Thứ Sáu, 12 tháng 11, 2021

Sống chứng nhân là “tử đạo xanh”

 Chúa Nhật XXXIII – TN – B


Sống chứng nhân là “tử đạo xanh”

“Ki-tô hữu qua bí tích rửa tội, khởi đầu một cuộc hành trình, bước qua cánh cửa đức tin để hiệp thông với Thiên Chúa và Hội Thánh…” Đó là điều Đức Benedicto XVI xác định trong tự sắc giới thiệu Năm Đức Tin 2012.

Theo Đức Benedicto XVI: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là duyệt lại lịch sử đức tin của chúng ta, trong đó có một mầu nhiệm khôn lường giữa sự thánh thiện và tội lỗi…”

Những dòng chữ trên đây, là “lời nói đầu” của cuốn sách “HÀNH TRÌNH ÂN PHÚC”, tác giả là Lm. PX. Đào Trung Hiệu, OP.

Theo lời tác giả chia sẻ, thì: “Hành Trình Ân Phúc là cơ hội nhìn lại lịch sử 480 năm hành trình đức tin của Hội Thánh Việt Nam, từ thời điểm thừa sai Inikhu đặt chân trên mảnh đất này năm 1533 đến năm 2013”.

Nhìn lại lịch sử Hội Thánh Việt Nam, tác giả sách cho biết, đó là nhìn lại: “Những dấu chân của các vị lãnh đạo, trăn trở tìm hướng đi, đáp ứng những dấu chỉ thời đại. Những dấu chân hăng say của các sứ giả loan báo Tin Mừng. Những dấu chân tình yêu của các tập thể (cộng đoàn), hiến thân trong công tác giáo dục, bác ái và công bình…”

Đó là nhìn lại: “…Những dấu chân bình dị của các tín hữu, chu toàn bổn phận và sống thánh giữa đời. Những dấu chân lạc điệu lầm đường khi xa rời truyền thống, a dua theo thói đời. Và, những dấu chân anh dũng của các thánh tử đạo, dám chết cho niềm tin và làm chứng cho tình thương”.

Vâng, nhìn lại lịch sử Hội Thánh Việt Nam, còn là dịp để chúng ta thể hiện truyền thống ngàn đời, rằng: “Uống nước nhớ nguồn”.

Với những-dấu-chân-lạc-điệu-lầm-đường…a-dua-theo-thói-đời. Hãy theo gương Thầy Giê-su đã dạy, chúng ta cầu nguyện cho họ, nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).

Còn với dấu chân của những người đã “anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu”! Thưa, như một truyền thống đẹp, mỗi năm vào Chúa Nhật XXXIII – TN, toàn thể Hội Thánh long trọng cử hành thánh lễ, một thánh lễ mừng kính quý ngài, những quý ngài mà hôm nay, chúng ta trân trọng gọi là “Các Thánh Tử Đạo Việt Nam”.

**
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những người như thế nào? Thưa, quý ngài là những người tin Chúa Giêsu, và trung thành với niềm tin của mình. Cuộc đời của quý ngài là một chứng từ, là một cuộc sống kết hiệp với ơn Chúa, sẵn sàng chịu bắt bớ tù đày, chịu nhiều hình phạt khắc nghiệt, dẫu cho đó là cái chết, chỉ vì không từ bỏ niềm tin của mình.

Nói tới “tử đạo”, là nói tới cực hình. Những cực hình các vị tử đạo phải gánh chịu, đó là: bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói. Nặng hơn thì bị voi dầy, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng. Tàn bạo hơn thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) hoặc bị thiêu sống. Hung hãn nhất là bị xử lăng trì (một hình thức phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt)… cho tới chết, đúng như tác giả thư gửi tín hữu Do Thái mô tả: “Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa còn bị xiềng xích, và bỏ tù, họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị chết vì gươm…” (x.Dt 11, 36-37).

Hội Thánh Công Giáo Việt Nam có tổng cộng 117 vị đã được Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II tuyên thánh vào ngày 19/06/1988, và ngài An-rê Phú Yên được tôn chân phước vào ngày 5/3/2000.

Theo tác giả “Hành Trình Ân Phúc” ghi lại, chúng ta được biết: ”Giai đoạn lịch sử thời 117 thánh Tử Đạo Việt Nam kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi năm 1745 (Phanxico Federich Tế và Mattheu Liciniana Đậu) đến vị cuối cùng năm 1862 (Phê-rô Đa), qua các triều đại vua Lê - chúa Trịnh, Cảnh Thịnh và triều Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức)”. 

Một trăm mười tám vị tử đạo, là một trăm mười tám cách chết khác nhau. Nhưng, cuộc sống các ngài lại có một mẫu số chung, đó là, phảng phất lòng bao dung và tình yêu thương.

Lòng bao dung và tình yêu thương của các thánh tử đạo đã tạo ra một môi trường sống “thân ái”, thân ái không chỉ với những người đồng đạo, mà còn với ngay cả những người có nhiệm vụ bắt bớ quý ngài.

Chuyện được ghi lại rằng: “Linh mục Vũ Bá Loan, niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng cụ, (khi bị bắt) ngài không bị đòn đánh, và trong ngày xử, mười lý hình bỏ đao chạy trốn, đến người thứ mười một, (anh ta) đã lịch sự xin phép: Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu” (nguồn: Hành Trình Ân Phúc – trang 240).

Khi-về-trời-cụ-nhớ-đến-cháu, nghe sao thấy quen quen, nhỉ! Sao giống “y chang” lời người gian phi bị hành hình cùng với Đức Giê-su, trên Núi Sọ, năm xưa: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Đức Giê-su đã đáp ứng lời kêu xin của anh chàng “gian phi sám hối”.

Cụ Lm. Vũ Bá Loan chắc chắn sẽ nhớ đến “cháu”, tôi tin như thế. Cháu ơi! nếu hôm nay cháu “được thiên thần đem vào lòng ông (Lm. Loan)”, cháu nhớ ‘cầu thay, nguyện giúp’ cho hàng giáo phẩm Công Giáo Việt Nam. Nhớ nhé! cháu nhớ cầu nguyện để hàng giáo phẩm không bị lọt vào đó những vị “rời xa niềm tin truyền thống (và) a dua theo thói đời”.

Ba vị linh mục Gioan Đạt, thừa sai Gagelin Kính và linh mục Đặng Đình Viên, quý ngài là những mẫu gương điển hình của tình yêu thương.

Chuyện kể rằng: linh mục Gioan Đạt, khi ngài vừa dâng lễ xong thì quân lính vây bắt. Cha đã chạy thoát, nhưng vì để quên áo lễ, cha thấy quân lính tra tấn gia chủ nên ra nộp mạng và nói: “Vẫn biết tôi có thể thoát, nhưng như thế anh chị em sẽ bị khổ nhiều”.

“Vẫn biết tôi có thể thoát”, thế mà cha Gio-an Đạt, lại “ra nộp mạng”. Ôi! quả là một con người ngập tràn tình yêu thương, một thứ tình yêu: “người liều mạng sống vì người mình yêu”.

Và đây, với thừa sai Gagelin Kính. Vâng, ngài đã viết thư xin phép giám mục cho mình ra trình diện để tín hữu Bình Định được bình an. Còn linh mục Đặng Đình Viên thì sao? Thưa, cha đã trốn an toàn trong vườn mía dày đặc, nhưng khi thấy quân lính đánh đập tra khảo con của chủ nhà, cha cũng tự động ra thế mạng. (trích: Hành Trình Ân Phúc).

Cuối cùng, và cũng là điều chúng ta cần ghi khắc trong con tim mình, đó là “lòng tôn sùng Đức Maria của các thánh tử đạo”.

Linh mục Federich Tế, tự nhận là con điên của Đức Maria. Khi dừng bước ở Macao đợi tàu đến Việt Nam, ngài đã cầu nguyện: “Lạy Thánh Mẫu cao vời nhân ái. Tấm lòng con điên dại đáng thương. Ngày đêm nung nấu can trường. Lòng bao la Mẹ đâu phương đáp đền”. (sđd – trg 251)

Và, cảm động thay, khi hai linh mục Gia và Liêm từ trại tù ra pháp trường đã hát vang lời kinh Salve Regina (Lạy Nữ Vương): “Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống được vui được cậy… Xin cho chúng con được thấy Đức Giê-su con lòng Mẹ…” (sđd - trg 253).

Chỉ là phàm nhân yếu đuối, nhờ đâu mà các vị có sức chịu đựng, chịu đựng cho đến chết? Phải chăng, đó chính là “nhờ đức tin”, tin rằng, với “Ơn của Chúa” các ngài đã có thể vượt thắng sự bắt bớ, tù đày, chết chóc!

Đúng vậy, thánh Phao-lô đã từng trải nghiệm điều này và ngài đã chia sẻ với cộng đoàn Corinto: “Một thủ hạ của Satan được sai đến để vả mặt tôi… Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (x.2Cor 12, 9).

Sức mạnh của Chúa, đã được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của các vị tử đạo, do đó, các vị đã trở thành những “Martyr”, những Martyr của lòng bao dung và tình yêu thương.

***
Như đã nói ở trên, với truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, hôm nay toàn thể Giáo Hội Việt Nam long trọng “Mừng kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam”.

Mừng kính các ngài, trước là để chiêm ngắm lại những con người đã trở thành những “hạt giống”, những hạt-giống-đức-tin một thời đã làm tăng thêm vẻ đẹp cho “Ngôi Vườn Giáo Hội”, như lời ngài Tertuliano có nói: “Máu các vị tử đạo, là hạt giống sinh nhiều giáo hữu”.

Và điều kế tiếp, đó là chúng ta nghĩ gì, qua câu nói của ngài Tertuliano? Nói rõ hơn, hạt-giống-đức-tin của tôi, có “sinh nhiều giáo hữu”, như hạt giống đức tin của các vị tử đạo?

Câu hỏi này “căng” quá, phải không, thưa quý vị! Dạ thưa, không căng quá đâu. Ngày nay, ngoại trừ một vài nhóm nhỏ như nhóm Isis, hoặc như nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là những kẻ, những nơi còn bắt bớ, giết hại, gây khó dễ cho việc truyền đạo, sống đạo. Còn hầu như trên thế giới hôm nay, tìm thấy một người “tử đạo đỏ” là việc ít xảy ra.

“Tử đạo đỏ” xuất phát từ đâu có danh từ này? Thưa, “Theo thời gian, Ki-tô giáo đã không ngừng phát triển và trở thành tôn giáo chính ở rất nhiều quốc gia; các cuộc bách hại (tử đạo) nhắm vào Ki-tô hữu, vì thế, cũng ngày một thưa dần.”

“Ở Ireland, nơi Ki-tô giáo được tiếp nhận cởi mở ngay từ đầu, chưa từng có bách hại, các tín hữu vì thế rất khao khát mình cũng được tử đạo, theo hình thức khác. Một bài giảng cổ được viết vào khoảng cuối thế kỷ VII ở đây, đã đưa ra một bản tóm tắt hoàn hảo về ba loại tử đạo: Bây giờ, có ba loại tử đạo được kể như thập giá dành cho một người, đó là: tử đạo trắng, tử đạo xanh và tử đạo đỏ.” (nguồn: Augustino.net).

“Tử đạo trắng cốt ở việc một người từ bỏ mọi thứ anh ta yêu thích vì Thiên Chúa, mặc dù phải ăn chay hay lao động cực nhọc.

Tử đạo xanh cốt ở việc một người giải phóng chính mình khỏi những ham muốn xấu xa, bằng cách ăn chay hay lao động cực nhọc; hoặc chịu đựng những đau đớn, vất vả trong việc đền tội và ăn năn sám hối.”

“Nếu như các vị tử đạo đỏ làm chứng cho Chúa Ki-tô bằng chính máu của mình, thì các vị tử đạo xanh và tử đạo trắng làm việc đó bằng các thực hành và quyết tâm trong đời sống tu đức. Nếu như tử đạo đỏ thường không có nhiều dịp xảy ra trong thế giới hiện đại, thì tử đạo xanh và tử đạo trắng là những ‘linh đạo’ khả thi cho mọi Ki-tô hữu muốn trở thành ‘chứng nhân’ của Đức Ki-tô, hôm nay”. (nguồn: augustino.net).

Vâng, rất phù hợp lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI: “Con người hiện đại sẵn lòng nghe chứng nhân hơn là nghe thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dạy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng.”

Thế nên, thật phải đạo khi hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi: hạt-giống-đức-tin của tôi, có sinh-nhiều-giáo-hữu! Tôi… tôi có đứng trong hàng ngũ các thánh tử đạo: “tử đạo trắng – tử đạo xanh”!
 
****
Chúng ta đang bước vào những tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ. Những tuần lễ này, phụng vụ Lời Chúa nhắc nhở chúng ta về ngày tận thế, và ngày quang lâm, ngày mà, như lời Đức Giê-su đã nói “mặt trời sẽ tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.” (x.Mc 13, 24-26).

Nhắc nhở điều này, không ngoài mục đích là để mỗi chúng ta hãy sẵn sàng cho ngày phán xét, ngày mà Đức Giê-su, như một ông chủ đi xa, nay trở về, và hỏi chúng ta về những nén bạc đã được giao phó.

Nói một cách cụ thể, Đức Giê-su sẽ hỏi chúng ta, rằng: “…Xưa ta đói, các người đã cho ta ăn? Ta khát các ngươi đã cho uống? Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước? Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc? Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng? Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han?”

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, hãy nhớ, chỉ khi chúng ta thực hiện những điều Đức Giê-su đòi hỏi (nêu trên), chúng ta mới được gọi là những “martyr” của Ngài. Quan trọng hơn, điều đó chứng tỏ chúng ta đã đứng trong hàng ngũ những người tử đạo, tử đạo trắng – tử đạo xanh.

Trong đại dịch, những nơi nào bùng phát mạnh, nơi đó gọi là “vùng đỏ”, những nơi không có dịch gọi là “vùng xanh”. Chẳng ai muốn địa phương (nơi mình ở) là vùng đỏ.

Cũng vậy, đối với chúng ta. Là một Ki-tô hữu, chúng ta cũng không muốn mình phải chịu ”tử đạo đỏ”. Vâng, muốn hay không, đó là việc của Chúa. Nhưng, có phần chắc, Ngài vẫn muốn chúng ta “tử đạo”. Tử đạo qua việc: “Phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình…” (Mt 16, 24).

Đây là cách sống của một chứng nhân, và các thánh tử đạo Việt Nam đã sống như thế. Quý ngài đã sống như thế, và quý ngài đã được cấp “thẻ xanh”. Đây không phải là thẻ xanh để trở thành thường trú nhân ở Mỹ, nhưng là thẻ xanh để trở thành “thường trú nhân trên Nước Trời”.

Là Ki-tô hữu, bạn có muốn mình được cấp loại “thẻ xanh” này! Nếu muốn, rất giản dị, hãy sống một đời sống chứng nhân, như các vị thánh tử đạo đã sống. Sống chứng nhân, cũng là một cách tử đạo, tử đạo xanh.

Sống chứng nhân là “tử đạo xanh”.

Petrus.tran

Thứ Sáu, 5 tháng 11, 2021

Hãy mở lòng ra

 “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”.



Chúa Nhật XXXII – TN – B

Hãy mở lòng ra

Chia sẻ hay còn được gọi là cho đi, đó là đức tính tốt trong xã hội loài người. Là đức tính tốt, nhưng không phải ai cũng sẵn lòng thực hiện. Có một số người không thực hiện vì họ biện minh rằng: tôi nghèo quá. Và rằng: “làm đồng nào xào đồng đó” thì lấy đâu của dư mà chia sẻ, mà cho đi.

Lời biện minh này, thoạt nghe có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, đã từ lâu, có mấy ai xem sự chia sẻ hay cho đi (quyên góp cứu trợ, chẳng hạn) là điều bắt buộc!

Cứ sự thường, đó là sự tự nguyện. Mà, đã là tự nguyện, thì có cần gì phải dư dật hay giàu có. Chỉ cần có một tấm lòng. Và như người xưa nói: “của ít lòng nhiều”.

Tinh thần của-ít-lòng-nhiều đã làm cho sự chia sẻ hay cho đi được thêm phần trân trọng. Trong cao điểm của đợt bùng phát đại dịch tại Saigon vừa qua, truyền thông mạng đã ghi nhận không ít trường hợp của cho thì ít, nhưng tấm lòng thì tràn ngập tình yêu thương.

Theo “Duyên Trần” tác giả bài viết “Năm bó hành của bà góa nghèo” được đăng tải trên Vatican News, thì đó là một trường hợp đáng nhớ.

Câu chuyện tóm tắt như sau: “Một bà góa nghèo có ba người con, cuộc sống không mấy dễ dàng về vật chất. Vất vả, lam lũ vì mưu sinh nhưng khi nghe nói có cuộc quyên góp để thực hiện ‘Chuyến Xe Yêu Thương’ giúp cho anh chị em khó khăn ở Sài Gòn, bà ta gửi ngay 150.000$ xin được đóng góp. Số tiền nhỏ, nhưng là tất cả những gì bà ta có. Bà ta cho đi với trái tim chia sẻ và yêu thương.

Thế nhưng, người nhận không nỡ cầm tiền của bà ta, vì biết rõ đó là số tiền lớn đối với bà lúc này. Người nhận nói: ‘Thôi chị cầm về mà lo cho gia đình còn nhiều khó khăn’. Bị khước từ nhưng bà vẫn không bỏ cuộc, bà nghĩ ra cách dùng số tiền đó để mua năm bó hành gửi trực tiếp cho đoàn đi thiện nguyện. Như vậy, chắc chắn ước mong được chia sẻ của bà sẽ thành hiện thực. Và đúng vậy, người nhận quyên góp không thể từ chối được vì quá xúc động trước một tấm lòng.” (nguồn: Vatican News)

Vâng, nghĩa cử của bà góa nghèo này, đáng trân trọng... Và, nếu Đức Giê-su có mặt trong đoàn thiện nguyện hôm ấy, có phần chắc, Ngài sẽ nói về người đàn bà này, rằng “bà đã chia sẻ nhiều hơn ai hết”.

Hơn hai ngàn năm xa trước đó, trong một lần lên Đền Thờ, Đức Giê-su cũng chứng kiến một người đàn bà góa đã thể hiện điều người xưa nói: “của ít lòng nhiều” trong việc dâng hiến, và bà ta đã được Ngài tặng danh hiệu là “người đàn bà dâng hiến nhiều hơn ai hết”. Sự kiện này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mác-cô (x.12, 38-44).

**

Sự kiện xảy ra ngay tại Đền Thờ Giêrusalem. Hôm ấy, thánh sử Mác-cô kể rằng: “Đức Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ”.

Ô, hay chưa! hôm nay, Ngài “hiền” thật. Hôm nay, Ngài không “xua đuổi chiên bò” của những kẻ “bán chiên bò”. Cũng không “đổ tung, lật nhào bàn ghế” của “những người đang đổi tiền”. Hôm nay, Đức Giê-su ngồi và “Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao” (x.Mc 12, 41).

Thật ra, trước khi “ngồi quan sát”, Đức Giê-su có đôi lời giảng dạy. Ngài đã giảng dạy rằng: “Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong bữa tiệc.”

Điều tệ hại nhất, Đức Giê-su nói tiếp, rằng: “Họ nuốt hết tài sản của bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ.” Cuối cùng, Ngài khuyến cáo: “Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn”.

“Nuốt hết tài sản của bà góa” hỏi sao không kết án nghiêm khắc hơn được! Người đàn bà góa thời đó, họ thật đáng thương. Lề luật áp đặt lên họ rất khắc nghiệt. Phụ nữ khi kết hôn phải chấm dứt liên hệ với gia đình ruột thịt.

Và rồi, nếu chồng chết cũng là lúc mất hết mọi quyền lợi vật chất từ nhà chồng. Người góa phụ, lúc đó, chỉ còn biết cất tiếng ca, ca rằng: “Con ra đi tay không còn gì. Như vào đời con chẳng có chi…”

Hôm nay, ngồi quan sát đám đông, Đức Giê-su không khỏi bùi ngùi khi nhìn thấy “có một bà góa nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm”, trái hẳn với những người giàu, họ “bỏ thật nhiều tiền”.

Chúng ta cùng xem lại cảnh “quay chậm” hình ảnh bà góa tiến về tùng tiền dâng cúng nhé. Vâng, từng bước, từng bước bà ta tiến đến thùng tiền, nơi luôn có những vị “cảnh sát tôn giáo” hiện diện canh chừng. Khi đến sát cạnh thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ, với một khuôn mặt căng thẳng, bà ta nhè nhẹ “bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm”. Rồi bà ta vội vã đi ra.

(Sao lại vội vã ra đi! Thưa, rất có thể, có thể bà ta sợ có người phát giác mình đã dâng cúng một số tiền “chẳng đáng vào đâu”, để rồi sau đó là những lời chê bai chỉ trích, chăng!).

Đúng, có người đã phát giác. Người đó là Đức Giê-su. Như một chiếc camera, Ngài đã thu hết tất cả hình ảnh, hình ảnh của tất cả những ai đã “bỏ tiền” vào thùng tiền dâng cúng. Và, sau khi đã loại bỏ những hình ảnh bình thường, Ngài đã chọn một tấm hình độc nhất vô nhị, đó là tấm hình bà góa nghèo.

Và rồi, Đức Giê-su gọi các môn đệ lại, (chỉ vào bà góa nghèo) và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”.

Bà góa nghèo này có nghe được lời Đức Giê-su nói về mình? Thưa, thánh sử Mác-cô không nói gì cả. Vâng, cứ cho là bà ta không nghe. Không nghe, nhưng điều đó cũng không thể mất đi hình ảnh một bà góa rời Đền Thờ, một bà góa rời Đền Thờ tràn đầy niềm vui “nhẹ bước trên đường về”.

***

Bà góa nghèo tràn đầy niềm vui, hẳn là thế. Và, Đức Giê-su đã có lời khen ngợi bà ta. Thế nhưng, sẽ có người không vui (trong đó có ta không nhỉ!), không vui vì lời khen ngợi của Đức Giê-su.

Chỉ “có hai đồng kẽm”, sao lại được xem là “nhiều hơn” những người “bỏ thật nhiều tiền”?

Thưa, lời nhận định của Đức Giê-su không quá đáng đâu. Chúng ta thử nghĩ xem, bà góa này đã “rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”, thì chẳng phải là nhiều hơn, sao!

Nói theo cách nói của dân miền nam, bà góa nghèo này đã dám dâng hiến “hết bóp”. Còn, nói theo cách nói của Kinh Thánh, bà góa nghèo này đã dâng hiến “hết lòng, hết sức lực” của mình.

Có ai trong chúng ta đã dám thực hiện như bà ta! Thế nên, đừng phàn nàn khi Đức Giê-su tặng cho bà ta danh hiệu “người đàn bà dâng hiến nhiều hơn ai hết”.

Mẹ Têrêsa Calcutta có nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.

Tác giả bài viết “năm bó hành của bà góa nghèo” có lời chia sẻ: “Tôi… nhìn vào những bó hành với niềm cảm kích vô cùng. Những lá hành bên ngoài có chút vàng úa nhưng gói trọn vẹn trái tim của ‘Bà góa nghèo’. Chỉ bấy nhiêu đó thôi (cũng đủ) làm sáng ngời tình người trong lúc khó khăn vì đại dịch.”

Với “hai đồng tiền kẽm” thì sao, nhỉ! Này nhé, hãy tưởng tượng xem, nếu đem “hai đồng tiền kẽm” này, gửi ngân hàng, kỳ hạn một năm, với lãi xuất là 6,80%. Điều gì sẽ xảy ra, “sau hai ngàn năm”? Vâng, “bèo” lắm cũng phải thu về vài nghìn tỷ “đô”.

Nói như thế không phải là chúng ta ngụy biện. Nhìn vào góc độ khác, góc độ “thuộc linh”, sự dâng hiến của bà góa này còn tạo ra một hiệu ứng “domino” rất ấn tượng.

Thật vậy, hơn hai ngàn năm đã trôi qua, kể từ khi bà góa nghèo này “bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm”, có biết bao nhiêu Ki-tô hữu “nghèo” trên khắp thế giới, (mà người nghèo bao giờ cũng nhiều hơn người giàu), sau khi nghe bài Tin Mừng này, nhờ đó, họ đã có cảm hứng cho việc “dâng hiến”. Họ hiểu rằng, chỉ cần dâng hiến một cách đơn sơ, chân thành, của ít lòng nhiều, cũng đủ được kể là người dâng hiến nhiều nhiều.

Vâng, không thể ngờ được đâu! Cứ thử tính số tiền đó, do cả tỷ người nghèo dâng hiến, sau hơn hai ngàn năm, con số sẽ thật là khủng khiếp, đúng không, thưa quý vị?

Vậy, hôm nay, gọi bà góa nghèo này là “tỷ phú của Chúa” được chăng?

****

Thiên Chúa không phân biệt kẻ giàu, người nghèo. Người, qua môi miệng ngôn sứ Hô-se, có lời phán: “Vì ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.” (x.Hs 6, 6).

Đức Giê-su muốn chúng ta “nhận biết”, nhận biết rằng “hy lễ” mà Thiên Chúa “thích”, không phải là dâng hiến “thật nhiều tiền”, nhưng là “thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời” (x.Mt 7, …21).

Ý muốn của Cha Thầy, Kinh Thánh cho biết: “Đừng xòe tay ra nhận, rồi nắm lại khi phải cho đi”. (Hc 4, 31).

Thế nên, nếu chúng ta là một trong số những người nghèo… Chẳng sao, cứ chia sẻ, cứ cho đi, cứ dâng hiến như bà góa nghèo đã cho đi, đã dâng hiến, với tinh thần “của ít lòng nhiều”.

Còn nếu chúng ta là một trong số những người giàu có ư! Cũng chẳng sao. Cứ chia sẻ, cứ cho đi, cứ dâng hiến, cho tha nhân, cho nhà thờ “thật nhiều tiền”.

Đó là việc đáng hoan nghêng. Trong Tân Ước, chúng ta được biết đến một người phụ nữ tên là Maria Mác-đa-la. Bà này “và nhiều bà khác nữa… đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ” (x.Lc 8, 3).

Vâng, một sự cho đi rất đáng trân trọng. Trân trọng vì quý bà đã thực hiện đúng lời giáo lý Công Giáo truyền dạy: “Rộng rãi chớ hà tiện”.

Tuy nhiên, sau khi dâng hiến, chớ gì chúng ta không yêu cầu Cha Sở “phải” ghi tên mình vào sổ vàng. Chớ gì chúng ta không yêu cầu Cha Sở “phải” khắc tên mình vào góc bức tượng do mình đã dâng hiến.

Nói tắt một lời, đừng lợi dụng sự dâng hiến để quảng bá tên tuổi mình. Đừng lợi dụng sự dâng hiến để quảng cáo công ty mình. Chuyện này thường xảy ra trong việc dâng hiến “ghế đá” cho nhà thờ.

Vâng, không quá khắt khe đâu. Qua Tin Mừng thánh Mát-thêu, có Lời Chúa truyền dạy, rằng: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.

Bà góa nghèo, thánh sử Mác-cô không cho biết tên bà là gì. Phải chăng, đó là ngụ ý của ngài, ngụ ý rằng: tên tuổi không làm trổi nhân đức!

Đúng vậy. Tên tuổi không làm cho chúng ta trổi nổi trong việc chia sẻ, cho đi, dâng hiến. Điều làm cho chúng ta trổi nổi, đó là tấm lòng. Nói rõ hơn, đó là mở lòng ra. Bà góa nghèo đã làm như thế. Và, chúng ta cũng nên làm như thế.

Vâng, “Hãy mở lòng ra”.

Petrus.tran

Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...