Thánh đã ghi chép lại cuộc sống của Đức Maria là một cuộc sống tràn đầy tình yêu thương, một tình yêu đến là để phục vụ.

Câu chuyện “Đức Maria viếng thăm bà Êlisabeth” được ghi trong Tin Mừng thánh Luca như một dẫn chứng điển hình.

Câu chuyện được kể lại rằng: Sau khi được sứ thần Gabriel loan báo “bà Êlisabeth tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai, bà ấy vẫn mang tiếng là hiếm muộn mà nay đã có thai”, Đức Maria “đã vội vã lên đường” thăm  viếng bà Elisabeth.

Con đường Đức Maria đi không đơn giản là một con đường bằng phẳng dễ đi. Đức Maria phải băng qua miền núi để “vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa”. Khi vào nhà ông Dacaria, Đức Maria liền cất tiếng chào bà Elisabeth.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria không phải là một cuộc thăm viếng bình thường, nhưng là một cuộc thăm viếng của một tình yêu, một tình yêu “quên mình”, quên rằng mình cũng vừa “thai nghén”.

Và, chính nhờ sự quên mình của Đức Maria, bà Elisabeth đã nhận được niềm vui, niềm vui “được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi”. Chính nhờ sự quên mình của Đức Maria, mà tai bà Elisabeth “vừa nghe tiếng (Đức Maria) chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui mừng”.

Cuối cùng, chính nhờ sự quên mình của Đức Maria, cuộc thăm viếng của Mẹ đã để lại một dấu ấn, dấu ấn bình an nơi bà Elisabeth.

Vâng, làm sao không bình an cho được, khi bà Elisabeth “già rồi mà đang cưu mang một con trai”, lại được một cô thiếu nữ dám quên mình “ở lại với bà độ ba tháng”, ba tháng để phục vụ, rồi mới trở về nhà!   

Một cuộc viếng thăm như thế, ai dám phủ nhận, Đức Maria đã để lại cho chúng ta một tấm gương mẫu mực về “Tinh Thần Giáng Sinh”!

***
Đức Maria không chỉ thể hiện Tinh Thần Giáng Sinh vào ngày thăm viếng bà Elisabeth, nhưng Mẹ đã thể hiện tinh thần đó suốt cả cuộc đời. Chuyện kể lại rằng: “Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su”(Ga 2, 1)

Vâng, trong buổi tiệc cưới hôm đó, có Đức Maria. Và, tại đây, Mẹ đã thể hiện “Tinh Thần Giáng Sinh”. Chuyện là hôm đó, “khi thấy thiếu rượu”, Đức Maria đã can thiệp bằng cách nói với Đức Giê-su rằng: “Họ hết rượu rồi”.

Họ hết rượu rồi thì liên quan gì đến mình, mình chỉ là khách mời kia mà! Nhưng không, dù chỉ là khách mời, nhưng với Tinh Thần Giáng Sinh, Đức Maria không thể không quan tâm đến.

Với Tinh Thần Giáng Sinh, Đức Maria không thể để cho mọi người mất niềm vui, niềm vui mà những vị khách đang vui. Với Tinh Thần Giáng Sinh, Đức Maria không thể để cho đôi tân hôn mất đi sự an bình vì thiếu rượu.

Niềm vui và sự an bình phải được hiện diện, hiện diện trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Thế nên, hôm đó Tinh Thần Giáng Sinh của Đức Maria đã được thể hiện, thể hiện qua lời nói với các gia nhân: “Người bảo gì các anh cứ làm theo”.

****
Như đã nói ở trên, Giáng Sinh đã gần kề. Và, khi Giáng Sinh gần kề, có bao giờ chúng ta tự hỏi, hành trang cho việc tham dự Lễ Giáng Sinh của chúng ta là gì? Phải chăng là một “Tinh Thần Giáng Sinh”?

Vâng, phải là một Tinh Thần Giáng Sinh.

Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn, tinh thần đó “thường được thể hiện ngắn ngủi”. Thật vậy, trong một bài  tiểu luận có tựa đề “Tinh thần Lễ Giáng Sinh” của ngân hàng Royal Bank of Canada cho biết: “Nhiều người là ‘tín đồ Ki-tô giáo’ chỉ xứng với danh nghĩa này vài tuần trong năm, biểu lộ lòng quan tâm  đối với người đồng loại cho đến Tết, rồi sau đó trở lại lối sống ích kỷ và thái độ dửng dưng trước cảnh ngộ khốn khổ của người khác”.

Bài viết trên nói tiếp, “chỉ có một vấn đề” với tinh thần Lễ Giáng Sinh, đó là người ta không biểu lộ tinh thần ấy “quanh năm”(nguồn: internet)
Vâng, tinh thần đó phải được thể hiện suốt cả cuộc đời, như Đức Maria.

Đừng bao giờ có tư tưởng “chủ bại” mà cho rằng, để thể hiện tinh thần đó suốt cả cuộc đời là điều bất khả thi.

Thánh Lễ, vâng  Thánh Lễ chính là “nguồn cảm hứng” để chúng ta tìm kiếm cho mình động lực sống tinh thần đó. Bởi Thánh Lễ chính là một bản tình-ca-yêu-thương-của-Thiên-Chúa. Suy niệm về những diễn tiến xảy ra trong thánh lễ sẽ khơi dậy trong chúng ta tinh thần Giáng Sinh. Một tinh thần vui mừng hớn hở và tình yêu hướng tới tha nhân.

Khi chúng ta đọc “Lời nguyện các tín hữu” với những lời cầu xin mang tính vị tha hướng tới tha nhân, và vì lợi ích cho những người đang trong hoàn cảnh khó khăn nhất của mình, hợp cùng với lời mời gọi của vị chủ tế: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Nó có khác gì một bài ca đức ái mà khi xưa trong bữa tiệc ly Đức Giêsu đã nhắn nhủ với các môn đệ rằng: “Anh em hãy yêu thương nhau, như chính Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34).

Cử chỉ thừa tác viên trao Mình-Thánh-Chúa cho chúng ta nói lên một điều rằng: chúng ta cũng phải “trao” Chúa đến cho anh em.

Nói cách khác, chúng ta cũng phải: “trao cho nhau yêu thương tình loài người”. Chúng ta cũng phải “trao cho nhau tin yêu đừng gian dối”.
*****
Bây giờ chúng ta hãy bớt chút thời giờ, trở lại câu chuyện “Đức Maria viếng thăm bà Êlisabeth”.
Vâng, với thực tế của cuộc sống hôm nay, vẫn còn đâu đó những “bà Elisabeth-thời-đại”. Những bà Elisabeth-già-nua không nơi nương tựa. Những bà Elisabeth lang thang ngoài đường phố.

Vẫn còn đâu đó những Elisabeth vừa mới chào đời nhưng không một lần được nhìn thấy mẹ thấy cha. Những Elisabeth đang “ẩn-mình-chờ-chết” trên giường bệnh vì không có tiền thuốc thang. Những Elisabeth bị bán làm nô lệ tình dục không thương tiếc…

Vâng, những bà Elisabeth đó đang ngóng chờ một sự viếng thăm. Và ai sẽ là Đức Maria? Ai sẽ là người “đon đả lên đường”? Ai sẽ là người đem “Tinh Thần Giáng Sinh” đến cho những bà Elisabeth đó, nếu không phải là chính chúng ta?

Phải… phải là chính chúng ta. Nếu không, Tinh Thần Giáng Sinh sẽ “nằm lì” nơi hang Belem, sẽ bị treo lơ lửng trên Thập Giá nơi  bàn thờ và sẽ chìm dần vào quên lãng.

Cuối cùng, nếu không phải là chính chúng ta đem tinh thần Giáng Sinh đến cho mọi người, thì lời ngợi khen Thiên Chúa, trong ngày Chúa Giê-su Giáng Sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”, chỉ là một giấc mơ thôi.

Charles Dickens, văn hào người Anh trong thế kỷ 19, ông ta đã dựng lên nhân vật giả tưởng Scrooge. Quan sát bầu khí lễ hội Giáng Sinh, nhân vật này buột miệng nói: “Thôi nào, lại một trò bịp bợm”(nguồn: internet).
Thưa quý ông bà và anh chị em, làm sao để thế giới hôm nay khi nhìn vào Lễ Giáng Sinh, họ sẽ không lập lại lời của nhân vật Scrooge? Phải chăng là hãy noi gương Đức Maria và xem đó như một điển hình cho chúng ta về Tinh Thần Giáng Sinh đích thực? 

Thưa, đúng vậy. ĐỨC MARIA như một điển hình cho chúng ta.

Petrus.tran




Thứ Ba, 18 tháng 12, 2018

Hãy gióng lên hồi chuông ân sủng…


Chúa Nhật III – MV – C

Hãy gióng lên hồi chuông ân sủng…

Một ngày nọ, Đức Giê-su nói với mọi người rằng: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả.” (x.Mt 11, 11)

Ông Gio-an Tẩy Giả là ai? Thưa, “Ông là một nhà giảng thuyết người Do Thái. Tin Mừng thánh Luca cho biết, ông là con của tư tế Da-ca-ri-a thuộc nhóm A-vi-a, dòng A-ha-ron và chào đời tại Giu-đê Do Thái trước Đức Giê-su khoảng sáu tháng.  Ông Gio-an đã xuất hiện công khai tại Galilea và tại Giu-đê để rao giảng và mời gọi người ta thống hối. Bên cạnh việc rao giảng sám hối, ngài còn cử hành nghi thức Thanh Tẩy cho tất cả những ai đến với ngài, bằng cách dìm họ xuống nước. Vì thế, ngài được gọi là Gio-an Tẩy Giả. Ngài hoạt động trong cả vùng Do-thái lẫn Palestina, và cũng đã có nhiều người nhận mình là môn sinh của ngài. Lịch sử tính của ngài đã được xác nhận bởi sử gia người Do-thái Flavius Josephus.”(nguồn: internet)
Nói tới ông Gio-an Tẩy Giả, Giáo Hội cũng đã trân trọng dành riêng cho ngài hai ngày lễ đặc biệt. Thứ nhất, đó là ngày lễ sinh nhật 24/6 và thứ hai là ngày 29/8, ngày kỷ niệm ngài bị trảm quyết, hằng năm.
Sự trân trọng ông Gio-an Tẩy Giả không chỉ dừng ở những ngày lễ đó nhưng ngài còn được xem như là “tiếng chuông cảnh tỉnh” cho mọi người Ki-tô hữu, một cách đặc biệt vào Mùa Vọng (cũng như Mùa Chay).

Mà thật vậy, với Chúa Nhật II – Mùa Vọng, tiếng chuông thứ nhất đã được ông Gio-an Tẩy Giả đánh vang lên, đó là: tiếng chuông thống thiết kêu gọi mọi người “hãy tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”.

Và, tiếng chuông thứ hai, (của Chúa Nhật III – MV hôm nay), nếu được phép, nên chăng, gọi đó là tiếng “chuông gọi hồn ai”, một tiếng chuông đánh động tâm hồn những ai đang còn vất vưởng đâu đó nơi những đam mê của trần thế, rằng hãy coi chừng trước “cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống”, rằng hãy “sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối”, và rằng: “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”.

**Vâng, tiếng chuông cảnh báo đó đã vang lên, vang lên cách đây hơn hai ngàn năm trước. Tiếng chuông đó có một sức mạnh truyền cảm, truyền cảm đến tâm hồn từng người, từng người một. Và, hồi ấy,  nhiều người đã lũ lượt kéo đến xin ông Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa.

Họ, quả là đã thật sự sám hối, một sự sám hối chân thành, chân thành cất lên những lời tha thiết xin được “đền tội”, mọi người có thể tin như thế. Tin như thế là bởi họ đã cất tiếng hỏi ông Gio-an rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?”

Hôm ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đã trả lời họ rằng: Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”.

Thật ngạc nhiên khi có “những người thu thuế đến chịu phép rửa”. Và, tâm hồn họ cũng đã rung động. Sự rung động đó thôi thúc họ hỏi ông Gio-an: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?”. Rất thẳng thắn và quyết liệt, ông nói với những người thu thuế rằng: “Đừng đòi hỏi gì quá mức ấn định cho các anh”.

Một số người thuộc thành phần binh lính, hỏi: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Hôm đó, ông Gio-an bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình”. 

Và, thật đúng như lời cha ông đã tiên tri về ông, rằng: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người”. Hôm ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đã tuyên bố với mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”.

Cuối cùng ông Gio-an Tẩy Giả: “còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ”.

*** Như đã nói ở trên, hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào tuần thứ III – Mùa Vọng. Và, như vậy chỉ còn hơn tuần lễ, ngày đại lễ kỷ niệm Chúa Giê-su Giáng Sinh sẽ đến.

Chúng ta đã chuẩn bị được những gì? Phải chăng là đã hoàn tất việc trang trí một khung cảnh đầy sinh động về biến cố Đức Giê-su được sinh ra tại Belem?  Được như thế, quả là một điều tốt, vì đó là một truyền thống lâu đời của người Công Giáo, không thể bỏ qua.


Chúng ta còn làm gì nữa? Phải chăng là đi mua sắm, mua sắm ở những nơi bán hàng giảm giá, nhân ngày lễ Noel? Vâng, đây cũng là một việc khó có thể bỏ qua. Không bỏ qua vì đây là dịp chúng ta mua được hàng giá rẻ, tiết kiệm cho ngân sách gia đình.

Chúng ta sẽ chuẩn bị thêm gì nữa? Phải chăng là sẽ chuẩn bị một bữa tiệc thịnh soạn cho đêm Giáng Sinh? Cũng tốt thôi, tốt là bởi, đó là cơ hội để gia đình họp mặt, bàn bè thân hữu gặp nhau trong niềm vui “Emmanuen-Thiên Chúa ở cùng”.

Tuy nhiên, nếu chỉ “chuẩn bị” như thế, nếu chỉ “sẽ làm” những việc như thế, thì cũng chỉ là một sự chuẩn bị, và những việc mà ta sẽ làm, giống như người đời, mà thôi.

Là một  Ki-tô hữu,  chúng ta   “còn” cần chuẩn bị, và những việc sẽ phải làm, đó là hãy thực thi những lời truyền dạy (nêu trên) của ông Gio-an Tẩy Giả.
Nói rõ hơn, những gì ông Gio-an Tẩy Giả đã truyền dạy cho dân chúng, cho người thu thuế, cho binh lính, khi xưa, cũng là những lời truyền dạy cho chúng ta, hôm nay.  

Nguyễn Bá Học có nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.”

Nhắc đến câu nói này để làm gì? Thưa, để nói về chúng ta, hôm nay. Nói rằng, có quá khó để thực thi những lời truyền dạy của ông Gio-an?

Nếu quá khó thì ta hãy tự hỏi tại sao? Phải chăng, khó là bởi chúng ta không đủ dũng cảm vượt qua “ngọn núi ích kỷ”? Phải chăng, khó là bởi chúng ta không đủ dũng khí bơi qua  “con sông hà tiện”? Phải chăng chúng ta là đệ tử ruột của chủ thuyết “mac-ke-no” (mặc kệ nó)?

**** Bây giờ, chúng ta hãy trở lại lời truyền dạy. Hôm ấy, ông Gio-an truyền dạy, rằng: “Ai có hai áo…” Thưa quý bạn,  quý bạn nữ thân mến, đừng nói là quý bạn chỉ có “hai áo”, giá chót cũng là hai chục cái áo. Vậy thì, lời ông Gio-an Tẩy Giả truyền dạy “thì chia cho người không có”, có gì khó thực hiện!

Thưa quý bạn, quý bạn nam thân mến, đừng nói là quý bạn chỉ có “hai chục ngàn”, bước vào quán nhậu bình dân thôi, giá chót quý bạn cũng có “hai xị”, đúng không? Vậy thì, lời ông Gio-an Tẩy Giả truyền dạy “chia cho người không có”, có gì khó thực hiện!

Kinh Thánh có lời khuyên rằng: “Đừng xòe tay ra nhận, rồi nắm lại khi phải cho đi” (Hc 4, 31). Cuộc đời của mỗi chúng ta, có ai mà không hơn một lần "xòe tay ra nhận"!

Thế  nên, thật phải đạo khi hôm nay chúng ta hãy trở lại dòng sông Gio-dan năm xưa, trở lại không phải để “cưỡi ngựa xem hoa” nhưng là để nghe lại tiếng chuông cảnh tỉnh của ông Gio-an Tẩy Giả, một tiếng chuông thúc giục chúng ta phải cất tiếng tự hỏi mình rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” 

Thế nên, thật phải đạo khi hôm nay chúng ta cần trở về dòng sông Giodan năm xưa, trở về nơi chốn đó, không phải để ngồi nhìn “thuyền ai lờ lững trôi suôi dòng”, nhưng là để nhìn lại “con thuyền cuộc đời” của ta và tự hỏi mình, rằng: “Con thuyền cuộc đời của ta, với mùa NOEL năm nay, đang chất chứa những gì? Chúng ta có đang chất chứa sự vô cảm? Chúng ta có đang chất chứa sự thờ ơ, lãnh đạm?
Hay, con thuyền cuộc đời của chúng ta đang chuyên chở một tâm hồn độ lượng, một tình thương bao dung, một tấm lòng nhân ái của “người Samari nhân hậu”?

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, hãy nhớ rằng, “Mùa Vọng”, không chỉ là “Mùa sao sáng đêm Noel Chúa sinh ra đời”, nhưng còn là mùa nhắc nhở chúng ta rằng “Chúa sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”.

Mà… Chúa sẽ phán xét điều gì? Thưa, đó là, Ngài sẽ hỏi: “Xưa Ta đói, các ngươi có cho Ta ăn. Ta khát, các ngươi có cho Ta uống. Ta là khách lạ, các người có tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi có cho mặc. Ta đau yếu, các người có viếng thăm. Ta ngồi tù, các ngươi có hỏi han”?

Vì thế, không gì tốt hơn là hãy “chất lên” con thuyền cuộc đời của mình lời khuyên của thánh Phao-lô, khuyên rằng, hãy sống “Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi…” (x.Pl 4, 5)
Sự “hiền hòa và rộng rãĩ”, đó… đó chính là chất xúc tác  rất thích hợp cho việc sản sinh những loại hoa trái: “bác ái, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, tiết độ”.

Những loại hoa trái này, thánh Phao-lô gọi là “hoa trái của Thần Khí”.

Và một khi trên con thuyền cuộc đời của chúng ta, nếu được chất đầy những thứ hoa trái này... thì chúng ta hãy vui lên, vui là bởi, chúng ta đã “sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối”.

Nói cách khác, “sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối”, đó chính là chúng ta đã  nối tiếp ông Gio-an Tẩy Giả gióng lên hồi chuông, một hồi chuông ngân vang âm điệu từ trời cao: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.

Hồi chuông này không phải  là hồi chuông “chuông gọi hồn ai”, nhưng là hồi chuông “hồi chuông ân sủng”. 

Vâng, không ai khác ngoài chúng ta. Chính chúng ta phải là người “gióng lên hồi chuông ân sủng”.

Petrus.tran












Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...