Thứ Bảy, 19 tháng 2, 2022

Thứ tha để được tha thứ

 “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em.” (Lc 6, 27).



Chúa Nhật – VII – TN – C

Thứ tha để được tha thứ


Tình yêu thương và sự tha thứ là điều không thể thiếu cho cuộc sống của con người. Không có tình yêu thương và sự tha thứ, cuộc sống của con người sẽ chỉ là địa ngục trần gian.


Với Ki-tô giáo, “tình yêu thương” chính là dấu hiệu của người Ki-tô hữu, như có lần Đức Giê-su đã nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (x.Ga 13, 34-35).


Về sự tha thứ, sự tha thứ là một đòi hỏi mà bất cứ ai đã là môn đệ của Đức Giê-su đều phải thực hiện. Một lần nọ, tông đồ Phê-rô hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không? Đức Giê-su đáp: Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (x.Mt 18, 21-22).


Vâng, tình yêu thương và sự tha thứ là điều được Đức Giê-su nói đến rất nhiều lần, trong những ngày Ngài ra đi rao giảng Tin Mừng. Tình yêu thương và sự tha thứ, đối với Đức Giê-su, trước hết và trên hết, đó chính là tình yêu thương và sự tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho con người.


Theo thánh sử Gio-an, một đêm nọ, sau khi chuyện trò với ông Ni-cô-đê-mô, “một thủ lãnh của người Do Thái”, về vấn đề tái sinh và ơn cứu độ, Đức Giê-su đã tuyên bố rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (x.Ga 3, 16).


Nói đến việc Thiên Chúa đã yêu thương và tha thứ cho con người, Đức Giê-su cũng không quên nói đến việc con người cũng phải yêu thương và tha thứ cho nhau.


Vâng, Ngài đã nói và nói rất thẳng thắn với các người môn đệ của mình. Sự kiện này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca.


**

Câu chuyện được ghi lại như sau: Hôm ấy, sau khi đã truyền dạy cho các môn đệ phương cách sống, sống sao để nhận được phước hạnh bây giờ cũng như mai sau ở trên trời, sống sao để tránh những mối họa, những mối họa làm cho con người phải diệt vong, Đức Giê-su tiếp lời, rằng: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em.” (Lc 6, 27).


Anh-em-là-những-người-đang-nghe-Thầy-đây, tất nhiên hôm nay, có cả chúng ta. Vì thế, chúng ta cùng nghe tiếp nhé!


Hôm ấy, Đức Giê-su có lời truyền dạy tiếp, rằng: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.”


Chỉ mới hai lời truyền dạy, hai lời truyền thôi, không biết tâm trạng quý ngài môn đệ hồi ấy thế nào, chứ đối với chúng ta, chắc hẳn nghe xong, chúng ta sẽ thốt lên rằng, “lời truyền dạy sao kỳ lạ thế!”


Đúng, lời truyền dạy của Đức Giê-su còn kỳ lạ hơn nữa, khi Ngài nói: “Ai vả má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại.”


Vâng, lại thêm bốn lời truyền dạy kỳ lạ. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng, với Thiên Chúa, Thiên Chúa – Người có thể làm cho sự kỳ lạ này trở thành “kỳ vĩ”.


Đây, chúng ta cùng nghe lời truyền dạy tiếp sau: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.”


Sao! Nghe qua lời truyền dạy này, chắc hẳn chúng ta sẽ không còn thấy kỳ lạ nữa. Sẽ không còn kỳ lạ, bởi vì nếu chúng ta “muốn” và nếu chúng ta “làm”.


Thật vậy, khi chúng ta “muốn và làm” những điều tốt đẹp cho xã hội, cho tha nhân, cho bất cứ ai, thử hỏi, có ai lại đòi “vả má” mình chứ! Khi chúng ta ‘muốn” nhường cơm sẻ áo cho người nghèo, thử hỏi, có ai lại đòi “đoạt áo” của chúng ta!


Rất chí lý và thực tế khi Đức Giê-su tiếp lời, rằng: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế.”


Chưa hết. Đức Giê-su còn nói thêm một vài trường hợp rất “hợp” với đời thường. Ngài nói: “Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả sòng phẳng.”


Và để kết thúc, Đức Giê-su thẳng thắn nhắc lại một lần nữa với các môn đệ, rằng: “Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả”.


***

Không, những lời truyền dạy của Đức Giê-su không kỳ lạ. Những lời truyền dạy của Ngài chỉ “khác lạ” với những lời dạy dỗ của người đời. Khác lạ ở điểm Đức Giê-su không chấp nhận sự trả đũa “mắt đền mắt, răng đền răng”. Bởi nếu hành xử như thế, biết đến bao giờ con người mới hết hận thù. Ngài lại càng không hoan nghênh đạo lý “quân tử trả thù, mười năm chưa muộn”. “Sự trả thù cao quý nhất chính là tha thứ.”, ngài Thomas Fuller có lời khuyên thế đấy.


Tưởng chúng ta cũng nên biết, chữ “yêu” trong lời truyền dạy: “Anh em hãy yêu kẻ thù” không đồng nghĩa với chữ “yêu – love” trong tình yêu nam nữ.


Chữ “yêu” ở lời khuyên này được hiểu theo chữ “Agape – Tình Bác Ái” thường được dùng trong Kinh Thánh. Thế nên, lời truyền dạy của Đức Giê-su “hãy yêu”, nếu chúng ta thực thi, kết quả sẽ là một “kỳ tích.”


Vào cuối thế kỷ trướccó một người, đã thực thi những lời truyền dạy “kỳ lạ” của Đức Giê-su, kết quả cho thấy một “kỳ tích” đã được ghi nhận, người đó chính là ngài Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II.


Nói tới vị Giáo Hoàng này, hầu như cả thế giới đều biết câu chuyện ngài đã tha thứ cho kẻ mưu sát mình, người Thổ Nhĩ Kỳ, tên là Mehmet Ali Agca.


Trong cuốn “Ký ức và Căn Tính” (Memory & Identity do Nhà xuất bản Weidebfeld & Nicolson, UK) trang 180, Đức Giáo Hoàng kể lại rằng: “Đúng, tôi nhớ lại chặng đường tới bệnh viện. Trong một khoảng khắc ngắn ngủi, tôi đã bất tỉnh. Tôi có một cảm giác rằng tôi sẽ sống sót. Tôi bị đau và đây đã là một lý do để sợ sệt nhưng tôi có một sự tín thác lạ thường. Tôi nói với cha Stanislaw (vị thư ký riêng của Đức Thánh Cha nay là Tổng Giám Mục tại Krakow, Balan) rằng tôi đã tha thứ cho kẻ sát hạt tôi. Những gì đã xảy ra tại bệnh viện, tôi không còn nhớ.” (nguồn: internet).


Chưa dừng ở đó, chuyện được ghi lại rằng: vào năm 1983 Đức Thánh Cha đã đến nhà tù Roma thăm và ôm lấy kẻ đã bắn vào mình.


Vâng, ngài Gio-an Phao-lô II đã thực hiện rõ nét điều Đức Giê-su đã cầu nguyện trên thập giá tại Golgotha: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”.


Luận bàn về sự tha thứ, Mahatma Gandhi nói: “Kẻ yếu không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm cách của kẻ mạnh.” Victor Hugo thì nói: “Tha thứ là tôn giáo tuyệt vời nhất”. Còn Martin Luther ư! Ông ta nói: “Tha thứ là mệnh lệnh của Chúa”.


Là mệnh lệnh của Đức Giê-su, thế nên, đã là một Ki-tô hữu, chúng ta phải thực thi những gì Ngài đã truyền dạy, đó là: yêu thương và tha thứ.


Phải yêu thương nhau, như Đức Giê-su đã yêu thương chúng ta. Và, phải tha thứ, vì lời Đức Giê-su đã phán truyền: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.” (x.Lc 6, …37).


Ngày nay, tuy chúng ta đang phải sống trong một thế giới đầy bạo lực, một thứ bạo-lực-ăn-miếng-trả-miếng, thế nhưng, vì là một Ki-tô hữu, chúng ta không thể thiếu lòng bao dung và sự tha thứ. Chúng ta vẫn phải “có lòng nhân từ” vì Thiên Chúa “là Đấng nhân từ”, Đức Giê-su đã nói như thế. (Lc 6, 36).


Cuộc sống hôm nay, còn lắm kẻ lầm lạc, còn lắm kẻ thiếu nhân cách, thích gièm pha, ưa xúc xiểm gây tổn thương trầm trọng kẻ khác v.v… lòng bao dung và sự tha thứ chính là liều thuốc “hồi sinh” nhân cách những con người đó.


Chúng ta đừng xa rời thánh lễ. Thánh lễ chính là nơi đem đến cho chúng ta nguồn sức mạnh, một nguồn sức mạnh để chúng ta “đủ sức” thực thi lý tưởng mà Đức Giê-su đã truyền dạy “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em”.


Tham dự thánh lễ, chúng ta được tham dự Tiệc Thánh Thể, một bữa tiệc Thiên Chúa đã khoản đãi chúng ta bằng Mình và Máu Thánh Đức Giê-su Ki-tô - “chén Máu Thầy… đổ ra cho chúng ta và để chúng ta được tha tội”, thì có lẽ nào chúng ta không “tha thứ” cho kẻ ngược đãi chúng ta!


Vâng, thật quan trọng để chúng ta nghe thêm lời “dặn dò” của Đức Giê-su: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu đó.” (Lc 6, 38).


Lời Đức Giê-su dặn dò, đâu có gì quá khó hiểu, phải không, thưa quý vị! Đúng, không quá khó hiểu. Thế nên, để được Thiên Chúa đong-lại-bằng-đấu-đó, ngay hôm nay, bây giờ, đừng chần chờ gì nữa, chúng ta hãy: “Góp hết tương lai vào tiếng. Yêu thương trao (nhau) một đời… Hãy cố yêu người mà sống. Lâu rồi đời mình cũng qua.” (Vũ Thành An).


Vâng, sẽ đến lúc cuộc đời của mỗi chúng ta “cũng qua” Tuy nhiên, cái ngày “cũng qua” của chúng ta, không giống như cái ngày “cũng qua” của người đời. Cái ngày “cũng qua” của chúng ta, sẽ là cái ngày chúng ta được “phần thưởng lớn lao”. Và hơn thế nữa, chúng ta được Thiên Chúa nhìn nhận “là con Đấng Tối Cao” (x.Lc 6, 35).


Cuối cùng, chúng ta đừng quên, ngài Phanxicô thành Assisi cũng đã để lại cho hậu thế lời nhắn nhủ: “chính khi thứ tha là khi được tha thứ”.


Vâng, chúng ta hãy thứ tha để được tha thứ.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 12 tháng 2, 2022

Hạnh phúc là Đức Ki-tô

 “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA, và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân” (Gr 17, 7).



Chúa Nhật – VI – TN – C

Hạnh phúc là Đức Ki-tô

“Thiên Chúa muốn ta được hạnh phúc”. Vâng, đó là lời Lm. Charles E.Miller viết trong tác phẩm của Ngài, tác phẩm có tên “Sunday Preaching”. Và, con người… con người thì sao nhỉ! Thưa, con người cũng muốn mình được hạnh phúc.

Với người Tây Phương thì: “Happy New Year”. Người Việt Nam thực tế hơn, ai cũng muốn “trăm năm hạnh phúc”. Ước muốn của con người, ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời đại nào, đều là vậy.

Thế nhưng, như lời tác giả sách Thánh Vịnh nói, thì không giản dị là vậy. Con người: “Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng (ta) đã khuất rồi” (Tv 90, 10).

Ôi! Nghe xong, chắc hẳn mỗi chúng ta không thể không để lại “một tiếng thở dài”! Nguyên nhân do đâu, bởi đâu… mà con người phải đối diện với “phần lớn gian lao khốn khổ” trong một cuộc đời “giỏi chăng là được tám mươi”? Thưa, nói không sợ sai, đó là do nguyên tổ Adam và Eva.

Vâng, Thiên Chúa đã ban cho nguyên tổ Adam và Eva “phúc lành”, phúc lành “thống trị mặt đất”, thế mà hai ông bà đã vứt bỏ, vứt bỏ vì cứ tưởng rằng, nghe theo lời Satan dụ ngọt, sẽ được hạnh phúc hơn, hạnh phúc “sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác”. Ai dè, sau khi nghe lời Satan, vi phạm luật cấm Chúa truyền, hai ông bà chẳng nên gì cả, chỉ thấy xấu hổ “sợ hãi và lẫn trốn” Thiên Chúa. Hạnh phúc của con người, kể từ đó, chỉ là thứ hạnh phúc “như bụi cây trong hoang địa” (Giê-rê-mi).

Thế nhưng, dù nguyên tổ đã vứt bỏ phúc lành Thiên Chúa ban, Thiên Chúa vẫn muốn con người nhận phúc lành nơi Người. Thiên Chúa vẫn muốn con người hạnh phúc, một thứ hạnh phúc vĩnh cửu, trường tồn.

Thiên Chúa, qua suốt chiều dài lịch sử con người, Người vẫn chỉ đường dẫn lối, chỉ đường dẫn lối để con người có được hạnh phúc.

Thiên Chúa chỉ đường dẫn lối cho con người bằng đủ mọi cách. Thông thường đó là, qua ngôn sứ. Với ngôn sứ Giê-rê-mi, Thiên Chúa công bố rằng: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA, và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân” (Gr 17, 7).

Qua sách Thánh Vịnh, Thiên Chúa tuyên bố rằng: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật CHÚA, nhẩm đi nhẩm lại suốt ngày đêm.” (Tv 1, 1-2).

Và, cuối cùng, là Đức Giê-su. Đúng, tác giả thư gửi tín hữu Do Thái cho biết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy (con người) qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa phán dạy (con người) qua Thánh Tử.” 

Vâng, chính Đức Giê-su, Thánh Tử Con Một Người, đã tiếp tục công bố với mọi người rằng, thế nào là người có (hạnh) phúc, người có “phúc” là bởi đâu và do đâu. Những lời Đức Giê-su công bố, ngày nay chúng ta gọi là “bát phúc” và đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca.

**

Theo lời thánh sử Luca ghi lại, thì một ngày nọ, có rất đông dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền Tia và Si-đôn đến để nghe Đức Giê-su giảng và để được chữa lành bệnh tật.

Về việc chữa bệnh. Hôm ấy, sự việc xảy ra rất kỳ diệu, kỳ diệu ở chỗ: “Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người” (x.Lc 6, 19).

Còn về việc giảng dạy. Vâng, hôm ấy, trước đám đông dân chúng cùng mười hai vị môn đệ, lời giảng dạy của Đức Giê-su rất khác lạ, khác lạ vì đó không phải là những lời dạy dỗ, nhưng là những lời công bố, công bố về một niềm hạnh phúc, một niềm hạnh phúc vĩnh cửu, trường tồn, cho những ai đón nhận những lời công bố của Ngài và xem đó như là một lối sống mới, cho mình.

Hôm ấy, Đức Giê-su đã công bố rằng: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười”.

Và, lời công bố cuối cùng, đó là: “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa.”

Thánh Luca không nói ra, nhưng chúng ta có thể tưởng tượng rằng, cả một rừng người ngơ ngác trước những lời công bố “khó nghe”, như thế. Và, có thể họ sẽ xầm xì: “Thế mà gọi là phúc à!”.

Vâng, đó chỉ là suy nghĩ, nếu có, suy nghĩ theo kiểu thế gian. Mà, suy nghĩ của thế gian nào phải là của Thiên Chúa, như có lần Đức Giê-su đã trách tông đồ Phê-rô, vì đã ngăn cản sứ vụ của Ngài: “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

Lời công bố của Đức Giê-su, hôm đó, là lời công bố của chính Thiên Chúa, và qua Đức Giê-su, Người phán hứa rằng: “Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”

Thật… thật lớn lao. Hôm ấy, Đức Giê-su công bố thêm một chi tiết, một chi tiết như để khẳng định rằng, điều khó nghe đó, đã là sự thật. Ngài công bố rằng: “Các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông đối xử như thế.”

***

Hạnh phúc mà Thiên Chúa, qua lời công bố của Đức Giê-su, ban cho con người là thế đấy. Nghe qua có vẻ nghịch lý! Vâng, một số ngươi đã cho là nghịch lý.

Sáng thế ký thuật lại việc tạo dựng con người “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” Không ít người nhao nhao lên, cho là nghịch lý. Họ… chính xác là một số nhà khoa học đã phản đối và cho rằng nguồn gốc con người “bắt nguồn từ loài vượn cổ.” Và, đó là lý do một số người tin rằng chính họ, chính họ chứ không là ai khác “đã từng trải nghiệm thế nào là hạnh phúc.”

Luật Chúa dạy phải “một vợ một chồng”, nhiều người đã không ủng hộ và cho rằng, xưa kia “trai năm thê bảy thiếp” có ai nói gì đâu! Luật Chúa dạy, hôn nhân phải là một nam một nữ, nhiều người đã đi ngược lại và ủng hộ hôn nhân đồng tính. Luật Chúa dạy, không được phá thai, nhiều quý bà ở Na-Uy (nếu người viết không lầm) đã tụ tập ở quảng trường nhảy cỡn lên vui mừng khi Quốc hội thông qua đạo luật tự do phá thai.

Hạnh phúc của những con người này, nói theo cách nói của Lm. Charles E.Miller, đó là: “điều ngược lại với những gì Đức Giê-su dạy bảo mới là chân lý”. Họ đã và đang đi vào tử lộ. Chớ bước theo họ. 

Không, sự nghịch lý của “bát phúc”, nếu cho là vậy, cũng không phải là tử lộ, nhưng chính là sinh lộ. Một sinh lộ cho những ai biết “quay sang Thiên Chúa và đặt niềm tin vào Ngài”.

Vâng, Lm. Charles E.Miller khẳng định như thế đấy. Ngài Lm. nói tiếp rằng: “Đói khát vẫn có thể hạnh phúc, nếu ta để cơn đói khiến mình ao ước có Chúa lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn, chứ không chỉ trong dạ dày. Khóc than vẫn có thể hạnh phúc, nếu nỗi ưu phiền của chúng ta phát xuất từ việc ‘không’ thi hành ý Chúa trong mọi sự.”

Để biện minh trước những kẻ cho rằng lời Đức Giê-su công bố khó nghe, tưởng chúng ta nên nghe (lại) lời chia sẻ của Đức TGM. Ngô Quang Kiệt.

Vâng, ngài TGM có lời chia sẻ: “Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai chương trình của Chúa.

Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời.

Sau cùng, Chúa không khuyến khích cảnh nghèo, càng không khuyến khích những người vì lười biếng mà trở nên nghèo. Chúa chỉ khuyến khích những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo”.

Bây giờ, chúng ta nghe lại lời ngôn sứ Giê-rê-mi thêm một lần nữa nhé, nghe lại để biết rằng: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA, và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân”. Nghe lại để biết rằng: “Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái” (x.Gr 17, 8).

****

Hôm ấy, Đức Giê-su không chỉ công bố những mối phúc, Ngài còn nêu ra những mối họa, những mối họa như là lời cảnh báo: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ bị đói. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than”.

Nghe thấy “ghê ghê”, phải không, thưa quý vị! Thật ra thì không quá ghê lắm đâu. Chúng ta… chúng ta vẫn có thể hóa giải những mối họa này.

Với mối họa “giàu có” ư! Thưa, giàu không phải là tội. Xưa, Ông Gióp “là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Đông”, thì đã sao! Nếu chúng ta được Chúa ban cho giàu có, đừng hành xử như ông nhà giàu trong dụ ngôn “ông nhà giàu và Lazaro nghèo khó” (x.Lc 16, 19-31). Vâng, “Đừng xòe tay ra nhận, rồi nắm lại khi phải cho đi.” (Hc 4, 31).

Với việc được “no đủ” ư! Hãy thực hiện lời sách châm ngôn khuyên: “Đừng làm cho kẻ đói phải buồn tủi…”

Hãy “vui với kẻ vui, khóc với người khóc” (x.Rm 12, 14). Đó chính là cách thức chúng ta hóa giải mối họa cuối cùng, mối họa “sẽ phải khóc than”, mà Đức Giê-su đã công bố.

Như vậy, những lời chúc “phúc” mà Đức Giê-su đã truyền dạy cho chúng ta, có gì là “khó” đón nhận! Cũng vậy, những “mối họa” mà Đức Giê-su đã cảnh báo cho chúng ta, có gì là khó hóa giải?

Không… không có gì khó đón nhận. Và, không có gì khó hóa giải. Chỉ cần một cử động của tâm hồn, một tâm hồn mở rộng đón nhận Đức Giê-su và thực hiện lối sống, lối sống mà Ngài đã truyền dạy: “Hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em”.

Đón nhận Đức Giê-su và chấp nhận sống lối sống Ngài đã công bố, Lm.Charles nói: “Đó là cách duy nhất để được Chúa chúc phúc, để có hạnh phúc thật sự”. Nói, theo cách nói của lời một bản thánh ca: “Hạnh phúc là Đức Ki-tô”.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 5 tháng 2, 2022

Chính Chúa, Người sẽ ra tay

 Hôm ấy, tất cả họ đã ký thác đường đời mình cho Thầy Giê-su, qua việc “bỏ hết mọi sự mà theo Người.” (x.Lc 5, 11).



Chúa Nhật – V – TN – C

Chính Chúa, Người sẽ ra tay

Mùng một tết (âm lịch) hằng năm, như một truyền thống đẹp, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cử hành thánh lễ “Cầu Bình An”. Nói về hai chữ Bình An, có vẻ như những ngày gần đây, nhiều người đã xem đó như là lời thăm hỏi tốt đẹp nhất.

Thật vậy, kể từ khi đại dịch Covid 19 xuất hiện, cuộc sống của con người quá bất an. Mới điện thoại cho nhau hôm qua, thế mà hai ba ngày sau, “bạn tôi” đã qua đời. Thế nên, gặp nhau, hay qua những tin nhắn trên sms, đại đa số đều có lời thăm hỏi: “Gia đình có bình an không? – Nhà mình có bình an không?”

Vâng, trong một thế giới ngày một bất an, bất an bởi chiến tranh, bất an bởi thiên tai, bất an bởi dịch bệnh, ngày đầu năm cầu bình an là điều phải đạo.

Đức Giê-su, sau khi từ cõi chết sống lại, điều đầu tiên Ngài thực hiện, khi hiện ra với các người môn đệ của mình, cũng chỉ là một lời chúc bình an: “Bình an cho anh em”.

Giáo Hội với vai trò là người tiếp nối Đức Giê-su thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, không chỉ tiếp tục gửi đến người tín hữu lời chúc bình an trong mỗi thánh lễ hằng ngày: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, mà còn mời gọi người tín hữu hãy đón nhận với tất cả tâm tình ký thác.

Thánh Vịnh 36, đáp ca trong thánh lễ mùng một tết, chính là lời mời gọi chân tình: “1.Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn! Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng. Bạn hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay.

ĐK: Bạn hãy ký thác đường đời cho Chúa! Và Chúa, chính Chúa, Người sẽ ra tay. Bạn hãy ký thác đường đời cho Chúa! Và Chúa, chính Chúa, Người sẽ ra tay.

2.Chúa giúp con người bước đi vững chãi. Ưa chuộng đường lối mà họ dõi theo. Dẫu họ có vấp cũng không ngã gục. Bởi vì có Chúa, Người đã cầm tay.” (Ký thác cho Chúa: Lm Thành Tâm)

Chính người viết đã chứng kiến, hàng ngàn tín hữu, hàng ngàn người tín hữu tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Saigon, đã cất tiếng hát vang bài thánh ca này, với tất cả niềm tin ký thác, vào ngày lễ Minh Niên 2022, vừa qua. (Nếu có thời gian, quý vị hãy vào youtube nghe bản thánh ca này)

Mà, đâu phải mới hôm nay, nhưng là trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử Ki-tô giáo, cũng đã có hàng tỷ… hàng tỷ người Ki-tô hữu đã “ký thác đường đời cho Chúa”.

Dễ nhận ra nhất, dễ nhận ra những nhân vật đầu tiên đã ký thác cuộc đời mình cho Chúa, chính là “bốn môn đệ đầu tiên” của Đức Giê-su. Câu chuyện về bốn người môn đệ này, được ghi trong Tin Mừng thánh Luca. (Lc 5, 1-11). 

**

Câu chuyện xảy ra ở “hồ Ghen-nê-xa-rét”. Hôm ấy, “Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ”. Sự xuất hiện của Đức Giêsu, lập tức được loan đi rất nhanh. Và rồi, một cảnh tượng có vẻ như không được trật tự cho lắm, đó là: “dân chúng chen lấn nhau đến gần Ngài, để nghe lời Thiên Chúa”.

Sự chen lấn của dân chúng là một sự kiện vẫn thường xảy ra. Có lẽ ai cũng muốn được đứng gần Ngài, gần Ngài để dễ nghe hơn chăng!

Hôm đó, họ đến rất đông. Và, để vãn hồi trật tự, “Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-mon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút.”

Con thuyền của ông Simon, sau khi được chèo ra xa bờ, lập tức trở thành “tòa giảng”. Trên thuyền (tòa giảng), Đức Giêsu giảng dạy đám đông.

Đức Giê-su đã giảng những gì? Thưa, không thấy thánh Luca cho biết. Chỉ biết, sau khi “giảng xong”, Đức Giê-su bảo ông Si-mon “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5, 4).

Chèo ra chỗ nước sâu! Vâng, đây là một lệnh “lạc”. Lạc là bởi, cả một Biển Hồ rộng lớn bao la, chỗ-nước-sâu là chỗ nào? Đức Giêsu, con-bác-thợ, thợ mộc… lại rành “ngư trường” hơn tay ngư phủ lão làng Simon sao!  

Hơn nữa, “ban đêm” là một thời điểm rất thuận lợi cho việc đánh bắt cá, và như lời ông Simon nói: “chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả…”, giờ đây, sáng bảnh mắt rồi, con-bác-thợ lại bảo ra khơi thì có nghịch lý không kia chứ!

Nếu là chúng ta, có thể chúng ta không tuân lệnh. Thế nhưng, ngư phủ Simon, thật ngạc nhiên, ông ta lại “vâng lời” anh thợ mộc Giêsu. Tại sao ư! Vâng, thánh Luca không cho biết gì, nhưng chúng ta có thể tin rằng, ông Simon vâng lời là bởi ông nhìn ra Đức Giêsu là một bậc Thầy, không phải là một loại “thầy dạy nghề” nhưng là bậc Thầy của “quyền năng.”

Chính mắt ông Simon chứng kiến Thầy Giêsu, tuy chẳng phải là một lương y, nhưng chỉ một lời “ra lệnh” thế mà “bà mẹ vợ” của ông ta “đang bị sốt nặng” bỗng nhiên “cơn sốt biến mất” (Lc 4, 38-39).

Cho nên, hôm nay, mệt thì có mệt đấy, nhưng thi hành “lệnh” của Thầy Giêsu, một lần thôi, thì đã sao! Kệ… Cứ “ký thác” chuyến đánh bắt này cho Thầy Giê-su “có ra sao thì ra”.

Thế là họ ra khơi. Hôm ấy, ông Simon nói: “Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Và phép lạ đã xảy ra. Câu chuyện được kể rằng: “Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới” (Lc 5, 6).

Hôm ấy, để có thể đem cá vào bờ “Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm” (Lc 5, 7).

***

Ông Simon đã ký thác chuyến đánh bắt cá của mình cho Thầy Giê-su. Và, Thầy Giê-su đã hoàn thành những gì ông Simon đã ký thác. Ông Simon đã ký thác công việc mình cho Thầy Giê-su, và sự ký thác của ông Simon đã không vô hiệu.

Không vô hiệu, không chỉ ở chuyện “bắt được rất nhiều cá” nhưng còn ở chuyện, đôi mắt ông Simon đã nhận ra rằng: Thầy Giê-su giờ đây chính là “Chúa”, một vị Chúa mà ông phải “sấp mặt dưới chân Ngài” để thú nhận rằng: “con là kẻ tội lỗi”.

Chưa hết, sự ký thác của ông Simon còn tác động đến những người bạn chài của ông: hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an. Hai vị này cũng… “cũng kinh ngạc” như “ông Simon và tất cả những người ở đó với ông đều kinh ngạc”.

Vâng, tất cả mọi người đều kinh ngạc vì Thầy Giê-su đã cho họ “được phỉ chí toại lòng”. Hôm ấy, tất cả họ đã ký thác đường đời mình cho Thầy Giê-su, qua việc “bỏ hết mọi sự mà theo Người.” (x.Lc 5, 11).

“Isaia đã học được bài học này trước cả Phê-rô”. Chia sẻ đoạn Tin Mừng này (Lc 5, 1-11) Lm Charles E.Miller nói tiếp: “Thoạt đầu, ngài Isaia không muốn đảm nhận vai trò ngôn sứ trước mặt dân Chúa vì cảm thấy mình không xứng đáng. Isaia tự đánh giá mình là kẻ ‘môi miệng ô uế’. Lẽ ra ông đã khước từ lời kêu gọi của ĐỨC CHÚA để theo đuổi một nếp sống khác. Nhưng Thiên Chúa chọn ông. Một trong các thần Xê-ra-phim chạm vào miệng ông, một biểu trưng cho ơn gọi của Chúa, và ông đáp lại ngay ‘Dạ con đây, xin sai con đi’. Ông trở thành một trong các đấng tiên tri cao cả nhất vì đã tuân theo đường lối của Chúa”. 

****

Simon Phê-rô và các bạn chài của ông đã ký thác đường đời mình cho Chúa. Ngôn sứ Isaia “đã học được bài học này trước cả Phê-rô”. Với thánh Phao-lô, ngài đã nhận ra rằng: “Tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa…” (1Cor 15, 10). Nói chung, các ngài đã ký thác. Và, “chính Chúa, chính Chúa, Người (đã) ra tay”.

Mùng một tết đã qua đi. Nhiều mùng một tết khác cũng sẽ qua đi. Chúng ta… mỗi chúng ta đã ký thác đường đời mình cho Chúa! Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, hãy nhớ rằng “hãy ký thác – đừng ký gởi”.

“Bạn hãy ký thác đường đời cho Chúa! Và Chúa, chính Chúa, Người sẽ ra tay.” Thiên Chúa muốn chúng ta ký thác, không phải ký gởi. Ký thác là phó thác, là tin tưởng. Ký gởi chỉ là “gởi”, mà gởi thì sẽ có ngày lấy lại.

Đức Giê-su muốn chúng ta hãy KÝ THÁC MỌI SỰ cho Ngài, như chính Ngài đã PHÓ THÁC MỌI SỰ cho chúng ta. Tại Golgotha, trước khi trút hơi thở cuối cùng, Đức Giê-su đã kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (x.Lc 23, 46). Và, đó là lý do chúng ta đừng ký thác cuộc đời mình cho satan.

Ký thác cuộc đời mình cho satan, có thể… rất có thể chúng ta sẽ có một cuộc sống sung túc, cơm no áo ấm. Thế nhưng, đừng quên rằng, Đức Giê-su đã có lời khuyến cáo: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào ích gì”.

Lịnh truyền của Đức Giê-su, đó là, chúng ta hãy ký thác cuộc đời mình cho Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ và bảo vệ chúng ta cho đến cuối cùng.

Nếu chúng ta ký thác đường lối mình cho Chúa, Chúa sẽ làm hoàn thành những gì chúng ta ký thác.

Nếu chúng ta ký thác công việc của mình cho Chúa, Chúa sẽ làm cho công việc của chúng ta đạt được thành quả tốt đẹp.

Nếu chúng ký thác mọi “mệt mỏi và gáng nặng” của mình cho Chúa, Chúa sẽ cho chúng ta được “nghỉ ngơi bồi dưỡng”.

Đừng ký gởi, phải là ký thác mọi sự… ký thác mọi sự cho Chúa. Ký thác mọi sự cho Chúa, chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự chăm sóc của Chúa, nhận ra phước hạnh kỳ diệu của Ngài. Thánh Phao-lô gọi đó là “ơn Người ban cho tôi”.

Vâng, Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi sự, nếu chúng ta ký thác mọi sự.

Như ông Simon khi xưa, đã nói: “vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Thì nay, chúng ta hãy nói: “Tin lời Chúa, con ký thác cuộc đời mình cho Ngài.”

Simon Phê-rô với niềm tin phó thác, ông và các bạn chài đã “được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm”. Hôm nay, chúng ta với niềm tin phó thác: “Chính Chúa, Người sẽ ra tay”.

Petrus.tran

Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...