Thứ Sáu, 30 tháng 7, 2021

Bánh trường sinh là Mình Thánh Chúa.

 

Bánh trường sinh là Mình Thánh Chúa

“Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”.



Chúa Nhật XVIII – TN – B


Bánh trường sinh là Mình Thánh Chúa

Ăn (hay uống), đó là điều không thể thiếu cho sự sống của con người. Khi nói đến ăn, có người quan niệm: ăn để sống. Tuy nhiên, có người lại cho rằng: sống để ăn. Làm được nhiều tiền để làm gì? Đi cày cật lực để làm chi? Để hưởng thụ, để ăn… ăn để sướng, chứ gì nữa!

Chính vì quan niệm “sống để ăn – ăn để sướng”, cho nên những người thuộc trường phái này xem miếng ăn là quan trọng. Vì cho là quan trọng, nên chẳng may “mất ăn một miếng”, ngay lập tức họ sẽ “lộn gan lên đầu”.

Với những người thuộc trường phái “ăn để sống”, họ xem “miếng ăn là miếng tồi tàn”. Chính vì cái sự tồi tàn đó, nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã phớt lờ cao lương mỹ vị. Đối với ông: “Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch”, thế là đủ. Và ông quan niệm rằng: “Người quân tử ăn chẳng cầu no”.

Ăn chẳng cầu no hay ăn để sướng và ngay cả ăn để sống, xét cho cùng cũng chỉ là những quan niệm tương đối dưới cái nhìn của thế gian.

Ăn chẳng cầu no, với ba bữa chỉ là rau ư! Suy dinh dưỡng… bịnh rồi chết. Ăn để sướng ư! Vâng, cứ “tự sướng” đi… tự sướng như nguyên tổ Adam và Eva “thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn”, hái ăn… rồi cũng chết. Ăn để sống ư! Tốt đấy, để sống nhưng sẽ “sống” như thế nào, đây!

Dưới ánh sáng đức tin, đức tin Công Giáo, chúng ta được Đức Giê-su truyền dạy rằng: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây. Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó”.

Trong một lần bị Satan cám dỗ về miếng ăn, Ngài đã tuyên bố rằng: “Người ta sống không chỉ bởi cơm bánh, nhưng còn nhờ vào lời miệng Thiên Chúa phán ra”.

Rồi, một lần nọ, tại Ca-phác-na-um, khi đối diện với nhóm đông dân chúng tìm đến, họ tìm đến với mong muốn một lần nữa được cho ăn uống no nê, Đức Giê-su đã có một cuộc chuyện trò thẳng thắn với họ, Ngài nói rằng: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.

**
Cuộc trò chuyện đó đã được ghi chi tiết như sau: Hôm đó, sau biến cố hóa bánh ra nhiều cho năm ngàn người ăn, Đức Giê-su “lánh mặt, đi lên núi một mình, (vì) Ngài biết dân chúng “sắp đến bắt mình đem đi mà tôn lên làm vua” (Ga 6, 15).

Về phần các môn đệ, các ông “xuống bờ Biển Hồ, rồi xuống thuyền đi về phía Ca-pha-na-um bên kia Biển Hồ”. Hôm ấy, Đức Giê-su không đi cùng với các môn đệ. Cho đến khi thuyền đi được chừng năm sáu cây số, thật ngạc nhiên, các ông thấy “Đức Giê-su đi trên mặt biển và đang tới gần thuyền”.

Vâng, thánh sử Gio-an kể rằng: “Các ông hoảng sợ”. Đúng, các ông sợ, vì hôm đó “Biển động và gió thổi mạnh”, thế mà Thầy lại “đi trên mặt biển”… Ôi! đáng sợ làm sao!

Nhìn thấy sự sợ hãi trên khuôn mặt các môn đệ của mình, Đức Giê-su lên tiếng nói: “Thầy đây mà, đừng sợ”. Nhận ra đúng là Thầy Giê-su, các môn đệ “muốn rước Người lên thuyền”, thế nhưng, “ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến” (x.Ga 6, 21).

Nơi các ông định đến đó là Ca-pha-na-um. Đến Ca-pha-na-um cứ tưởng là Thầy và trò được nghỉ ngơi đôi chút. Nhưng không, ở bên bờ bên kia, “khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có ở đó”, ngay lập tức “họ xuống thuyền đi Ca-pha-na-um tìm Người”.

Kinh Thánh có chép rằng: “Các ngươi tìm ta, và gặp được, khi các ngươi tìm ta hết lòng” (Gr 29, 13). Và quả thật, hôm đó, tấm lòng của họ đã được đáp ứng. Ở bên kia Biển Hồ, họ gặp Đức Giê-su. Gặp Người, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?”

Vâng, chỉ là một câu hỏi xã giao, bình thường! Ấy thế mà, Đức Giê-su đã trách họ. Trách họ, bởi Đức Giê-su đã nhìn thấu suốt tấm lòng họ, một tấm lòng thực dụng, thực dụng bởi một lần nữa sẽ được ăn no nê.

Thì đây, theo lời tường thuật của thánh sử Gio-an, chúng ta được biết: “…có những thuyền khác từ Ti-be-ri-a đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn”. Tới nơi, không thấy “nhà từ thiện” Giê-su, họ mới dong thuyền đến Caphanaun, đấy chứ!

Hôm ấy, Đức Giê-su đã trách họ rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”.

Trước đám đông còn đang tẽn tò về hành vi của mình, Đức Giê-su tiếp lời truyền dạy: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (x Ga 6, 27).

Nếu… nếu là chúng ta hôm nay, có lẽ không một ai sẽ phản đối lời nói của Đức Giê-su. Nhưng, với các người Do Thái xưa, thật khó để mà họ “tin”. Làm sao họ có thể tin Ngài chính là “Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”, trong khi rõ ràng họ thấy Đức Giê-su chỉ là “con ông Giu-se”!

Chính vì thế, họ đưa ra một câu hỏi bâng quơ: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Làm gì ư! Vâng, hôm ấy, Đức Giê-su nói: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người sai đến”.

Đáng tiếc thay! Cuộc gặp gỡ giữa họ với Đức Giêsu, hôm đó, đã không có tiếng nói chung. Họ đòi Ngài “làm dấu lạ” cho họ thấy để họ tin.

Có lẽ, điều họ mong đợi, đó là, phải chi Đức Giê-su là Mô-sê tái thế, để họ lại được ăn một thứ “manna mới”, một loại bánh, như họ nói “Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời”.

Đó là một sự mong đợi thấm đậm tinh thần thế gian. Sứ điệp Đức Giê-su muốn gửi đến họ, cũng như cho chúng ta hôm nay, đó là sự nhận biết về một loại bánh ‘bánh bởi trời, bánh đích thực” - “bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”.

Hôm đó, tại Caphacnaum, Đức Giêsu dõng dạc tuyên bố trước cử tọa rằng: “Chính tôi là bánh trường sinh” (Ga 6, 35).

***
Thật ra, Đức Giêsu không phải là không quan tâm đến nhu cầu “thuộc thể” của con người. Không phải một lần, mà là đến những hai lần, Ngài đã hóa bánh ra nhiều cho mọi người ăn. Lần thứ hai đã được ghi trong Tin Mừng Mác-cô (x.Mc 8, 1-10).

Nếu Đức Giê-su đến thế gian chỉ để làm những việc chữa bệnh, hóa bánh ra nhiều v.v… thì hôm nay, có nhớ đến Ngài, cùng lắm, người ta cũng chỉ nhớ đến Ngài như một danh y hoặc một nhà từ thiện nào đó.

Vai trò và sứ vụ của Đức Giêsu đến thế gian, là “để ai tin… thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Vâng, chính Ngài đã tuyên phán rằng: “Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”.

Đói và khát ở đây, Đức Giê-su muốn nói đến đói khát “lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”, là thứ lương thực Ngài ban cho. Vâng, thật quá rõ khi chúng ta cùng nghe lại lời Ngài nói với dân Do Thái năm xưa, nói rằng: “Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”.

Nói gì thì nói, là một tín hữu Công Giáo, cuộc sống của chúng ta phải được nuôi dưỡng bởi thứ “lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.

Thế nên, đừng quá lệ thuộc và quan trọng hóa những loại lương thực chỉ có thể nuôi thân xác, có ăn nhiều bao nhiêu, có ăn ngon bao nhiêu, rồi cũng chết.

Là một tín hữu Công Giáo, hãy nghĩ đến lương thực thường tồn, hãy tìm cách sở hữu lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, bởi đó chính là bánh Đức Giê-su ban cho và được Ngài gọi là “Bánh Trường Sinh”.

Chỉ cần… chỉ cần một động tác, động tác bước lên thuyền, con thuyền mang tên “Hội Thánh Công Giáo”. Trên con thuyền này, Đức Giê-su, qua các vị linh mục, Ngài tiếp tục “dâng lời chúc tụng, bẻ ra” và trao cho chúng ta.

Đức Giê-su, qua bàn tay các vị linh mục, Ngài nói: “Mình Thánh Chúa Ki-tô”. Vâng, Bánh trường sinh chính là Mình Thánh Chúa.

Petrus.tran

Thứ Sáu, 23 tháng 7, 2021

Hãy là cánh tay nối dài của Chúa.

 

Hãy là cánh tay nối dài của Chúa

Hôm ấy, năm ngàn người đàn ông đã chứng kiến Đức Giê-su: “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá… Người cũng phân phát như vậy…”



Chúa Nhật XVII – TN – B


Hãy là cánh tay nối dài của Chúa.

Cuộc sống của một đời người, là một chuỗi dài của những vui buồn lẫn lộn. Có những niềm vui, “vui mừng vui quá vui”. Lại có niềm vui, vui đến độ “nước mắt lại trào”. Tại sao vui mà nước-mắt-lại-trào? Thưa là bởi, niềm vui đó, lại đem đến “triệu nỗi buồn”. (Triệu nỗi buồn, vì lý do tế nhị, xin phép không giải thích tại đây).

Rồi, nói về nỗi buồn ư! Có… có những nỗi buồn, “buồn vạn cổ”. Lại có nỗi buồn, theo kiểu buồn của Xuân Diệu, rằng: “Hôm nay trời nhẹ lên cao. Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”.

Vâng, có những nỗi buồn, mà người ta không hiểu vì sao lại buồn… Mấy hôm vừa qua, có không ít người buồn… Buồn, không hiểu vì sao, có người lại nói: “bánh mì không phải là lương thực thiết yếu!”. Và sáng nay, khi “trời nhẹ lên cao”, có nhiều người buồn… buồn-không-hiểu-vì-sao… vì sao hôm nay số người (ở Việt Nam) nhiễm corona virus đã vượt hơn 80.000 người!

Tám mươi ngàn người, khiến tôi nhớ đến trận dịch năm xưa, trận dịch năm xưa đã xảy ra tại quốc gia Israel, thời vua David trị vì.

“Có bảy mươi ngàn người trong dân đã chết”, Kinh Thánh Cựu Ước ghi lại như thế. (2Sm 24, …15). Cái chết của bảy mươi ngàn người là một nỗi buồn. Rất nhiều người buồn, trong đó có vua David. Ông ta biết, ông ta “biết vì sao tôi buồn!”. Vâng, ông biết, biết ông chính là thủ phạm của nỗi buồn đó. Ông đã ray rứt thú nhận với “thiên sứ” rằng: “Ngài coi, chính con đã phạm tội, chính con có lỗi” (2Sm 24, 17). (Ước chi hôm nay, cũng có người “can đảm” như vua David, nhận lỗi mình đã gây ra đại dịch Covid 19, nhỉ!).

Vì vua David đã biết, “biết vì sao tôi buồn”, nên ông ta đã “xây một bàn thờ để kính ĐỨC CHÚA và dâng những lễ toàn thiêu và dâng những lễ kỳ an. ĐỨC CHÚA đã thương đến xứ sở, và tai ương đã chấm dứt không làm hại Israel nữa.” (2Sm 24, 25). Nỗi buồn của Israel không còn bế tắc.

Xưa, Chúa đã thương đến xứ sở Israel. Nay, Chúa cũng sẽ thương đến xứ sở Việt Nam. Và, đó là lý do để nỗi buồn hơn tám mươi ngàn người Việt Nam nhiễm Covid 19, hôm nay, không rơi vào bế tắc.

Sẽ không bế tắc, nếu chúng ta tin vào lời Đức Ki-tô Giê-su đã phán hứa, khi xưa. Xưa, Ngài phán rằng: “Hỡi những ai mệt mỏi (vì nhiễm Covid 19) và gánh nặng (vì phong tỏa, cách ly) hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28).
 
Trong ba năm ra đi rao giảng Tin Mừng, đã có lần, khi nhìn thấy đoàn dân đông đúc kéo đến, Đức Giê-su không khỏi “chạnh lòng thương xót”, Ngài đã thốt lên với các môn đệ rằng: “họ như bầy chiên không người chăn dắt” Và, Ngài đã khẳng định: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”.

Rồi Ngài đã hành động, hành động như một người “Mục Tử nhân lành”, một người Mục Tử “quyền năng và giàu lòng thương xót”. Đã có nhiều người “tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người”. Người đàn bà bị bịnh băng huyết, như điển hình.

Đã có rất nhiều người tìm đến với Ngài, và Ngài đã thể hiện lòng thương xót của mình. Câu chuyện “Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều” như một minh chứng.

**
Câu chuyện được kể rằng: Một ngày nọ, khi nghe tin Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cả một rừng người trùng trùng điệp điệp đi theo Người. Họ đi theo “bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm” (Ga 6, 2).

Lúc đó “Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ”. Rồi bất ngờ: “Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình”.

Không thấy thánh sử Gio-an diễn tả, nhưng chúng ta có thể tưởng tượng rằng, ngọn núi như bị rung chuyển bởi làn sóng người tuôn đến. Có lẽ mười hai người môn đệ không thể không cảm thấy, “thấy run run trong chiều phai…” Có lẽ, có lẽ… một ai đó trong các ông đã phải cất lên hai tiếng “than ôi!”.

Vâng, làm sao không thấy-run-run-trong-chiều-phai cho được khi Đức Giê-su “gợi ý” với ông Phi-lip-phê rằng: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Với Đức Giê-su “bánh” là thực phẩm thiết yếu nha!).

Mua bánh ư! Chúa ơi! chúng ta đang “cách ly” trên núi mà! Trên núi có ai bán bánh đâu! Vả lại, vâng, ông Phi-lip-phê nhăn nhó trả lời: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”.

Hai trăm quan! Xứ sở Do Thái cũng dùng đơn vị tiền tệ là “quan” sao? Ở Việt Nam “Một quan là sáu trăm đồng. Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi”, đó là theo giá trị của tiền tệ xưa, rất lớn. Có phần chắc, hai trăm quan thời Do Thái xưa, cũng không phải là nhỏ.

Sau khi ông Phi-lip-phê nói như thế. Không thấy thánh sử Gioan cho biết phản ứng của các người môn đệ khác như thế nào, nhưng chúng ta có thể tưởng tượng rằng, có lẽ trong số các môn đệ, có người sẽ lẩm bẩm rằng: Thầy sao vậy! Thầy từng chỉ thị cho chúng con “lên đường” không được mang gì, không mang bao bị, lương thực, tiền bạc, v.v… nay lại bảo “mua bánh” tiền đâu chúng con mua! Và có lẽ cũng có người rất mong đợi một lệnh truyền mới của Thầy Giêsu, rằng Ngài sẽ truyền cho họ “hãy xuống thuyền đi nơi khác”. (Với tôi, đọc Kinh Thánh mà không có sự tưởng tượng mất… mất vui).

Thế nhưng, hôm ấy, Thầy Giêsu đã không nghĩ như thế. Bởi vì đó là “tư tưởng của loài người”. Tư tưởng của Thiên Chúa là lòng thương xót, là “Agape”, là tình yêu thương vô điều kiện.

Hôm đó, với một tâm tình yêu thương, một tâm tình “Ta xót thương đoàn dân này”, Đức Giêsu truyền các môn đệ rằng: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” (Ga 6, 10).

***
“Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Vâng, đối với các môn đệ, quả thật, đây là một lệnh, “lệnh… lạc”. Lạc là bởi, trước đó ông An-rê đã thông báo cho Đức Giê-su biết, rằng “ở đây… có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6, 9).

Thấm vào đâu! “Xin Thầy cho dân chúng về (đi)!” Vâng, đó là ý kiến của các môn đệ, đã được ba thánh sử Mát-thêu, Mác-cô và Luca ghi lại.

Thế nhưng, Thầy Giê-su đã không giải tán dân chúng, dù lúc đó chỉ có… “có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Thầy Giê-su đã không giải tán dân chúng, vì các môn đệ không biết: “Người nói như thế là để thử…”

Thử gì? Thánh sử Gio-an không cho biết. Tuy nhiên, chúng ta có thể nghĩ rằng, Đức Giê-su thử đức tin và đức cậy của các môn đệ, xem các ông tin – cậy, tới mức độ nào.

Đã một lần, trong một bữa tiệc cưới tại Cana, Đức Giê-su đã làm một dấu lạ, dấu lạ “nước hóa thành rượu”, một trăm hai mươi lít nước lã, thành một trăm hai mươi lít rượu, lại là rượu ngon. Và hôm ấy, “các môn đệ đã tin vào Người”.

Vậy, hôm nay, cớ gì lại không tin, nhỉ! Cớ gì hôm nay không bảo “người ta ngồi xuống” nhỉ! Vâng, đám đông dân chúng đã “ngồi xuống” – một cử chỉ của lòng tin – tin và ngồi xuống. Thánh sử Gioan cho biết: “Nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn”.

Hôm ấy, năm ngàn người đàn ông đã chứng kiến Đức Giê-su: “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá… Người cũng phân phát như vậy…”

Năm ngàn người đàn ông “ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý”. Họ đã ăn “no nê”. Chưa hết, họ còn thấy các môn đệ “đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại và chất đầy mười hai thúng”.

Đó là một “dấu lạ”, một dấu lạ dẫn đến một niềm tin. Họ đã tin Đức Giê-su là “Đấng phải đến thế gian”.

****
Đức Giê-su đã đến thế gian. Ngài đã đến từng mỗi con người chúng ta. Ngài tiếp tục truyền chúng ta: “bảo người ta ngồi xuống đi”.

Ai là người chúng ta “bảo ngồi xuống?” Thưa, đó là những người “ngồi quanh ta trán in vết nhăn”.

Còn rất nhiều người nhăn vì đói. Đói cơm, đói gạo và đói bánh “Bánh Hằng Sống”. Còn rất nhiều người nhăn vì khát. Họ khát… khao khát được uống một thứ nước, nước “công bằng và bác ái”. Khao khát được uống một thứ nước – nước “Máu Thánh Chúa Ki-tô”.

Ai sẽ làm cho họ hết đói? Ai sẽ làm cho họ hết khát? Thưa, có phần chắc Đức Giê-su sẽ nói: “Chính anh em!”.

Thật vậy, chính chúng ta, chúng ta phải là những nhà sản xuất, sản xuất ra những loại thức ăn, thức uống: “bác ái, nhân hậu, từ tâm, hiền hòa, trung tín, tiết độ”, là những thức ăn, thức uống đủ để thỏa mãn những cơn đói khát, nêu trên… Và, đó là cách chúng ta tiếp tục làm “dấu lạ” như Đức Giê-su đã làm.

Trở lại dấu lạ “Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều”. Dấu lạ này nói đến việc Đức Giê-su cho mọi người ăn no nê. Và để tiếp nối sứ vụ của Ngài, chúng ta hãy là cánh tay nối dài của Đức Giê-su. Cánh tay nối dài không chỉ mang những thức ăn nuôi dưỡng “thuộc thể”, nhưng còn mang thức ăn “thuộc linh”, đó là: “Đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp. Đem chân lý vào chốn lỗi lầm”.

Vâng, hãy là cánh ta nối dài của Chúa: “Đem tin kính vào nơi nghi nan. Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng… Đem niềm vui đến chốn u sầu”.

Thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, của hôm nay, có thể nói rằng: “nghi nan, thất vọng, u sầu” hiện diện khắp nơi. Hiện diện trong gia đình. Hiện diện ngoài xã hội. Hiện diện nơi học đường. Hiện diện trong giáo đường. Thế nên, thật phải đạo, thật hợp lẽ, lẽ rằng: chúng ta “hãy là cánh tay nối dài của Chúa”.

Petrus.tran


Thứ Sáu, 16 tháng 7, 2021

Chỉ là những tháng ngày lánh riêng.

 

Chỉ là những tháng ngày lánh riêng

“Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng và nghỉ ngơi đôi chút.”



Chúa Nhật XVI – TN – B


Chỉ là những tháng ngày lánh riêng.

Trong gần hai tháng vừa qua, Việt Nam đang phải gồng mình trước thảm cảnh dịch bệnh Corona Virus mỗi ngày một bùng phát mạnh. Nhiều tỉnh thành đã bị lây nhiễm. Nhiều quận huyện đã trở thành ổ dịch. Và đó là lý do chính phủ đã phải ban hành nhiều chỉ thị để giãn cách xã hội.

Nhiều cá nhân đã phải cách ly tập trung. Nhiều phường xã đã bị phong tỏa. Tất nhiên, đó là biệt pháp tốt, tốt cho việc khống chế dịch bệnh. Tuy nhiên, nó cũng đem lại đôi chút sự u buồn.

Buồn vì phải hạn chế đi lại. Buồn vì mất một số thói quen hằng ngày, như uống cà phê ngoài quán, đi shopping, đi làm nail, đi thẩm mỹ và nhất là “đi nhà thờ”, v.v… Có thể nói, nỗi buồn này dẫn đến nhiều nỗi buồn khác. Nếu kể ra đây, chắc hẳn phải tốn đến vài trang giấy.

Nếu… nếu có kể, đó là nên kể đôi chút cái “kết quả” mà nỗi buồn đem tới. Vâng, kết quả là đã có người bị trầm cảm, đã có người bị tâm thần và đã có người tự vẫn.

Là một Ki-tô hữu, làm thế nào để chúng ta không bị trầm cảm, không bị tâm thần hay tệ đến nỗi nghĩ đến tự vẫn, khi phải đối diện với những nỗi buồn do bị cách ly hoặc bị giãn cách?

Thưa, không gì tốt hơn là hãy nhìn Đức Giê-su như là mẫu mực cho chúng ta noi theo. Thật vậy, trong ba năm ra đi rao giảng Tin Mừng, dù phải đối diện với rất nhiều áp lực từ chính quyền La-mã, cũng như giáo quyền Do Thái. Dù phải đối diện trước những phút giây của phản bội, của bắt bớ, của chết chóc… Đức Giêsu vẫn vượt qua được những áp lực đó.

Vượt qua được, chính là nhờ Ngài đã có những phút giây tĩnh lặng của tâm hồn, trong một nơi thanh vắng và luôn nguyện cầu. Kinh nghiệm này đã được Đức Giê-su truyền dạy cho các môn đệ.

**
Thật vậy, theo Tin Mừng Mác-cô ghi lại thì, một ngày nọ, sau những ngày nhận “bài sai” ra đi khắp thôn làng rao giảng Tin Mừng, mười hai người môn đệ trở về “tụ họp chung quanh Đức Giêsu”. Các ông thay nhau “kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy”.

Sau khi nghe lời tường trình của các môn đệ, Đức Giê-su nói gì nhỉ! Thưa, Ngài khuyên các ông rằng, “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng và nghỉ ngơi đôi chút.”

Đến nơi thanh vắng và nghỉ ngơi ư! Tại sao lại là thế! Thưa, vì “kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa”.

Hơn nữa, khuyên các môn đệ vào nơi thanh vắng, là bởi, theo quan niệm Do Thái giáo, đó là nơi, “gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa” và “Thiên Chúa tỏ ra gần gũi với dân Người”. Mà, các môn đệ, trong vai trò là một “nhà truyền giáo”, có lý nào lại không truyền dạy các ông vào nơi thanh vắng để “gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa”!

Thế nên, hôm đó Đức Giê-su đã cùng với các môn đệ “xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng”. Vâng, tất cả diễn biến (nêu trên) được ghi lại trong Tin Mừng Mác-cô. (Mc 6, 30-34).

***
Lm. Charles E.Miller, sau khi đọc trích đoạn bài Tin Mừng này, ngài có lời chia sẻ, rằng: “Hầu như ai cũng công nhận là cần thiết phải có một sự cân bằng trong cuộc sống. Một kẻ hướng ngoại, vốn thích ra trước đám đông, đôi lúc cũng mong được một mình trong tĩnh lặng. Còn người sống nội tâm tuy chuộng những giờ phút đơn độc, thỉnh thoảng cũng phấn khích được hòa mình trong đám đông cuồng nhiệt”.

Và rồi, ngài Charles kết luận: “Chúa Giê-su cho ta một điển hình về sự cân bằng cần thiết cho cuộc sống thiêng liêng của chúng ta. Người có thói quen đến hội đường mỗi ngày sa-bát để tham gia vào việc phụng tự cộng đồng… Chúa Giê-su cũng hay đi ra một mình để cầu nguyện thâu đêm với Chúa Cha”.

Lời chia sẻ của ngài Charles phản ảnh đúng như những gì thánh sử Mác-cô ghi lại. Hôm ấy, Đức Giê-su đã “cân bằng cuộc sống thiêng liêng” không chỉ cho Ngài nhưng còn cho cả các môn đệ của mình.

Sự cân bằng đó được minh chứng khi Thầy và trò “ra khỏi thuyền”, và “thấy một đám người rất đông”… Vâng, đám người này khi “thấy Ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài.”

Hôm ấy, khi nhìn thấy họ, Đức Giê-su “chạnh lòng thương”, một cử chỉ chứng minh “Thiên Chúa tỏ ra gần gũi với dân Người”. Và cuối cùng, Đức Giê-su đã dạy các môn đệ biết “tận dụng mọi cơ hội”, dù đó là cơ hội nghỉ ngơi, để “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (Is 50, 4).

Thì đây, thánh sử Mác-cô cho biết, Đức Giê-su đã “dạy dỗ họ nhiều điều”. Vâng, tuy ngài Mác-cô không nói rõ Đức Giê-su đã dạy gì, nhưng chúng ta có thể tin, Ngài đã dạy họ phải biết vào “nơi hoang vắng và cầu nguyện”.

****
Như dân Do Thái xưa, ngày nay, chúng ta cũng thích “cùng nhau theo đường bộ chạy đến” nơi đền thánh này, đền thánh nọ hầu biểu lộ lòng tin của mình.

Điều này không có gì sai trái. Và cũng chẳng ai cấm đoán. Tuy nhiên, phải cẩn thận và dè chừng, bởi những cuộc “theo đường bộ chạy đến” mà ngày nay chúng ta gọi là “hành hương”, có vẻ như ngày càng bị trần tục hóa, trần tục hóa bởi một rổ danh từ, đại loại như “hành hương tâm linh” hoặc “du lịch tâm linh” v.v… Vâng, có một ít nơi rất là trần tục hóa, trần tục hóa qua việc “buôn thần bán thánh”. Mà, những nơi bị trần tục hóa thì làm sao chúng ta gặp được Đức Giê-su!

Xưa, Đức Giê-su đã truyền cho các môn đệ “lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng”. Và, hôm nay có phần chắc Ngài cũng sẽ truyền cho chúng ta như thế. Vì đó chính là nơi 100% chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.

Thế nên, chúng ta đừng bỏ qua lời khuyên của Lm. Charles E. Miller, khuyên rằng: “Đôi lúc ta cũng phải ra nơi thanh vắng để cầu nguyện một mình với Chúa Giê-su trong yên lặng và tĩnh tâm. Ta cần có dịp cầu nguyện theo cách ý riêng của mình”.

Trong “yên lặng và tĩnh tâm” chúng ta mới có thể gặp gỡ Đức Giê-su, và khi đã gặp gỡ Ngài, chúng ta mới có thể “trở nên những người ở gần Chúa”. Thánh Phao-lô, qua thư gửi tín hữu ở Ê-phê-sô, có lời chia sẻ với nội dung gần như thế. “Trước kia, anh em là những người ở xa, nhưng nay trong Đức Ki-tô Giê-su… anh em đã trở nên những người ở gần” (Ep 2, 13).

Là những người ở xa… nay trong Đức Ki-tô Giê-su… trở nên những người ở gần… có khác gì vào nơi thanh vắng cầu nguyện với Chúa và được gặp gỡ Đức Ki-tô Giê-su!

Samuel, hẳn chúng ta còn nhớ, trong tĩnh lặng của đêm khuya, ông ta đã gặp gỡ và nghe được lời Đức Chúa gọi: “Samuel! Samuel!”. Cuối cùng, là vua David, David đã nhận được lời truyền dạy của Thiên Chúa, truyền rằng: “Hãy dừng lại trong thinh lặng và chúng con sẽ nhận biết Ta là Thiên Chúa” (x.Tv 45,11).

Vua David cảm nghiệm được lời truyền từ Thiên Chúa, và ông ta thưa với Đức Chúa rằng: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (x.Tv 90, 12). Thật… thật khôn ngoan khi hôm nay chúng ta cũng có lời cầu nguyện như thế.

Thật khôn ngoan khi hôm nay chúng ta có lời nguyện rằng: Xin dạy chúng con đếm tháng ngày bị cách ly, bị phong tỏa, bị giãn cách xã hội, ngõ hầu tâm trí được hiểu rằng, đó như là lời Chúa truyền dạy chúng con, rằng: “hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng”.

Thật khôn ngoan khi chúng ta tin rằng, nếu xưa kia Đức Giê-su đã “xuống thuyền” cùng đi với các môn đệ, thì hôm nay, Ngài cũng sẽ xuống thuyền, con-thuyền-cuộc-đời (của chúng ta) cùng đi với chúng ta.

Thế nên, chúng ta chớ run sợ, chớ kinh khủng khi phải ngồi đếm những tháng ngày, những tháng ngày mà chúng ta không mong muốn, của hôm nay. Bởi vì, Đức Giê-su cùng đi lánh riêng với chúng ta. Và đó là lý do chúng ta hãy xem những tháng ngày này, chỉ là những tháng ngày chúng ta lánh-riêng-ra-một-nơi-thanh-vắng, mà thôi.

Vâng, chỉ là “những tháng ngày lánh riêng”.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...