Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2022

Hãy mở tiệc ăn mừng…

 “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…” (x.Lc 15, 21).



Chúa Nhật IV – MC – C

Hãy mở tiệc ăn mừng…

Bốn mươi ngày trước lễ Phục Sinh, (không tính các ngày Chúa Nhật), được gọi là Mùa Chay. Và, Mùa Chay, như chúng ta được biết, là mùa mời gọi mọi người “sám hối”. Mời gọi sám hối, hoán cải, trở về.

Sám hối, hoán cải, trở về cũng đã được Đức Giê-su mời gọi trong những ngày ra đi loan báo Tin Mừng. “Anh em hãy sám hối và tin… “ Đó… đó là lời Đức Giê-su đã mời gọi.

Chúng-ta-hãy-sám-hối-và-tin, tin rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16).

Chúng-ta-hãy-sám-hối-và-tin, tin rằng: “(Thiên Chúa) không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống.” (Ed 33,11).

Vâng, Đức Giê-su, trong những ngày ra đi loan báo Tin Mừng, Ngài đã cho mọi người nhìn rõ nét một Thiên Chúa “không muốn kẻ gian ác phải chết”, một Thiên Chúa “muốn nó ăn năn để được sống”, qua một dụ ngôn, dụ ngôn này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca, với tiêu đề: “Người Cha Nhân Hậu” (Lc 15, 11-32).

**

Câu chuyện được bắt đầu bằng việc mô tả khung cảnh một gia đình: “Có hai con trai.” Có hai con trai quả một “ước mơ đẹp” mà không phải ai cũng có, phải không, thưa quý vị!

Buồn thay! Ước mơ đẹp không còn đẹp khi “người con thứ” đến gặp cha mình và nói: “Thưa cha, xin cho con phần gia tài con được hưởng.”

Trời ạ! Đang sống ấm êm với cha mình, nay lại: “xin phần gia tài được hưởng” là sao đây! Với người Do Thái, hành động này là một hành động hiếm thấy. Hiếm thấy vì theo luật, con trai cả là người có quyền ưu tiên. Nay người con thứ lại xin, hóa ra anh chàng này lại đòi luôn quyền trưởng nam chăng! Đúng là hơi xấc xược. Hơi xấc xược, nhưng người cha vẫn chia. Ông ta “chia của cải cho hai con.” (x.Lc 15, …12).

Người con thứ, khi đã được toại nguyện, “ít ngày sau”, (chắc khoảng một hai ngày gì đó), chuyện kể tiếp rằng: “(anh ta) thu gom tất cả rồi trẩy đi phương xa”.

Đi phương xa, chắc là anh ta đi rất xa, xa khỏi nơi khỉ ho cò gáy, nơi ngày nào cũng phải đối mặt với “khỉ và cò”. Mà, có tí tiền rủng rỉnh, sao lại không làm một chuyến đi xa nhỉ!

Vâng, bất chấp ngày mai có ra sao thì ra. Anh ta đã đi… “đi bơ vơ trên ghềnh đá, trên sườn non chân ngựa hoang bước mơ hồ.” Anh ta đã đi… “đi rong chơi, như là gió như là mây đi tìm quên cơn mê này.”

Thánh Luca đã mô tả chuyến ra đi của anh ta như thể là một chuyến đi bão táp. Mà thật vậy, những cơn bão đam mê, đã cám dỗ anh ta “sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.” Những cơn bão đam mê đã khiến anh ta “ăn tiêu hết sạch” tiền bạc của mình.

Và rồi, “xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp.” Vâng, như người xưa có nói “đói đầu gối phải bò”, người con thứ, đói quá, nên anh ta đã “bò” đến một trang trại xin ở đợ.

Chủ của anh ta là “một người dân trong vùng, người này sai anh ta ra đồng chăn heo”. Nhìn đàn heo đang đùa giỡn bên những chiếc máng đầy thức ăn, anh ta “ước ao lấy đậu muồng heo ăn nhét cho đầy bụng…” tiếc thay! “chẳng ai cho ăn”...

Chìm trong tủi nhục, anh ta “hồi tâm và tự nhủ: biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta lại ở đây chết đói!” Ừ! Tại sao ta lại phải ở đây để chết đói! Vâng, có phần chắc, anh ta đã lẩm bẩm như thế.

Trong một cơ thể bắt đầu “phàn nàn” vì đói khát, anh ta thì thầm nói với lòng mình, rằng: “Thôi, ta đứng lên đi về cùng cha, và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.

Chỉ xin “làm công”, chẳng lẽ cha mình không cho sao! Và rồi, chuyện kể rằng: “anh ta đứng lên đi về cùng cha”. (x.Lc 15, 20).

Còn người cha! Thái độ của ông ta với người con thứ như thế nào? Thưa, thật đúng với những gì Kinh Thánh nói: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá?”

Thì đây, chúng ta cùng nghe thánh Luca kể tiếp, nhé.

Vâng, thánh Luca kể tiếp rằng: “Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để.”

Người cha, thánh Luca không nói, nhưng chúng ta không thể không nói, rằng, ông ta quả là một người cha “từ bi và nhân hậu… đại lượng và chan chứa tình thương” Ông ta đã “không nỡ với người con, như người con đáng tội, và không trả người con theo lỗi của người con.”

Người cha, với những “nụ hôn” của của tình yêu và tha thứ, đã làm cho tâm hồn người con rung lên những tiếng nức nở nghẹn ngào. Anh ta cất lên những lời thống hối xót xa: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…” (x.Lc 15, 21).

Chẳng-còn-đáng-gọi-là-con-cha-nữa, sao! Không! Làm gì có chuyện đó! Con ta vẫn ta con ta… Vâng, đó là sự thật. Sự nhân hậu và độ lượng của người cha, đã biến tâm hồn cô đơn của ông, trở thành một tâm hồn “chan chứa tình thương”, để rồi, ông đã tuôn đổ tình thương của mình qua việc thúc giục các đầy tớ “mau đem áo đẹp ra mặc cho cậu ta, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu...”

Màu đen của tang tóc đã được biến thành màu hồng, màu của niềm vui. Hôm đó, người cha rất vui, ông ta đã sai gia nhân “đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt… mở tiệc ăn mừng”. Ông ta vui vì “…con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (x.Lc 15, 24).

***

Thiên Chúa, qua hình ảnh người cha trong dụ ngôn, Người đúng là Đấng “Chẳng trách cứ luôn luôn. Không oán hờn mãi mãi”.

Thiên Chúa không đòi hỏi “công đức” của con người, nhưng Thiên Chúa nhìn đến sự “hồi tâm và hối cải” nơi con người.

Người con thứ trong dụ ngôn đã không có được một việc làm nào được gọi là “tốt lành”, ngoại trừ việc “sống phóng đãng”, thế nhưng, nhờ anh ta “hồi tâm và hối cải”, do đó anh ta đã nhận được một cách nhưng không, lòng từ bi và nhân hậu của người cha.

Thánh Phaolô, người đã có kinh nghiệm về điều này, khẳng định rằng “Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người” (2 Cor 5, 18).

Rồi ngài Phao-lô nhấn mạnh “Đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa” (Ep 2, 8).

Vâng, ân huệ của lòng Chúa thương xót, cho những ai biết “sám hối và trở về”. Đừng nghi ngờ gì cả. Và hãy vui mừng khi một ai đó nhận được “một ân huệ của Thiên Chúa” khi họ sám-hối-trở-về.

Đừng nghi ngờ vào lòng Chúa thương xót. Và đừng “nổi giận” như người con cả trong dụ ngôn đã nổi giận “không chịu vào nhà” trước lòng thương xót của người cha đối với em mình.

Này anh hai ơi! Anh không nhớ cha mình đã “chia của cải cho (cả) hai con” sao! Thế nên, có gì phài kèn cựa với em mình, khi thấy người cha “đã làm thịt một con bê béo” đãi đằng cậu ấy”! Có gì phải ganh tỵ vì “chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con”, để làm một cái lẩu dê, “ăn mừng với bạn bè”! Sao (hồi ấy) anh không mạnh dạn đến “xin cha một con dê!”

Một lần nọ, Đức Giê-su dạy rằng: “Cứ xin thì sẽ được”. Ngài nói tiếp: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em vốn là kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em. Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?”

Thế nên, nếu chúng ta (lỡ) là người anh cả, “đừng ganh tỵ”, thánh Phao-lô khuyên thế. Cũng đừng nghi ngờ tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa.

Với chúng ta hôm nay, đừng quên, đã có lần Đức Giê-su nói: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?”

Lòng thương xót của Chúa không loại trừ một ai. Nhất là đối với những ai rơi vào hoàn cảnh như người con thứ trong dụ ngôn.

Trở lại với người con thứ, rất có thể, trong một giai đoạn nào đó của đời người, chúng ta sẽ là “người con thứ”. Chúng ta kiêu hãnh và ngạo mạn. Với một gia tài là học vấn và kiến thức, chúng ta sẵn sàng rời bỏ mái ấm “gia đình Kitô giáo”, tìm đến những vùng đất xa lạ, để phung phí giá trị của tự do, mà Thiên Chúa đã ban cho, để khước từ niềm tin truyền thống, mà Giáo Hội đã truyền dạy, để buông mình vào đam mê và dục vọng, để háo hức tìm kiếm chủ thuyết mới, những chủ thuyết chỉ sản sinh bạo lực lẫn hận thù, để lớn tiếng hô hào tự do luyến ái, tự do phò lựa chọn, tự do thờ quấy và phù phép, v.v…

Không… tất cả những thứ đó, cuối cùng, rồi cũng dẫn chúng ta đến những “cơn đói” khác, nghiêm trọng hơn, khủng khiếp hơn. Đó là, những cơn đói, “đói tiền, đói tình, đói quyền lực, đói danh vọng”, là những cơn đói không có gì có thể lấp đầy. Những cơn đói này sẽ dẫn chúng ta đến “thung lũng âm u nghi ngờ của chết chóc.” Và, cái kết, đó là chúng ta “sẽ nằm im chết bên đường”.

Nhà thần học người Hà Lan, Henri Nouwen, sau khi đọc xong “dụ ngôn người cha nhân hậu”, ông ta thú nhận rằng, câu chuyện này đã tác động phần nào cuộc hành trình tâm linh của ông. Và ông đã để lại một lời khuyên, khuyên rằng, “tất cả mọi người Kitô hữu, kể cả ông, luôn phải chiến đấu để được giải thoát khỏi những ‘sự yếu đuối’ cố hữu, thể hiện qua tính cách của hai anh em, hầu có thể trải nghiệm sự tăng trưởng tâm linh mà trở thành người cha hy sinh, sẵn sàng ban cho và sẵn lòng tha thứ” (nguồn: internet).

Người viết… người viết đã ngồi thinh lặng rất lâu… sau khi đọc lời khuyên của nhà thần học này. Vâng, ngồi rất lâu và tự hỏi làm thế nào để chiến đấu “chiến đấu để được giải thoát khỏi những sự yếu đuối cố hữu, thể hiện qua tính cách của hai anh em”, trong dụ ngôn?

Tạ ơn Chúa, Lm Charles E. Miller, trong tác phẩm “Sunday Preaching”, có lời khuyên, rằng: “Hãy tự vấn lương tâm để nhận thức được nếp sống hiện tại của mình. Chúng ta cần thành khẩn tự nhủ, như đứa con hoàng đàng, về những gì mình đã làm và chưa làm được trong mối quan hệ với Thiên Chúa và với dân Ngài. Ta nên tự hỏi, mình đang hướng về đâu, trong cuộc sống đời này. Và khi nhận ra là cần phải thay đổi, ta nên tự ấn định một việc đền tội, phương pháp này sẽ giúp đảo ngược nếp sống chúng ta”.

“Thành khẩn tự nhủ…” với ai! Vâng, chắc chắn là với Chúa. Với Chúa, qua Bí Tích Giải Tội, ngài Lm. Charles, đã có lời khuyên như thế. Vâng, đó là một cử chỉ khiêm hạ, khiêm hạ cho việc sám hối và trở về.

Vâng, nếu chúng ta khiêm hạ đến với Bí Tích Giải Tội, chúng ta (chắc chắn là vậy) sẽ được nghe tiếng Đức Giê-su phán truyền: “Hãy mở tiệc ăn mừng.”

Petrus.tran

Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2022

Chúa muốn chúng ta sinh hoa trái

 “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.”



Chúa Nhật III – MC – C

Chúa muốn chúng ta sinh hoa trái

Sám hối là gì? Thưa, nghĩa là: “ăn năn, hối hận về tội lỗi của mình và mong được sửa chữa.” Khi nói tới sám hối, có thể nói, đó là một việc mà không một ai được miễn trừ. Tại sao? Thưa, “vì mọi người đều phạm tội.”

Có một nhà truyền giáo, trong một bài giảng về sám hối, ông ta có lời chia sẻ, rằng: “Không ai có thể nói rằng mình vô tội, không nhiều thì ít, mỗi chúng ta đều có những phút lầm lỡ, có khi cố ý, có khi vô ý, chúng ta đều đã có những lúc làm những điều không đáng làm, nói những lời không đáng nói, suy nghĩ những điều không đáng suy nghĩ. Đã có những lần chúng ta làm những việc mà mình phải tự thẹn với lương tâm. Do đó chúng ta không thể cho rằng mình là người vô tội mà đã có tội thì chúng ta phải ăn năn. Ăn năn vì vậy dành cho tất cả mọi người, không chừa một ai”. (nguồn: internet)

Thiên Chúa muốn mọi người ăn năn sám hối. Qua môi miệng ngôn sứ Edekien, Người phán truyền, rằng: “Ta chẳng vui gì kẻ gian ác chết, nhưng vui khi nó ăn năn sám hối để được sống.” (Ed 33, 11)

Với Đức Giê-su thì sao nhỉ! Thưa, cũng vậy. Sám hối chính là thông điệp được Ngài công bố, ngay khi bắt đầu ra đi loan báo Tin Mừng: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”

Trong ba năm ra đi loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su luôn là người khơi dậy lòng sám hối không chỉ nơi tội nhân mà còn ngay cả với những người tưởng như mình là người chân chính.

Vâng, những người tưởng-như-mình-là-người-chân-chính thường cho rằng, những người gặp tai ương hoạn nạn, thường là những kẻ tội lỗi, tội lỗi hơn kẻ khác. Họ cho rằng những con người đó bị “Thiên Chúa phạt”.

Đức Giê-su, với tấm lòng từ bi và nhân hậu, Ngài không khuyến khích lối suy nghĩ tiêu cực như thế. Và rồi, vào một ngày nọ, Ngài đã dạy cho những con người này (và cũng là cho chúng ta hôm nay), một bài học để họ mở to đôi mắt của mình mà nhìn thấy, rằng: “Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương. Người không xử với ta như ta đáng tội. Và không trả cho ta theo lỗi của ta”. Bài học này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca (13, 1-9).

**

Câu chuyện được ghi lại, rằng: Hôm đó, nhân cơ hội Đức Giê-su đang nói với một số người chuyện liên quan đến đời sống cộng đồng, trước một cộng đồng muốn đưa ra một nhận xét thì phải biết “xét xem cái gì là phải”, thì bỗng nhiên có mấy người đến gặp Ngài.

Nhóm người này đến gặp Đức Giê-su để làm gì? Thưa, họ kể lại cho Ngài nghe chuyện “những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng” (Lc 13, 1).

Tại sao họ lại kể câu chuyện này cho Đức Giê-su nghe? Thánh Luca không cho biết lý do. Vâng, dù không nói lý do, nhưng chúng ta có thể nghĩ rằng, những người này có “ý gì đó”, để chất vấn Đức Giê-su, sau khi Ngài nghe xong chuyện này.

Theo quan niệm của Do Thái giáo, người ta cho rằng, những người gặp hoạn nạn, tai nạn, v.v… thường là do tội lỗi của người ấy gây ra. 

Nhớ, hôm Đức Giê-su chữa một người mù từ thuở mới sinh, chính các môn đệ đã chất vấn Thầy mình, rằng: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta” (x.Ga 9, 2).

Ai đã phạm tội! Thưa, tác giả sách Thánh Vịnh có lời dạy, rằng: “lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (x.Tv 51, 7).

Ai cũng mang tội “khi mẹ mới hoài thai.” Vậy, cớ gì lại hỏi: Anh ta hay cha mẹ anh ta! Vâng, hôm ấy, để trả lời cho các môn đệ, Đức Giê-su nói “Không phải thế đâu…”

Còn hôm nay ư! Vâng, hôm ấy, sau khi nghe câu chuyện về những người Galile bị giết, không đợi những người kể chuyện chất vấn mình, Đức Giê-su chất vấn họ ngay lập tức. Ngài nói: “Các ông tưởng mấy người Galile này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galile khác sao?”

Tiếp đến, Đức Giê-su dạy cho mấy “ông tám” đó một bài học, một bài học có lẽ hôm nay chúng ta cũng cần học. Bài học rằng: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.”

Nói xong, Ngài kể ra một trường hợp khác đầy thương tâm, đó là chuyện “mười tám người bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết.”

Mười tám người này, Đức Giê-su nói: “Các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao?”

Trước sự thinh lặng của mọi người, Đức Giê-su thẳng thắn nói lại điều Ngài đã nói: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.

***

Tai ương, hoạn nạn xảy đến với con người ư! Vâng, Đức Giê-su nói: “…là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện”. Công-trình-của-Thiên-Chúa- được-tỏ-hiện, chứ không phải là vì người đó “tội lỗi”. Với cái nhìn đức tin, đó là một sự huyền nhiệm.

Thật vậy, chúng ta hãy nghe lại câu chuyện ông Gióp, một câu chuyện cho ta thấy, tai ương, hoạn nạn là một sự huyền nhiệm.

Vâng, Kinh Thánh ghi lại: “Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp”. Ông đang sống một cuộc sống “phúc lành”. Thế rồi, tai ương và hoạn nạn xảy ra. Chưa đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ, bò lừa, lạc đà bị cướp hết, chiên dê bị lửa thiêu rụi.

Chưa dừng ở đó, bảy người con trai và ba người con gái, khi “đang ăn tiệc trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà, nhà sập xuống đè trên đám trẻ, họ chết hết”.

Còn nữa, ngay chính bản thân ông, ông bị “ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu.”

Vì ông “tội lỗi” nên Thiên Chúa trừng phạt ông sao! Thưa, không phải vậy. Cơ sự là do Satan thấy ông ta được Thiên Chúa “bao bọc, chở che”. Thế nên, Satan thách thức Thiên Chúa rằng: “Ngài cứ thử giơ tay đánh vào mọi tài sản của nó xem, chắc chắn là nó nguyền rủa Ngài thẳng mặt.” (G 1, 11).

Nếu tai ương hoạn nạn của ông Gióp là tai ương hoạn nạn của chúng ta, chúng ta sẽ nguyền-rủa-Chúa! Ông Gióp không nguyền rủa. Ông ta vẫn không một lời than van. Trước lời nhạo báng, chế diễu, xúi giục của bà vợ, rằng “Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi”. Ông lớn tiếng đáp rằng: “Cả bà cũng nói như một mụ điên. Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao!” (x.G 2, 10).

Tuy nói “nói cứng” như vậy, thế nhưng, môi miệng ông Gióp cũng không thể không thốt ra những lời thở than. Vâng, trước những đau khổ “quá lớn” như thế, ông than rằng: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi chào đời, cũng như đêm đã báo: Đứa con trong bụng mẹ là một nam nhi… Sao tôi không chết đi lúc vừa mới chào đời, không tắt thở ngay khi lọt lòng mẹ”.

Tuy nhiên, cái hay của ông Gióp, đó là, than thở nhưng không tuyệt vọng. Ông tìm đến Chúa với lời nỉ non: “Tôi sẽ thưa với Chúa: Xin đừng kết án con, xin cho con biết tại sao…?”

Và rồi, Thiên Chúa, qua môi miệng ông Ê-li-hu, nói với ông rằng: “Kiên nhẫn thêm chút nữa… Thiên Chúa dùng cái nghèo để giải thoát người nghèo, dùng khổ đau mà mở mắt họ” (x.G 36, 1… 15).

Vâng, Thiên Chúa dùng-khổ-đau-mà-mở-mắt ông Gióp. Thiên Chúa dùng-khổ-đau-mà-mở-mắt nhân gian. Thiên Chúa dùng-khổ-đau-mà-mở-mắt chúng ta.

Còn ai là người tội lỗi ư! Hãy thưa với Chúa, như ông Gióp đã thưa: “trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn” (G 42, 6). Thiên Chúa muốn như vậy. Và, Đức Giê-su cũng đã có lời cảnh báo: “nếu (chúng ta) không sám hối... thì (chúng ta) cũng sẽ…”

****

Đừng nghĩ rằng, lời cảnh báo của Đức Giê-su, là “lời hù dọa”. Hãy xem lời cảnh báo của Đức Giê-su như là một lời tâm tình, một lời tâm tình của một Giê-su giàu lòng thương xót, như có lần Ngài đã nói với các môn đệ trước đám đông dân chúng đi theo mình, rằng: “Ta thương xót đoàn dân này” (Mc 8, 2).

Lòng thương xót dẫn đến sự nhẫn nại. Khi sự nhẫn nại của Thiên Chúa được thể hiện, thì đó là “cơ hội” để tội nhân có thời gian trở về với tâm hồn ăn năn sám hối.

Vâng, hôm ấy, Đức Giê-su không quên nói đến sự nhẫn nại của Thiên Chúa đối với tội nhân bằng một dụ ngôn rất đời thường. Dụ ngôn mang tên “cây vả không ra trái” (Lc 13, 6-9).

Dụ ngôn được kể như sau: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy…”. (x.Lc 13, 6) Ba năm chưa ra trái! Vậy, là hỏng rồi!

Không biết cây vả bên Palestin thời Đức Giê-su còn tại thế, có giống cây vả hiện đang được trồng ở Việt Nam không! Theo Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam cho biết: “cây vả sau khi trồng thì đến năm thứ ba bắt đầu cho quả bói.”

Ba năm, “đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, một ‘trái bói’ cũng không thấy…” thế thì chặt quách cho rồi, phải không thưa quý vị!

Đúng, bác chủ vườn nho, khi thấy cây vả của mình tệ quá nên đã bảo người làm vườn: “Anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất. 

Người làm vườn có chặt không? Thưa không. Nếu chặt, thì câu chuyện còn gì để nói tới. Nếu chặt, thì còn đâu để chúng ta nhìn thấy một Thiên Chúa nhẫn nại và bao dung.

Hôm đó, người làm vườn nho, ông ta đã hướng đến tương lai với rất nhiều hy vọng, nên đã không ngần ngại xin ông chủ “Cứ để nó lại năm nay nữa… Tôi sẽ vun xới… và bón phân. May ra sang năm nó có trái…” (x.Lc 13, 8).

Dụ ngôn kết thúc, kết thúc với việc không thấy ông chủ vườn nho phản đối lời cầu xin của người làm vườn nho. Vâng, điều này gợi cho chúng ta nhớ đến Thánh Vịnh 136: “Vì lòng thương xót của Chúa bền vững muôn đời”.

*****

Như vậy là mọi sự đã rõ ràng. Rõ ràng rằng Thiên Chúa rất-vui-khi-chúng-ta-ăn-năn-sám-hối. Mà tại sao chúng ta không ăn ăn sám hối nhỉ!

Dưới gầm trời này, có ai là người không có tội! Kinh Thánh có lời chép: “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (x.Rm 3, 23).

Chúng ta phạm tội không chỉ vì chúng ta làm những điều không nên làm, mà còn là vì không làm những điều chúng ta nên làm. Tông đồ Gia-cô-bê có nói: “Cho nên, kẻ nào biết làm điều lành mà không chịu làm, thì mắc tội” (x.Gc 4, 17).

Thiên Chúa cũng rất vui khi tiếp theo sự ăn năn sám hối, chúng ta sẽ là một cây vả, “cây-vả-Kitô-hữu” sum suê nhiều trái.

Làm thế nào để cây-vả-Ki-tô-hữu sum suê nhiều trái? Thưa, hãy đến nhà thờ, đó là nơi cây vả Ki-tô hữu của chúng ta sẽ được các linh-mục-làm-vườn “vun xới và bón phân” bằng Thánh Thể và Thánh Kinh.

Được vun xới và bón phân bằng Thánh Thể và Thánh Kinh, cây vả Ki-tô hữu của chúng ta sẽ sinh nhiều hoa trái, hoa trái “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.”

Thử nghĩ xem, nếu những hoa trái nêu trên, được trưng bày tràn ngập trong gia đình chúng ta, chẳng phải là chúng ta sẽ có một gia đình hạnh phúc, vợ chồng ý hợp tâm đầu!

Trở về với việc sám hối, Linh mục Vinh Sơn Nguyễn Thế Thủ, trong một bài giảng tĩnh tâm Mùa Chay, có lời chia sẻ, rằng: “Mùa Chay không đơn thuần là sám hối, nhưng còn là canh tân cuộc sống của mình.”

Canh-tân-cuộc-sống-của-mình chẳng phải là cách làm cho cây vả Ki-tô hữu của mình “sẽ có trái”, sao!

Thế nên, bây giờ chúng ta hãy “thăm” cây vả Ki-tô hữu của mình. Và, hãy tự tính toán xem, nó đã trồng được bao nhiêu năm, trong ngôi vườn nho Giáo Hội!

Bao nhiêu năm! Hả, mới một năm, sao! Hay đã được hai mươi, ba mươi, năm mươi, sáu mươi năm! Nó đã sinh được nhiều hoa trái! Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, Thiên Chúa (bác chủ vườn nho), chỉ chấp nhận “để nó lại năm nay nữa”. Tất nhiên, Thiên Chúa để-nó-lại là để “sang năm nó có trái.”

Nói theo cách nói hôm nay, Thiên Chúa muốn hết-mùa-chay-này chúng ta “có trái”. Vâng, Chúa muốn cây vả Ki-tô hữu của chúng ta “có trái”. Chúa muốn chúng ta sinh hoa trái.

Petrus.tran

Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...