Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2022

Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng.

 Chúa Nhật - Lễ Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa.

Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng

Theo lời Giáo Hội truyền dạy, Thiên Chúa ban cho Đức Maria bốn đặc ân. Và đây cũng là bốn tín điều buộc người Công Giáo phải tin. Bốn tín điều đó, thứ nhất: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Thứ hai: Đức Maria vô nhiễm nguyên tội. Thứ ba: Đức Maria trọn đời đồng trinh. Thứ tư: Đức Maria hồn xác lên trời.

Trong bốn tín điều này, tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa được công bố sớm nhất. Đó là năm 431. “Công Ðồng Êphêsô (431) công bố rằng, Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa để bảo đảm thiên tính của Ðức Kitô, lúc đó đang bị Nestoriô, Giám Mục Constantinople đả kích. Ông ta dạy rằng Ðức Kitô có hai cá thể với hai bản tính khác nhau, và Mẹ Maria chỉ là mẹ của con người Ðức Kitô mà thôi.” (nguồn: internet).

Về ba tín điều kia, Giáo Hội cũng đã ghi lại ngày, tháng, năm được công bố như sau: Tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyện tội được ĐTC Pio IX công bố ngày 8/12/1854 rằng: “Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu tiên chịu thai, nhờ ơn riêng và đặc quyền của Thiên Chúa Toàn Năng, qua việc thấy trước công nghiệp của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ vết của Tội Nguyên Tổ.” (Ineffabilis Deus, 29).

Ðể chuẩn y Tín Ðiều này, Đức Maria đã hiện ra cùng thánh Bernadette tại Lộ Ðức vào năm 1858 và cho thánh nữ biết rằng Mẹ là “Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.”

Tín điều Đức Maria trọn đời đồng trinh được Công Đồng Lateran (649) chính thức xác nhận là Tín Ðiều ở Ðiều Thứ Ba của Công Ðồng này.

Cuối cùng là tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Đó là vào ngày 1 thánh 11, năm 1950, ÐTC Piô XII đã công bố.

Khi nói về bốn tín điu này, một tác giả ký tên là Phaolô, trong bài viết tựa đề là: “Các Tín Điều về Đức Mẹ”, đã viết: “Tất cả những gì Hội Thánh muốn chúng ta tin về Ðức Mẹ đều liên quan đến niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô và cần thiết cho phần rỗi chúng ta. Chúng ta tôn kính Mẹ Maria, không phải vì Mẹ là Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa muốn chúng ta kính trọng Mẹ như là một bình rất quý giá Chúa dùng để ban nguồn ơn cứu độ, là Ðức Giêsu Kitô, cho chúng ta.” (nguồn: internet).

Đức Maria “như là một bình quý giá Thiên Chúa dùng”. Đúng vậy, Thiên Chúa đã dùng Đức Maria để cưu mang Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người. Thiên Chúa đã dùng Đức Maria như một người Mẹ, một người Mẹ để “sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
Sự kiện này đã thật sự xảy ra. Xảy ra hơn hai ngàn năm trước đó. Và đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca.
**
Vâng, Tin Mừng thánh Luca ghi rằng: Vào thời hoàng đế Au-gut-tô. Ông hoàng này đã “ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.” Đó là lý do “ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.”

“Vì thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít”, thế nên thánh Giu-se đã “từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít, miền Giu-đê”. Ngài Giu-se lên đó là để “khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai.”
Và rồi tại nơi này “thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trọ.”

Trong vùng ấy, “có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật”. Bất ngờ một biến cố thần hiện đã xảy ra. Sứ thần Chúa hiện đến “đứng bên họ và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh”.

Sự hiện đến của sứ thần đã khiến “họ kinh khiếp hãi hùng”. Trong nỗi kinh khiếp hãi hùng, những người chăn chiên nghe tiếng sứ thần Chúa bảo họ, rằng: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David. Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (x.Lc 2, 10-12).

Khi lời sứ thần vừa dứt, “Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rằng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. (Lc 2, 13-14).

Rồi, “khi các sứ thần từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người chăn chiên bảo nhau: Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ ra cho ta biết”.

Nói là làm, “họ liền hối hả ra đi”. Những người chăn chiên đã đi đến Belem. Khi đến nơi, quả thật: “họ gặp bà Maria, ông Giu-se cùng với Hài Nhi được đặt trong máng cỏ” đúng như lời sứ thần đã loan báo cho họ.

Nhìn thấy sự thật hiển nhiên, những người chăn chiên đã không thể không “kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này”. Nghe họ nói “ai cũng ngạc nhiên”. Riêng Đức Maria, thánh sử Luca cho biết: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.

Sau những giờ phút viếng thăm, các người chăn chiên ra về. Trên đường về, họ “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”. (Lc 2, 20).

“Khi được đủ tám ngày”, tin mừng thánh Luca ghi lại, rằng: “Hài Nhi… đến lúc phải làm lễ cách bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.” (x.Lc 2, 21).


***
Allêluia! Allêluia! Dựa vào những lời trích thuật tin mừng Thánh Luca (nêu trên) không thể không xác tín rằng, quả thật “Thiên Chúa muốn chúng ta kính trọng Mẹ như là một bình rất quý giá Chúa dùng để ban nguồn ơn cứu độ, là Ðức Giêsu Kitô, cho chúng ta.”

Vâng, Giáo Hội hơn hai ngàn năm có lẻ, vẫn luôn “kính trọng Mẹ”. Và, hôm nay, 01/01/2023 một ngày của đầu năm mới, Giáo Hội long trọng cử hành lễ kính Đức Maria - Mẹ Thiên Chúa.

Như đã nói ở trên, đây là một trong bốn đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Maria. Và đây cũng là tín điều buộc người Công Giáo phải tin. Vâng, phải tin.

Phải tin là bởi “Từ thời các thánh Tông Ðồ, các Kitô hữu đã tin rằng Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa Nhập Thể. Vì thế, Người là Ngôi Hai Thiên Chúa với hai bản tính. Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật.

Bản tính Thiên Chúa và loài người của Người không thể tách rời nhau được. Vì Ðức Kitô là Thiên Chúa làm người (Colossians 2:9, Galatians 1:1,14), nếu Ðức Mẹ là Mẹ Ðức Kitô, thì Ðức Mẹ cũng đúng là Mẹ Thiên Chúa.

Công Ðồng Êphêsô (năm 431) công bố rằng Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa để bảo đảm thiên tính của Ðức Kitô, lúc đó đang bị Nestoriô, Giám Mục Constantinople đả kích. Ông ta dạy rằng Ðức Kitô có hai cá thể với hai bản tính khác nhau, và Mẹ Maria chỉ là mẹ của con người Ðức Kitô mà thôi.” (nguồn: https://www.giaoly.org/vn/cac-tin-dieu-ve-duc-me).

Lutherô, Calvin, và những nhà sáng lập các giáo phái Tin Lành chính thống đều đồng ý về tín điều này. Martinô Lutherô, người sáng lập đạo Tin Lành viết: “Thật là chính đáng khi gọi Mẹ không những là mẹ con người, nhưng còn là Mẹ Thiên Chúa… Chắc chắn rằng Ðức Maria là Mẹ của Thiên Chúa thật.” (source: Jaroslav Pelikan, ed., Luther’s Works, (St. Louis: Concordia), 24:107.)

Thế nên, vấn đề của chúng ta hôm nay đó là: không cần tranh cãi nữa. Điều quan trọng đó là; hãy ghi khắc trong con tim mình lời dạy dỗ, dạy dỗ rằng: “Nhưng Ðức Mẹ cũng là một tạo vật như chúng ta, và đạo Công Giáo không thờ Ðức Mẹ như một nữ thần. Chúng ta kính Ðức Mẹ vì vinh dự khôn lường của Mẹ là được Thiên Chúa chọn để cưu mang và nuôi dưỡng Ngôi Lời Nhập Thể.” (nguồn: giaoly.org).

Chúng ta không thờ Đức Maria. Chúng ta chỉ “kính” Mẹ Maria, mà thôi.

Kính Mẹ Maria như thế nào? Thưa, chúng ta biết rồi. Lần chuỗi mân côi. Kiệu Đức Mẹ. Chưa hết… còn nữa, đó là: hãy “trông lên Mẹ là gương mẫu của đời ta”.

Vâng, hãy trông lên Mẹ và hãy lấy hai chữ “xin vâng” của Mẹ “xin Chúa hãy làm cho tôi như lời sứ thần nói”, và hãy lấy sự “khiêm nhường” của Mẹ, khiêm nhường trở nên “nữ tỳ của Chúa”, xem đó như là hành trang cho cuộc sống đức tin của mình.

Hai chữ “xin vâng” của Mẹ, đã đem lại cho Mẹ điều gì chúng ta biết rồi, chẳng phải là Mẹ Thiên Chúa, đó sao! Sự khiêm nhường của Mẹ đã đem lại cho Mẹ điều gì, chẳng phải là Mẹ đã được Thiên Chúa: “Người đoái thương nhìn tới”, đó sao!

Là một Ki-tô hữu, có phần chắc ai trong chúng ta cũng đều muốn “Chúa đoái thương nhìn tới” mình, phải không, thưa quý vị! Thế nên, đừng quên học sự vâng lời và sự khiêm nhường của Mẹ, nha!

Hôm nay, về mặt xã hội, thật tình mà nói, mình không muốn nói nữa. Nói ra, sẽ có người bảo rằng: “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Nhưng về mặt Giáo Hội, nên nói lắm chứ!

Vâng, Giáo Hội của chúng ta đang khủng hoảng đức vâng lời. Giáo Hội Đức là một ví dụ điển hình. Mà, không có đức vâng lời lấy đâu ra đức khiêm nhường. Không có đức khiêm nhường, giáo dân đôi khi chỉ vì một chút “bức xúc” cũng có thể lôi ông cha sở (nếu không muốn nói là ngay cả Giám Mục) ra mắng mỏ lăng nhục, làm clip tung lên mạng không chút ngại ngùng. “Vụ việc” này đã xảy ra hơi bị nhiều, không tiện nêu nơi xảy ra, ở đây.

Thế nên, thưa quý ông bà và anh chị em, hôm nay, chúng ta hãy để cho tâm hồn mình một phút trong thinh lặng và tự hỏi lòng mình rằng: đức vâng lời và đức khiêm nhường đã có trong gói hành trang, hành trang cho cuộc sống đức tin của mình, chưa!

Có rồi hả! Quá tốt. Tạ ơn Chúa. Còn nếu chưa! Thà muộn còn hơn không bao giờ. Ngay hôm nay, bây giờ, hãy ngước mắt lên Thánh Mẫu Đức Maria, và hãy “nức nở” nguyện cầu với Mẹ rằng: Mẹ ơi! “xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng.”

Petrus.tran

Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2022

Đấng Ki-tô – hôm nay đã sinh ra…

 

Đấng Ki-tô – hôm nay đã sinh ra…

“Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rằng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. (Lc 2, 13-14).



Chúa Nhật - Lễ Giáng Sinh

Đấng Ki-tô – hôm nay đã sinh ra…

Như chúng ta được biết, trong những ngày còn tại thế, Đức Giê-su đã tuyển chọn mười hai vị môn đệ. Phúc Âm thánh Mác-cô cho biết: “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người...” (x.Mc 3, 13-14).

Các môn đệ bắt đầu ở với Đức Giê-su khi nào, chúng ta không biết. Tuy nhiên, chúng ta có thể biết rằng, các ông đã ở với Đức Giê-su cho tới khi Ngài “được cất lên trời”.

Ở với Đức Giê-su, các ông biết được gia thế của Ngài. Ở với Đức Giê-su, các ông được nghe rất nhiều lời dạy dỗ của Ngài. Ở với Đức Giê-su, các ông đã nhận ra, qua những lời tuyên bố của Thầy mình, rằng Ngài chính là Con của Thiên Chúa.

Con của Thiên Chúa “(đã) đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3, 17). Đây là một trong nhiều thông điệp Đức Giê-su công bố, người môn đệ tên là Gio-an đã nghe được thông điệp này, và đã ghi lại.

Người môn đệ này còn có lời tuyên bố rằng: Đức Giê-su “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người là Con Một tràn đầy ân sủng và sự thật” (Ga 1, 14).

Nói đến chuyện Đức Giê-su đã-trở-nên-người-phàm, thánh sử Mát-thêu, qua câu chuyện “Truyền tin cho ông Giu-se”, đã ghi nhận rằng: “(Đức Maria) sinh một con trai, và ông (Giu-se) đặt tên con trẻ là Giê-su” (Mt 1, …25).

Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Sự kiện này cũng đã được một người môn đệ không thuộc Nhóm Mười Hai do Đức Giê-su tuyển chọn, ghi lại. Người môn đệ này chính là thánh sử Luca.

Thánh sử Luca là ai? Thưa, trong bài viết “Hình ảnh thánh sử Luca, tác giả phúc âm Chúa Giêsu” Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long cho biết: “Xưa nay theo truyền thống thánh sử Luca được cho là học trò, hay người cùng đồng hành với tông đồ Phao-lô trên bước đường truyền giáo.

Thánh sử Luca viết hai tác phẩm, một về những biến cố đời Chúa Giêsu: sách phúc âm, và một về lịch sử của Giáo hội thời lúc ban đầu sau khi Chúa Giêsu Kitô trở về trời: Công vụ các tông đồ.

Thánh sử Luca viết thuật lại lịch sử đời Chúa Giêsu theo khung dạng kiểu tường thuật kể chuyện, nên thấm mầu sắc sinh động. Ông tường thuật lịch sử đời Chúa Giêsu như lịch sử cứu độ chữa lành cho con người: Chúa Giêsu mạc khải mình là Thiên Chúa mang ơn cứu độ.” (nguồn: internet).

Mà, thật vậy. Câu chuyện lịch sử đời Chúa Giê-su đã được ngài Luca kể lại rất sinh động trong một cuốn sách, cuốn sách mà hôm nay chúng ta gọi là Phúc Âm thánh Luca. Đức Giê-su đã sinh ra tại Belem. Và câu chuyện này đã được thánh sử Luca ghi lại trong sách Phúc âm của ngài với tiêu đề: “Những người chăn chiên đến viếng thăm” (Lc 2, 15-20).

**
Vâng, chuyện về “những người chăn chiên đến viếng thăm” được thánh sử Luca ghi như sau: Đó là: vào một đêm nọ. Khi những người chăn chiên “sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật”.

Bất ngờ một biến cố thần hiện đã xảy ra. Sứ thần Chúa hiện đến “đứng bên họ và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh”. Sự hiện đến của sứ thần đã khiến “họ kinh khiếp hãi hùng”.

Trong nỗi hãi hùng, những người chăn chiên nghe tiếng sứ thần Chúa bảo họ, rằng: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David. Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” (x.Lc 2, 10-12).

Lời sứ thần vừa dứt, “Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rằng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. (Lc 2, 13-14).

Rồi, “khi các sứ thần từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người chăn chiên bảo nhau: Nào chúng ta sang Belem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ ra cho ta biết”.

Họ đã nói như thế và họ đã “hối hả ra đi”. Những người chăn chiên đã đi đến Belem. Khi đến nơi, quả thật: “họ gặp bà Maria, ông Giu-se cùng với Hài Nhi được đặt trong máng cỏ” đúng như lời sứ thần đã loan báo cho họ.

Trước sự thật mười mươi, những người chăn chiên đã không thể không “kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này”. Và, đó là điều đã làm cho “ai cũng ngạc nhiên”. Riêng Đức Maria, thánh sử Luca cho biết: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”.

Các người chăn chiên rồi cũng ra về. Trên đường về, họ “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”. (Lc 2, 20).

***
“Chúa đã giáng trần! Allêluia! Đến mặc xác phàm. Allêluia! Chúa đã sinh ra. Allêluia! Chúa đã sinh ra. Allêluia!” (trích nhạc phẩm: Chúa đã sinh ra. Tác giả: Lm. Thành Tâm).

Vâng. Chúa đã sinh ra hơn hai ngàn năm có lẻ. Và, hôm nay, qua trích thuật Tin Mừng thánh Luca, chúng ta có được một cuộc hành trình trở về “Belem xưa”.

Trở về Belem xưa, không phải để chiêm ngắm lại một di tích lịch sử, nhưng là để nhìn lại… nhìn lại những gì đã diễn ra vào cái đêm “lịch sử” hồi ấy. Vâng, rất cần nhìn lại những gì “mấy người chăn chiên” đã thực hiện.

Nhìn lại những gì mấy-người-chăn-chiên đã thực hiện để làm gì? Thưa, để chúng ta tự hỏi lòng mình rằng: chúng ta có “hối hả” đến Belem, như mấy vị chăn chiên đã hối hả “sang Belem”!

Chúng ta có “hối hả ra đi” đi đến Belem để gặp “bà Maria, ông Giu-se cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”?

Vâng, về chuyện này, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đều hối hả. Hối hả làm hang đá Belem. Hối hả mua những trang thiết bị như đèn chớp, cây thông, trái châu, v.v… để trang trí hang Belem.

Hối hả cho việc thiết kế hang Belem là một truyền thống đẹp. Viếng hang Belem trong Mùa Giáng Sinh lại là việc chúng ta cần hối hả hơn nữa.

Khi viếng hang Belem, thật đẹp thay, nếu chúng ta cất tiếng ca, ca nguyện rằng: “Quỳ lạy Mẹ Maria, lòng Mẹ từ bi bao la. Tấu khúc nhạc lên xin Ơn Trên ban cho nhà (con)”.

Khi viếng hang Belem, thật đẹp thay, nếu chúng ta cất tiếng ca, ca nguyện, rằng: “Lạy Mẹ Đồng Trinh ban ơn, người Việt càng thương nhau hơn. Đất nước này đây sáng đức tin Chúa trên trời cao”.

Vâng, hơn bao giờ hết, nước Việt Nam của chúng ta, rất cần mọi người “càng thương nhau hơn”. Thật nản lòng, khi đất nước chúng ta, dù không còn cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn, thế nhưng, sự kỳ thị… kỳ thị giữa… giữa gì gì đó… không tiện nói ra ở đây, vẫn là “chuyện thường xảy ra ở huyện.”

Chưa hết… Còn nữa. Còn chuyện này nữa, nói ra thật đáng xấu hổ. Vâng, có đáng xấu hổ không, khi mà trong đời sống tu trì, vẫn không ít người bị kỳ thị! Về chuyện kỳ thị trong đời sống tu trì, một vị linh mục, trong một bài thuyết trình (nếu người viết nhớ không lầm, đó là Lm. Đức Thông DCCT), đã dí dỏm nói: “Thân con là thân tu sĩ, đi vào nhà dòng và mục nát với bề trên”.

Rất… rất cần mọi người càng thương nhau hơn. Vì thế, để giải quyết nan đề này, không gì tốt cho bằng chúng ta hãy thực hiện một chiến dịch, một chiến dịch “hãy yêu thương nhau”.

Nói cách khác, hãy thực hiện lời Đức Giê-su truyền dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” (x.Ga 15, 9-17).

Phải thực hiện chiến dịch này. Và, chính chúng ta là những người lãnh ấn tiên phong. Bởi vì, khi lãnh ấn tiên phong, đó là cơ hội chúng ta làm “sáng (ngời) đức tin Chúa” trên thế gian này.

Cuối cùng, với việc hoàn thành sứ vụ lãnh ấn tiên phong cho chiến dịch hãy-yêu-thương-nhau, có thể khẳng định, đó cũng là cách, chúng ta nói với bàn dân thiên hạ rằng: Đấng Ki-tô – Hơn hai ngàn năm xa trước đó, đã sinh ra cho mọi người. Nói ngắn gọn: “Đấng Ki-tô - hôm nay đã sinh ra”.

Petrus.tran

Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2022

Hãy đón Đức Giê-su về nhà mình

 

Hãy đón Đức Giê-su về nhà mình

“Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”



Chúa Nhật IV – MV – A

Hãy đón Đức Giê-su về nhà mình

Vào khoảng thập niên 80, thế kỷ trước. Có một nhà thờ (xin tạm không nêu tên) ở quận 3 Saigon, trong một dịp mừng lễ Giáng Sinh, đã thiết kế một hang đá Belem rất khác thường. Khác thường ở chỗ, chỉ có Đức Maria và Hài Nhi Giê-su. Người thiết kế không để tượng Thánh Giu-se vào hang đá theo đúng truyền thống.

Tôi, người viết, vì thường tham dự thánh lễ ở đây, nên biết chuyện này. Năm đó, nhiều em nhỏ khi viếng hang đá Belem đã thắc mắc hỏi cha mẹ mình rằng, thánh Giu-se đâu? Và, câu trả lời đã được nhiều phụ huynh xầm xì nói với nhau, rằng thì-là-mà chắc thánh Giu-se bị đi học tập cải tạo!

Vào những năm tháng đó, nhiều gia đình có cha, chồng, anh, em… là sĩ quan thuộc chế độ Saigon, nên bị tập trung đi học tập cải tạo theo lệnh của chính quyền mới. Gia đình còn những ai, nếu không là mẹ và các con, hoặc vợ và các con! Và, có lẽ đó là lý do họ nảy sinh ra ý nghĩ đó, chăng!

Nghĩ sao thì nghĩ, nhưng thiết kế như thế, không thể không nói là thiếu thiếu một cái gì đó, phải không, thưa quý vị! Nên có tượng thánh Giu-se, người thiết kế, dù có sầu não về một biến cố của thời cuộc, thì cũng đừng vì thế mà “bỏ” tượng thánh Giu-se vào hộp giấy.

Đừng nên bỏ quên thánh Giu-se vì bất cứ lý do gì. Hang đá Belem ngày nay, nếu có thiết kế, thì nên thiết kế đúng như những gì đã có trong hang Belem, ngày xưa. Nghĩa là có Thánh Giu-se, Đức Maria và Hài Nhi Giê-su.

Tái hiện hình ảnh hang đá Belem mà không trưng bày tượng thánh Giu-se, sẽ có người cho rằng, làm như thế chẳng khác nào viết lại, (nếu không muốn nói là bóp méo) lịch sử cứu độ!

Lịch sử cứu độ đã cho chúng ta thấy một thánh Giu-se đầy lòng nhân ái và tình yêu thương. Lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy một thánh Giu-se đã “vâng phục” thánh ý Chúa một cách tuyệt đối, như thế nào.

Đây không phải là điều chúng ta tự “tô hồng” cho ngài. Tin Mừng thánh Mát-thêu, qua trình thuật “Truyền tin cho ông Giu-se”, đã nói đến một Giu-se, một Giu-se đúng là mẫu mực cho sự vâng phục thánh ý Chúa. (x.Mt 1, 18-24).

**
Thật vậy, chúng ta hãy mở sách Phúc Âm thánh Mát-thêu và cùng đọc lại câu chuyện “Truyền tin cho ông Giu-se”. Khởi đầu câu chuyện, thánh sử Matthêu thuật lại rằng: “Sau đây là gốc tích Đức Giê-su, bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 18).

Biết được chuyện này, thánh Giu-se làm sao nhỉ! Phải chăng ngài Giu-se sẽ chất vấn Đức Maria: “Bà-đã-có-thai ư! Sao bà không nói cho tôi biết!” Vâng, đây chỉ là một chút tưởng tượng của người viết.

Phần thánh Giu-se hồi ấy, có phần chắc, ngài sẽ phải “nhức đầu nhức óc” về sự kiện này. Phải nhức-đầu-nhức-óc thôi. Bởi, từ cổ chí kim có ai thụ thai mà không cần tới người đàn ông! Làm sao bây giờ! Tố giác theo đúng luật ư! Không… không bao giờ. Mình… mình được gọi là một “người công chính” ai lại làm như thế! Một giải pháp đã được thánh Giu-se đề ra. Đó là, ngài Giu-se “định tâm bỏ bà cách kín đáo.”

Thánh Giu-se nghĩ như vậy và “đang toan tính như vậy”. Thế nhưng, như người xưa có nói: “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”. Thiên… ở đây là Thiên Chúa - Người không cho ông làm như vậy. Người đã can thiệp vào toan tính của thánh Giu-se.

Thiên Chúa can thiệp bằng cách nào! Thưa, Người sai “Sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông”. Sứ thần Chúa báo mộng, rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ. Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa Chúa phán qua miệng lưỡi ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”

Viết tới đây, người viết chợt nhớ tới một câu chuyện vui vui, nghe trên YouTube. Chuyện là thế này: trong một buổi tĩnh tâm mùa Vọng dành cho giới trẻ. Chủ đề hôm ấy cũng xoay quanh câu chuyện “Truyền tin cho ông Giu-se”. Đang lúc say sưa thuyết trình, bất chợt vị linh mục giảng phòng quay sang hỏi các bạn trẻ nam. Vị linh mục (nếu mình nhớ không lầm, đó là linh mục Phạm Tĩnh, thì phải), hỏi rằng: “nếu một ngày đẹp trời nào đó, người yêu của bạn nói với bạn rằng, em có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần, bạn có tin không?”

Bạn-có-tin-không? Không một cậu thanh niên nào trả lời. Chỉ nghe thấy tiếng cười rúc rích bên quý cô. Vị linh mục nghe tiếng cười liền quay sang nói với quý cô rằng: “còn các cô, các cô chớ có dại nói như thế nhé, nói như thế nó bỏ ngay đấy!” Cả nhà thờ đều cười.

Đúng là một câu chuyện vui. Mà vui thật. Nhưng niềm vui ở đây không phải là vui do bởi câu chuyện nêu trên, nhưng vui là do câu trả lời của thánh Giu-se.

Thánh Giu-se đã trả lời. Ngài Giu-se đã trả lời không bằng lời nói, nhưng bằng hành động. Chúng ta cùng nghe thánh sử Mát-thêu kể lại rằng: “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà”.

Thánh Giu-se, đón-vợ-về-nhà-mình, chứ không đón-vợ-về và đem trả lại cho nhà vợ. Chính hành động này đã nêu bật con người của thánh Giuse, con người của lòng nhân ái, tình yêu thương và sự vâng phục. Thánh Giu-se đã vâng phục thánh ý Chúa “không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su” (Mt 1, 24-25).

***
Thiết kế hang đá Belem mà không có tượng thánh Giu-se thì thật là một thiếu sót. Tuy nhiên, sẽ là thiếu sót nhiều hơn nữa, nếu Belem tâm hồn chúng ta không có thánh Giu-se.

Thánh Giu-se phải là “thần tượng” của chúng ta. “Tượng” chúng ta trưng bày nơi hang Belem bằng giấy, gỗ, đá. “Thần” chúng ta để trong Belem tâm hồn mình.

Hôm nay, Chúa Nhật thứ IV – Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa cho chúng ta nhìn lại con người của thánh Giu-se. Đừng nhìn lại thánh Giu-se như là một nhân vật của lịch sử. Nhưng hãy nhìn ngài Giu-se như một tấm gương mẫu mực về lòng nhân ái, về sự chung thủy và nhất là về sự vâng phục trước thánh ý Thiên Chúa. Nói tắt một lời, hãy xem ngài Giu-se như là mẫu mực cho đời sống đức tin của mình.

Xã hội hôm nay, một xã hội đang cổ vũ cho một nền văn hóa sự chết, một nền văn hóa hưởng thụ, một nền văn hóa tự do luyến ái, tự do phá thai, chấp nhận hôn nhân đồng tính v.v… Vâng, đó là một nền văn hóa rất… rất quyến rũ, và không ai trong chúng ta lại không có đôi lúc siêu lòng trước những sự quyến rũ này.

Có không ít người (có thể có cả chúng ta) dù đã là Ki-tô hữu, nhưng trước những lời quyến rũ đường mật của Satan, rằng thì-là-mà “chẳng chết chóc gì đâu”, Thiên Chúa và Giáo Hội chỉ là những rào cản, cản trở sự thăng tiến, sự tự do của con người v.v… nên đã và đang “toan tính bỏ Chúa – toan tính bỏ Giáo Hội.”

Quên những lời quyến rũ đường mật đó đi, thưa quý vị. Bởi vì, chúng ta biết rồi, tấm gương nguyên tổ Adam và Eva còn đó. Hai ông bà, sau khi nghe lời quyến rũ của Satan, thì làm sao nhỉ! Thưa, Adam và Eva sợ hãi “trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa.” (St 3, 8).

Cái đau của việc nghe lời Satan, đó là nguyên tổ Adam và Eva đã bị Thiên Chúa thu hồi cuốn “sổ đỏ” của khu vườn Eden mà trước đó Người đã tặng “free” cho hai ông bà.

Dài dòng chuyện xưa để làm gì? Thưa, để chúng ta phải luôn cảnh giác trước những lời đường mật của thế gian, một thế gian đang bị thống trị bởi Satan. Dài dòng chuyện xưa để làm gì? Thưa, còn để chúng ta cảnh tỉnh trước những chủ thuyết ma mị, những chủ thuyết đã và đang làm cho không ít người bỏ Chúa, bỏ Giáo Hội.

Bỏ Chúa - bỏ Giáo Hội kết quả là gì? Thưa, không có mặt ở Nước Trời.

Lời Chúa, qua môi miệng thánh Phao-lô, rất rõ ràng, rằng: “Xét như một người phàm, Đức Giê-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít. Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.” (x.Rm 1, …3-4).

Thưa quý vị, qua lời truyền dạy của thánh Phao-lô, quý vị có tin Đức Giê-su Ki-tô là “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng”?

Xưa, thánh Giu-se, qua sự kiện “sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông”, ông đã tin lời sứ thần Chúa và “đón vợ về nhà”.

Nay, chúng ta, nếu chúng ta tin lời truyền dạy của thánh Phao-lô, thì hãy… hãy “đón Hài Nhi Giê-su” vào ngôi nhà tâm hồn chúng ta. Mà, cớ gì không tin chứ! Thế nên: Hãy ở lại với Giáo Hội và hãy đón… đón không chỉ là Hài Nhi Giê-su mà còn là “Đức Giê-su Ki-tô” về nhà với chúng ta.

Đừng say mê trước những quyến rũ của Satan và thế gian. Hãy tỉnh giấc và “hãy đón Đức Giê-su về nhà mình”.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...