Thứ Sáu, 29 tháng 12, 2023

Hãy là gia đình có Chúa

 “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa.”

Chúa Nhật Lễ Thánh Gia
Hãy là gia đình có Chúa

 

tbd 291223a

Gia đình là gì? Thưa, theo quan điểm chung của xã hội, “Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến xã hội. Chức năng quan trọng nhất của gia đình là sinh sản (cha kết hôn với mẹ để cùng sinh ra con cái), bởi nó tạo ra nòi giống tương lai cho dân tộc, bảo đảm cho đất nước không bị suy vong do nạn lão hóa dân số.” (nguồn: internet).

Quan điểm của Giáo Hội Công Giáo qua “Sắc lệnh Tông Đồ Giáo dân số 11”, thì “Gia đình là tế bào đầu tiên, là vườn ươm hạt giống Đức Tin, là viên đá thứ nhất xây dựng nên tòa nhà Giáo Hội. Công đồng Vatican II tuyên bố: Ở mọi nơi và mọi lúc và nhất là ở những miền mà hạt giống Phúc Âm vừa được gieo vãi, hoặc ở những nơi Giáo Hội mới được thành lập, hay trong những nơi Giáo Hội đang gặp những trở ngại lớn lao, những gia đình Kitô giáo vẫn là chứng nhân quý giá nhất của Chúa Kitô đối với thế gian” (nguồn: ditimchanly.org).

Với quan điểm như thế, chúng ta có thể nói, cả đạo lẫn đời đều xem trọng gia đình. Mà, sao không xem trọng cho được! Kinh Thánh cho chúng ta biết: “Sau khi tạo dựng vũ trụ, trái đất với hết mọi thứ cỏ cây, thú vật, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người ‘theo hình ảnh của Ngài’. Người đã không tạo dựng nên con người cô độc. Trái lại, Người đã tạo dựng con người có nam có nữ và ban cho họ khả năng qui hướng và kết hợp lại với nhau để tạo nên cộng đoàn nguyên thủy là gia đình. (St 1, 26-27).

Vì thế, nam hướng về nữ và người nữ hướng về nam, hai người yêu thương gắn bó lại với nhau nên “một xương một thịt” (St 2, 23-24). Hai người chia sẻ bổ túc cho nhau, trợ giúp nhau cả về thể chất lẫn tinh thần và cùng hợp tác với Thiên Chúa để ‘sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất’ và làm chủ vũ trụ. Như vậy, chính Thiên Chúa là tác giả sáng tác nên tổ chức gia đình, và Người đã ban cho họ những quyền lợi để hưởng dùng, cũng như những sứ mệnh phải chu toàn.” (nguồn: ditimchanly.org).

Thế nhưng, đáng buồn thay! Ngày nay, không ít người đã không còn quan tâm đến hai chữ “gia đình”. Người ta đã không còn coi gia đình như là một tổ ấm.

Rất nhiều lý do đã được nêu ra để biện minh. Nào là do chiến tranh, nào là do ảnh hưởng từ những chủ thuyết lệch lạc, đại loại như: chủ thuyết hiện sinh, chủ thuyết vô thần và gần đây là sự cổ vũ cho một nền văn hóa sự chết, văn hóa tự do phá thai, tự do hôn nhân đồng tính.

Vâng, những lý do nêu trên, xem ra có vẻ như rất chính đáng. Nhưng, nếu chỉ dựa vào những lý do đó và cho rằng nó là tác nhân chính gây ra những cuộc khủng hoảng, những sự đổ vỡ trong gia đình thì e rằng chưa đúng lắm!

Sự đổ vỡ hay khủng hoảng trong gia đình, còn một nguyên nhân khác, đó là: sự thiếu vắng Thiên Chúa, không tuân giữ lề luật Chúa, (nặng hơn) đó là sự chối bỏ Thiên Chúa.

Kinh Thánh đã ghi lại nhiều bài học cay đắng khi một gia đình nào đó từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa. Kinh Thánh cũng đã ghi lại nhiều trường hợp gia đình đổ vỡ chỉ vì gia đình đó không tuân giữ lề luật Thiên Chúa. Gia đình nguyên tổ Adam và Eva như một điển hình.

Thiên Chúa, trong chương trình sáng tạo, Người đã tạo dựng một gia đình hoàn thiện. Gia đình đó gồm có Adam và Eva. Người đã đặt gia đình Adam-Eva vào một nơi gọi là vườn Eden.

Tại Eden, Thiên Chúa đã ban cho họ quyền làm bá chủ “cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”. Chỉ một điều duy nhất, đó là: “trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì… không được ăn” (Stk 2, 16). Đáng tiếc! Gia đình nguyên tổ bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa, hai ông bà nghe lời dụ dỗ của satan và đã ăn. Để rồi, từ khi phạm tội, sự khủng hoảng bắt đầu xảy ra trong gia đình nguyên tổ.

Sự khủng hoảng đầu tiên, đó là, hai ông bà “trốn… để khỏi giáp mặt ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa”. Không giáp mặt Thiên Chúa, kể như gia đình họ không còn sự hiện diện của Thiên Chúa.

Không có Thiên Chúa, gia đình mất đi sự gắn bó “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Mất đi sự gắn bó, gia đình Adam-Eva mất đi “hai tiếng yêu thương”. Để rồi, gia đình ông bà thành “bãi chiến trường”. Tại bãi-chiến-trường đó, hai người con là Cain và Abel trở thành thù nghịch. Kết quả người anh Cain giết em mình là Abel.

Một “tổ ấm” không còn ấm áp, hỏi sao Honoré de Balzac lại không tự hỏi: “gia đình là đường đưa ta tới thiên đàng hay đưa tới địa ngục”?

Vâng, Balzac đã tự hỏi và chúng ta cứ tự hỏi. Thế nhưng, với Thiên Chúa, Kinh Thánh cho biết, Người “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3, 14). Thế nên, “Người” không thể để cho gia thất là đường đưa tới địa ngục. Vì thế, gia thất vẫn là nơi được Thiên Chúa chúc phúc, gia thất vẫn là nơi được Thiên Chúa nhớ đến một cách đặc biệt. Điều đặc biệt đó đã được thể hiện trong một gia thất “gia thất Na-da-rét”. Qua gia thất Na-da-rét, Thiên Chúa đã thực hiện tình yêu thương của Người.

Để thực hiện tình yêu thương, Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian, không như một Tôn Ngộ Không huyền thoại, với bảy mươi hai phép thần thông biến hóa, nhưng bằng hình hài một hài nhi, được sinh ra tại Belem, trong một gia đình, người Mẹ là một Trinh Nữ tên Maria, người cha tên là Giuse và người con là Đức Giê-su.

Vâng, đó là một gia đình, một gia đình để như là mẫu mực cho tất cả mọi gia đình noi theo. Hôm nay, chúng ta gọi gia đình này là “Gia Thất Thánh”. Được gọi là “gia thất thánh” bởi, đây là một gia thất mà mọi người trong gia đình đều “có Chúa và tuân giữ lề luật Người”.

Thật vậy, dù đã được thiên sứ Chúa cho biết con mình “… nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”, nhưng không vì thế mà ông bà Giuse-Maria lại có thái độ “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Trái lại, các ngài vẫn trung thành với lề luật “Đấng Tối Cao” ban hành, do Mô-sê, công bố.

Luật Đấng-Tối-Cao dạy rằng “mọi đàn ông con trai… sẽ phải chịu cắt bì”, thế là Hài Nhi Giêsu khi đủ tám ngày, đã “làm lễ cắt bì” (Lc 2, 21). Luật Đấng-Tối-Cao dạy rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, thế là ông bà Giuse-Maria đã giữ đúng luật “đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa.” Sự kiện này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca. (Lc 2, 22-40).

**
Sự kiện này được thánh sử Luca ghi lại, như sau: “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa.”

Hôm ấy, “Có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ở trên ông”. Chính Thánh Thần đã “linh báo cho ông biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đức Ki-tô của Đức Chúa. Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ.”

Thế rồi: “Vừa lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông liền ẫm lấy Hài Nhi trên tay…”

Kinh Thánh có chép “Giấc mộng chưa thành, trái tim khắc khoải”. Hôm ấy, ông Si-mê-ôn không còn khắc khoải. Không còn khắc khoải, vì giấc mộng của ông, nay đã thành sự thật, và đã đem lại cho ông nỗi vui mừng khôn tả, sự thật đó được ông lớn tiếng nói rằng: “Muôn Lạy Chúa… Chính mắt con được thấy ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài” (x.Lc 2, 30-32).

Ánh sáng đó, vinh quang đó ông thấy, ông thấy từ nơi Hài Nhi mà ông đang ẵm trên tay. Ông chúc phúc, những lời chúc phúc đậm dấu ấn của nhà tiên tri, rằng: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng…”. Chưa hết, ông còn nói tiên tri về bà Maria, rằng: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (x.Lc 2, …35).

Hôm ấy, còn có một người đàn bà tên là Anna. Chuyện kể rằng: “Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem”.

Và rồi, “Sau khi hai ông bà làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.

***
Chúa Nhật hôm nay (31/12/2023), chúng ta mừng lễ “Thánh Gia”. Mừng lễ Thánh Gia, thế nên chúng ta sẽ nói những chuyện có liên quan đến gia đình, chăng?

Nên, nên là vậy. Bởi vì có rất nhiều chuyện liên quan đến gia đình, nhất là những gia đình Công Giáo, mà chúng ta là một trong số những gia đình đó.

Vâng, chúng ta hãy cùng nhau tự hỏi việc “có Chúa và tuân giữ lề luật Chúa” có liên quan gì đến gia đình chúng ta?

Thưa, qua phần Phụng Vụ Lời Chúa được trình bày qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, thì “có Chúa và tuân giữ lề luật Chúa” là điều cần thiết. Sự cần thiết này chúng ta thấy rõ qua ông Si-mê-ôn, rằng: “Thánh Thần hằng ngự trên ông.” Nhờ “được Thần Khí thúc đẩy ông lên Đền Thờ” vâng, nhờ đó, ông mới có thể “ẵm lấy Hài Nhi trên tay”.

Thánh Thần hằng ngự trên ông chẳng phải là ông “có Chúa”, sao! Và, khi có Thần Khí thúc đẩy, chẳng phải là chúng ta sẽ có sức mạnh để “tuân giữ lề luật Chúa”, sao!

Còn bà An-na nữa chứ! Tuy Tin Mừng không nói, nhưng chúng ta có thể tin, tin rằng, bà ta cũng được Thần-Khí-thúc-đẩy, thúc đẩy bà “không rời bỏ Đền Thờ, nhưng ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa.” (x.Lc 2, …37).

Thế nên, hãy tự hỏi, Thánh Thần có hằng ngự trên gia đình chúng ta? Thần Khí Chúa có thúc đẩy gia đình chúng ta đi Nhà Thờ? Thần Khí Chúa có thúc đẩy chúng là làm việc “bác ái”! Có thúc đẩy chúng ta sống “nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ”!

Vâng, câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, khi chúng ta thực hiện những nhân đức nêu trên, có phần chắc, gia đình chúng ta sẽ là một gia đình: “anh em (luôn) hòa thuận, láng giềng (luôn) thân thiết, vợ chồng (luôn) ý hợp tâm đầu”.

Thực hiện cả ba điều này, Kinh Thánh nói: “cả ba đều đẹp lòng Đức Chúa và người ta” (Hc 25, 1). Mà, khi gia đình chúng ta làm đẹp lòng Đức Chúa thì sao, nhỉ! Thưa, gia đình chúng ta sẽ là một gia đình có Chúa.

Vâng, khi đã là một gia đình có đạo (Công Giáo); “hãy là gia đình có Chúa.”

Petrus.tran

Thứ Sáu, 22 tháng 12, 2023

Chúa truyền lệnh, ta hãy làm theo…

 Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (x.Lc 1, 38).

Chúa Nhật IV – MV – B
Chúa truyền lệnh, ta hãy làm theo…

tbd 231223a


Như chúng ta được biết: “Mùa Vọng là khoảng thời gian bốn tuần lễ trước Lễ Giáng Sinh. Theo quan điểm của Kitô giáo, Mùa Vọng theo tiếng Việt có nghĩa là “sự trông chờ”, “sự hy vọng” và Mùa Vọng cũng là mùa đầu tiên của năm phụng vụ.

Chủ đề chính của Mùa Vọng là sự chuẩn bị mừng ngày Giáng Sinh của Chúa Giêsu năm xưa. Tuy nhiên, học thuyết thánh kinh hiện đại cho rằng, đây là sự chuẩn bị tâm linh nhằm hướng đến cuộc trở lại để phán xét thế gian của Chúa Giêsu trong tương lai.

Bầu không khí của Mùa Vọng không buồn bã như trong Mùa Chay, nhưng được liệu sao để không đi trước niềm vui tột độ của Lễ Giáng Sinh sau đó. Bằng nhiều hình thức, có thể là bốn vòng hoa hay bốn ngọn nến, nhiều nơi sử dụng nó để đánh dấu thời gian cho bốn tuần của Mùa Vọng với ý nghĩa tượng trưng: ‘Hy vọng, Tin tưởng, Niềm vui và Tình yêu’.

Màu lễ phục truyền thống trong Mùa Vọng là màu tím, nhưng vào Chúa Nhật thứ ba của Mùa Vọng (Chúa nhật Mừng Vui) thì màu lễ phục được dùng là màu hồng thay vì màu tím và Chúa Nhật đó được gọi là ‘Chúa Nhật Hồng’. Theo lễ nghi phụng vụ, ca nhập lễ ngày Chúa Nhật thứ ba mùa Vọng bắt đầu bằng câu: Gaudete – Anh em hãy vui mừng lên!” (nguồn: internet).

**
“Anh em hãy vui mừng lên!” Vâng, “Chúa Nhật Hồng – Chúa Nhật mừng vui” đã qua rồi. Tuy nhiên, nhiều điều “vui mừng” như vẫn còn lắng đọng đến hôm nay. Này nhé, niềm vui mừng đầu tiên, đó là suốt tuần qua, khắp mọi giáo xứ, giáo xứ nào cũng tổ chức những buổi “Ca nguyện mừng Chúa Giáng Sinh”. Những buổi ca nguyện này, không chỉ có sự góp mặt của nhiều ca đoàn trong giáo xứ, mà còn có cả một vài ca sĩ đương thời đến tham dự, cùng chung lời ca tiếng hát.

Theo “thông tấn xã lề đường” cho biết, trong tuần vừa qua, nhà thờ Nam Hòa có buổi ca nguyện được bắt đầu khoảng bảy giờ tối và kết thúc lúc mười một giờ đêm. Khán thính giả, có đạo hay không có đạo, lũ lượt kéo đến tham dự rất đông. Trông ai cũng “phấn khởi hồ hởi”.

Một niềm vui nữa, cũng trong tuần qua, đó là nhiều vị linh mục đã đến từng giáo xứ giúp mọi người “tẩy rửa tâm hồn” qua Bí Tích Giải Tội. Có một số bạn trẻ tâm sự rằng, xưng tội vào dịp này, Cha giải tội ít la mắng lắm! Cha chỉ nói vài lời khuyên, như Chúa Giê-su ngày xưa đã khuyên người phụ nữ ngoại tình, rằng: “Về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.”

Chưa hết… Còn một niềm vui nữa, và nếu không có niềm vui này, thì những niềm vui nêu trên, sẽ chẳng bao giờ có. Niềm vui này đã được thánh sử Luca ghi chép lại. Và, được công bố vào phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay (Chúa Nhật IV – MV – B). Vâng, đó là sự kiện “Thiên thần truyền tin cho Đức Maria”. (x.Lc 1, 26-38).

**
Sự kiện “Truyền tin cho Đức Maria” đã được thánh sử Luca ghi lại như sau: “Bà E-li-sa-beth có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua David. Trinh nữ ấy tên là Maria.”

Rồi, khi vào nhà trinh nữ, chuyện kể tiếp rằng: “Sứ thần nói: Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”

Có bao giờ chúng ta tự hỏi: Cô trinh nữ Maria này là ai! Sao lại được sứ thần của Thiên Chúa chào trân trọng như thế! “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được.” Ông Na-tha-na-en (một trong mười hai môn đệ của Chúa) chẳng phải là đã nói như thế, sao!

Vâng, ông ta có nói như thế. Nhưng đó là tư tưởng của ông ta không phải là “tư tưởng của Thiên Chúa”. Tư-tưởng-của-Thiên-Chúa khác với tư tưởng của con người.

Xưa, khi Thiên Chúa chọn Mô-sê làm người lãnh đạo dẫn dắt dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, ông ta “không phải là kẻ có tài ăn nói” Rồi, khi chọn Giê-rê-mi-a “làm ngôn sứ cho chư dân”, ông ta chỉ là một người “quá trẻ… (cũng) không biết ăn nói”, thế mà việc chọn lựa của Người, có trở ngại gì đâu!

Đúng vậy. Không có gì trở ngại. Với ông Mô-sê, chính Thiên Chúa “ngự nơi miệng” ông ta và “chỉ cho (ông ta) phải nói những gì”. Còn với Giê-rê-mi-a ư! Vâng, Thiên Chúa nói với ông ta rằng: “Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi.” (x.Gr1, 9).

Trở lại với sự kiện ‘Thiên thần truyền tin cho Đức Maria”. Maria là ai đi nữa, thì Thiên Chúa cũng đã chọn lựa rồi. Và, cũng như Mô-sê và Giê-rê-mi-a, hôm ấy, khi nghe lời chào của sứ thần, cô trinh nữ Maria “bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.”

Mặc cho sự bối rối của cô Maria, sứ thần Gap-ri-en tiếp tục nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận.” (x.Lc 1, 30-33).

Cô trinh nữ Maria đã phản ứng như thế nào trước lời nói của sứ thần! Thưa, chuyện kể tiếp, rằng: “Bà Maria thưa với sứ thần: Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

Không-biết-đến-việc-vợ-chồng ư! Không sao cả! Hôm ấy, sứ thần cho biết: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.”

Và để… để cô trinh nữ Maria mở lòng đón nhận “sứ điệp từ trời cao”, sứ thần Gáp-ri-en dẫn chứng một sự kiện vừa mới xảy ra tại nhà ông Da-ca-ri-a. Sứ thần nói: “Kìa bà Ê-li-sa-bét người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai, bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.”

Hôm ấy, sứ thần Gáp-ri-en (nói theo ngôn ngữ của giới trẻ ngày nay) “chốt lại” sứ điệp bằng một lời nói đậm thần-linh-tính: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” (Lc 1, 37).

Cô trinh nữ Maria, khi nghe lời tuyên bố đậm thần-linh-tính, nhận ra ngay “uy lực và quyền năng của Thiên Chúa qua Chúa Thánh Thần - chính Thiên Chúa đã thai dựng con trẻ này mà không cần sự tham gia của một người cha bằng xương bằng thịt.” Lm.Charles E.Miller, trong một bài giảng, đã có lời chia sẻ như thế.

Ngài Lm. còn có lời tiếp rằng: “Đây là một trẻ độc nhất vô nhị: trước đó và sau này không ai giống như em. Trẻ nhỏ này là Con Thiên Chúa từ trước muôn đời, và trong thời gian nhân tính của mình, em trở thành Con Đức Maria.”

Lời chia sẻ của ngài Charles rất chí lý. Và, chúng ta có thể nghĩ rằng, tâm hồn cô Maria cũng đã nhận ra uy lực và quyền năng của Đấng Tối Cao.

Vâng, nếu không nhận ra, làm sao cô trinh nữ Maria lại đáp lời, rằng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (x.Lc 1, 38).

***
Chúa Nhật hôm nay, qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, chúng ta được gặp một nhân vật rất quen thuộc, đó là Đức Maria - người Mẹ đáng kính của chúng ta.

Chúng ta sẽ nói gì, làm gì… khi gặp Đức Maria - người Mẹ đáng kính của chúng ta!

Phải chăng, chúng ta sẽ nói: “Mẹ ơi! đời con dõi bước theo Mẹ. Lòng con quyết noi gương Mẹ!?”

Phải chăng, Mẹ ở La-vang, chúng ta sẽ “dõi bước theo Mẹ” tới La-vang? Phải chăng, Mẹ ở Tà-pao, chúng ta sẽ “dõi bước theo Mẹ” tới Tà-pao! Bây giờ, Mẹ được đưa về Núi Cúi, chúng ta cũng sẽ “dõi bước theo Mẹ” tới Núi Cúi!

Dõi-bước-theo-Mẹ, nói theo ngôn ngữ dân gian, đó là “hành hương”. Hành hương đến những địa danh nêu trên… là một truyền thống lâu đời của người Công Giáo. Có không ít người đi hành hương đã nhận được “ít nhiều” ơn ích mà họ cầu xin Đức Maria.

Tuy nhiên, thật đáng buồn, có một vài nơi hành hương (hành hương Đức Mẹ cũng như hành hương các thánh, không tiện nêu tên ở đây) đã và đang xảy ra tệ nạn, tệ nạn “buôn thần bán thánh”.

Vâng, thật buồn, vì tệ nạn này đã làm cho một số người dõi-bước-theo-Mẹ phải nghẹn ngào ghi vào “nhật ký hành hương” của mình rằng: “Nhắc đến thấy buồn, (tệ) kia ngăn đôi đường. Nhật ký đời tôi ghi thêm một lần thương.”

Có một nơi để chúng ta hành hương, để chúng ta có thể “dõi bước theo Mẹ” và luôn luôn nhận được ơn ích, đó là những địa danh đã được ghi trong Kinh Thánh (các sách Phúc Âm).

Vâng, Phúc Âm thánh Gio-an có ghi: “Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su”.

Có… có thân mẫu Đức Giê-su! Vậy, chúng ta hãy dõi-bước-theo-Mẹ đến “Ca-na”. Hãy thực hiện những gì Mẹ đã truyền dạy ở đó. Lời truyền dạy rằng: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Cũng là Phúc Âm thánh Gio-an. Ngài thánh sử có ghi: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người.” Có thân mẫu Người! Vậy, chúng ta hãy dõi-bước-theo-Mẹ đến Golgotha. Và, hãy làm điều Chúa Giê-su đã “bảo” tông đồ Gio-an làm, đó là: “Rước Mẹ về nhà mình.”

Cuối cùng, khi gặp Đức Maria - người Mẹ đáng kính của chúng ta, điều thứ nhất và quan trọng nhất, đó là: chúng ta hãy xin… “Xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng”.

Hãy “xin vâng”, trước khi “xin ơn”. Tại sao? Thưa, bởi lời xin vâng, “sẵn lòng xin vâng” nói lên tình yêu mến của chúng ta đối với Thiên Chúa.

Đừng quên, một lần nọ, Đức Giê-su có lời tuyên phán: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ (vâng) giữ lời Thầy… Ai không không yêu mến Thầy, thì không (vâng) giữ lời Thầy.” Khi chúng ta sẵn lòng vâng giữ lời Chúa, Đức Giê-su nói: “Cha Thầy và Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” (x.Ga 14, 23).

Một phút nữa, chúng ta nán lại thêm một phút nữa để nghe một câu chuyện nói đến tầm quan trọng của việc “sẵn lòng xin vâng”, dù chỉ phải vâng lời một điều “nhỏ nhặt”.

Vâng, Kinh Thánh kể về một người tên là Na-a-man. Ông ta mắc phải một căn bệnh khủng khiếp, đó là bệnh phong hủi.

Được sự mách bảo, ông ta từ Sy-ri đi đến Israel để cầu xin tiên tri Ê-li-sa chữa bệnh cho mình. Là một người quyền thế ở xứ của mình, nên ông ta cảm thấy bị xúc phạm khi Ê-li-sa không thân hành ra đón ông. Trái lại, nhà tiên tri lại sai một tôi tớ ra gặp ông ta.

Ông Na-a-man càng cảm thấy bị xúc phạm hơn khi ông nhận được lời nhắn của Ê-li-sa, qua người tôi tớ, rằng: “Hãy đi tắm bảy lần dưới sông Gio-dan. Da thịt ông sẽ trở lại như trước, và ông sẽ được sạch.”

Nghe thế, ông ta nổi giận bỏ đi và nói: “Ta cứ nghĩ bụng là thế nào ông ấy cũng đích thân đi ra, rồi đứng và cầu khẩn danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông ta. Ông ta sẽ quơ tay lên đúng chỗ phung hủi mà chữa khỏi. Nước sông A-va-na và Pác-na ở Đa-mát chẳng tốt hơn tất cả sông ở Israel sao?”

Ông Na-a-man giận dữ bỏ đi. Nhưng các tôi tớ của ông đã hỏi ông: “Nếu tiên tri có truyền cho cha một việc khó, cha há chẳng làm sao? Phương chi rày người bảo cha rằng: Hãy tắm, thì sẽ được sạch?” Ông Na-a-man đã đủ khôn ngoan để hiểu rằng “việc vâng lời tiên tri của Thượng Đế là điều quan trọng, mặc dù dường như đó là một vấn đề nhỏ nhặt”. Vậy nên, ông đã “dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch và được chữa lành bệnh.” (x.2V 5, 1–14).

Ngoài ông Na-a-man, Kinh thánh cho chúng ta biết còn có nhiếu tấm gương mẫu mực về sự “sẵn lòng xin vâng” khác nữa. Ông Áp-ra-ham như một điển hình.

Áp-ra-ham đã chờ đợi rất nhiều năm sự ra đời của I-sa-ác, đứa con trai mà Gia-vê Thiên Chúa đã hứa ban cho ông. Ấy thế mà Thiên Chúa lại truyền lệnh cho ông, rằng: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-sa-ác… mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu” (x.St 21, 2).

Làm sao ông ta lại có thể mất đứa con trai bằng cách thức như vậy? Lệnh truyền này chắc hẳn là rất, rất khó khăn để Áp-ra-ham thực hiện. Thế mà, ông ta đã “sẵn lòng vâng lời” Gia-vê Thiên Chúa.

Áp-ra-ham và Na-a-man đã “sẵn lòng xin vâng”. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có sẵn lòng làm bất cứ điều gì mà Thiên Chúa đòi hỏi!

Xưa, nếu tại tiệc cưới Ca-na, Đức Maria đã có lời truyền dạy: “Người bảo gì, các anh cứ làm theo.” Thì hôm nay, nếu chúng ta mở lời “xin Mẹ dạy con hai tiếng xin vâng”, có phần chắc, Đức Maria cũng sẽ truyền dạy chúng ta, như thế.

Nói cách khác: “Khi Chúa truyền lệnh, ta hãy làm theo”.

Petrus.tran

Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2023

Chúng ta là chứng nhân của Chúa…

 “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (x.Ga 1, 23).

Chúa Nhật III – MV – B
Chúng ta là chứng nhân của Chúa…

tbd 161223a


Hôm nay… Vâng, hôm nay (17/12/2023) là Chúa Nhật – III – MV. Nếu ai trong chúng ta, có thời gian rảnh rỗi đi rảo quanh các nhà thờ, chúng ta sẽ thấy, tất cả những gì liên quan đến lễ Giáng Sinh, như hang đá Belem với hình ảnh Đức Maria, Thánh Giu-se và (Hài Nhi Giê-su) đều đã được trưng bày trang trọng.

Bên cạnh những hình ảnh nêu trên, chúng ta còn thấy có cả hình ảnh “những người chăn chiên sống ngoài đồng thức đêm canh giữ đàn vật” được trưng bày, đúng “y chang” như đã được mô tả trong Phúc Âm thánh Luca.

Có nhà thờ, nhờ có khuôn viên rộng rãi, nên “chơi trội”. Họ, trang trí thêm hình ảnh “ông già Nô-en” vừa to vừa cao, tay cầm kèn saxophone, nhún nhảy thổi điệu nhạc “Jingle Bells” rất điêu luyện. (thời công nghệ kỹ thuật số mà!).

Vui thôi! Phải không thưa quý vị! Vâng, vui là bởi “Ông già Nô-en là một cái tên được diễn đạt qua tên biểu trưng của thánh Nick, theo cung cách Hà Lan. Thánh Nick, còn được gọi là “thánh Nick vui nhộn”, tên thường gọi là Ni-cô-la. Ngài là Giám Mục My-ra miền Ly-ki-a hồi thế kỷ thứ 4, nay thuộc nước Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài Ni-cô-la là một người có lòng hảo tâm và thói quen tặng quà.”

“Một câu chuyện rất phổ biến về thánh nhân xoay quanh một ông bố nghèo không có gì làm của hồi môn cho ba cô con gái. Lúc mỗi cô đến tuổi thành hôn, thánh Ni-cô-la đều luôn kín đáo gởi cho người cha một bị vàng để có thể thu xếp lễ cưới. Qua nhiều thế kỷ, Giám mục Ni-cô-la trở thành biểu tượng tặng quà, vốn là một phần trong dịp mừng lễ Giáng Sinh.” (nguồn: Sunday Preaching – tác giả Lm. Charles E.Miller).

Tuy nhiên, “ông già Nô-en” dù có thế nào đi nữa, vẫn không thể “chiếm chỗ” của một người khác. Người đó là ông Gio-an Tẩy Giả.

Tại sao không-thể-chiếm-chỗ ngài Gio-an Tẩy Giả? Thưa, là bởi, ngài Gio-an Tẩy Giả, theo thánh sử Gio-an cho biết, ông là người “…được Thiên Chúa sai đến. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1, 6-8).

Đối với chúng ta hôm nay, những gì thánh sử Gio-an nói về ông Gio-an Tẩy Giả, không có gì phải bàn cãi. Nhưng, đối với người Do Thái xưa, có vấn đề, đấy!

Hồi xưa ấy, khi biết “Ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội”, người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem liền: “… cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến để “hỏi thăm sức khỏe” của ông.

Ông là ai? Mà sao “Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan”?

Sự kiện này chứng tỏ ảnh hưởng của ông Gio-an Tẩy Giả đã lan rộng khắp vùng. Và, đó là điều làm cho người-Do-Thái (chúng ta có thể nghĩ đây là những người lãnh đạo Do Thái giáo) phải đặt vấn đề, rằng: Ông ta là ai? Ông ta có tham vọng gì không?

Hôm ấy, họ hỏi ông: Ông là ai? Là ai!!! Thưa, ông Gio-an Tẩy Giả tuyên bố thẳng thắn, tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô”.

Câu trả lời của ông không giải đáp được thắc mắc của những người được Giê-ru-sa-lem cử đến. Họ hỏi ông thêm một lần nữa, câu hỏi rằng: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?”.

Vâng, đó là một câu hỏi “xách mé”. Một vị thuộc “cộng đoàn taru” (tạm dịch là “cộng đoàn tu ra”) cho biết như thế. Theo vị này, nếu dựa vào bản dịch từ bản Kinh Thánh Vulgata “Quid ergo?” thì câu hỏi sẽ là “Vậy ông là cái quái gì nào?”

Đúng, ông Gio-an Tẩy Giả chẳng là “cái quái” gì cả. Không phải là Ê-li-a, cũng chẳng phải là một ngôn sứ nào hết, như chính lời ông khẳng định, rằng: “Tôi không phải… Không phải… Không bao giờ…”

Cuối cùng, khi phái đoàn do Giê-ru-sa-lem cử đến, hỏi ông thêm một câu hỏi, rằng: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người cử chúng tôi đến?” Rất thẳng thắn, ông Gio-an đã nói về chính ông rằng: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (x.Ga 1, 23).

Vâng, ông Gio-an Tẩy Giả đã mượn lời ngôn sứ Isaia để làm câu trả lời cho mình. Thế nhưng, có vẻ như phái bộ của giáo quyền Giêrusalem không bận tâm đến. Điều họ muốn, đó là “dùng quyền phủ quyết” bắt buộc ông Gio-an chấm dứt ngay mọi việc làm mà ông đang làm “tại Bêtania, bên kia sông Giodan”.

Họ “ngứa mắt” khi ông “không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là Êlia hay vị ngôn sứ… Vậy tại sao ông làm phép rửa?” Chuyện kể rằng: “trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu”, đã gay gắt hỏi ông như thế!

Hôm ấy, rất thản nhiên, ông Gio-an Tẩy Giả trả lời rằng: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (x.Ga 1, 26).

**
Thật ra ông Gio-an Tẩy Giả đúng là một vị ngôn sứ. Cha ông, tên là Da-ca-ri-a, chẳng phải là đã được “đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao”, đó sao! (Lc 2, 67…76).

Đừng quên, Đức Giêsu – Ngài cũng đã nói với một nhóm đông người về ông Gio-an Tẩy Giả, rằng: “Nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gio-an chính là Êlia, người phải đến” (Mt 11, 14). Trước khi tuyên bố điều này, Đức Giêsu còn nói về ông Gio-an rằng “đây còn hơn cả ngôn sứ nữa”.

Đúng, ông Gio-an còn hơn cả ngôn sứ nữa. Ngôn sứ chỉ nói tiên tri về Đấng Cứu Thế. Còn ông Gio-an, ông không nói tiên tri nhưng ông là chứng nhân về Đấng Cứu Thế, như có lần ông đã nói: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng tuyển chọn”

Điều, điều ông nói “tôi đã thấy” đó là ông thấy “Thần Khí tựa như chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người - Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” (Ga 1, 32… 33).

Nói tắt một lời, thông điệp mà ông Gio-an gửi đến người-Do-Thái, hôm đó (và cũng là gửi đến chúng ta, hôm nay), đó là: Đấng Ki-tô đã đến rồi và hiện nay đang ở giữa họ, thế mà họ đã không nhận ra Ngài.

***
“Đức Giê-su Ki-tô đã đến rồi và hiện nay đang ở giữa chúng ta.” Nếu, nếu hôm nay, ông Gio-an Tẩy Giả được mời “giảng tĩnh tâm” mùa Vọng cho chúng ta, có phần chắc, ông ta cũng sẽ lớn tiếng công bố thông điệp này, cho chúng ta. Ông Gio-an Tẩy Giả sẽ chất vấn chúng ta rằng: “Thế mà, sao các anh không nhận ra Ngài?”

Ông Gio-an Tẩy Giả sẽ có lời thuyết giáo, rằng: “Là một Ki-tô hữu, các anh được mang danh Đức Ki-tô. Danh hiệu này đã được thánh Phao-lô ưu ái gọi các tín hữu ở Antiochia. Và, tất nhiên, các anh cũng sẽ được gọi là như thế.”

Ông Gio-an sẽ nói với chúng ta, rằng: “Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, được đồng hoá với Đức Kitô. Ngài đang sống giữa chúng ta. Vì, trước khi về trời, Ngài đã trìu mến nói với chúng ta, rằng: ‘Và đây, Thầy ở lại cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế’. Vậy, tại sao các anh nói: chúng tôi không thấy Ngài!”

Chúa Nhật hôm nay, qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, Giáo Hội cho chúng ta gặp lại ông Gioan Tẩy Giả. Gặp lại ông, không phải để tra xét, thẩm vấn ông, như một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đã làm, năm xưa. Nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn ông như là mẫu mực về một người chứng nhân của Đức Giê-su.

Lời mời gọi này không phải là một sự áp đặt của Giáo Hội, nhưng chính là lời truyền dạy của Đức Giê-su trước lúc Ngài về trời. Thật vậy, hôm đó, Ngài đã truyền dạy rằng: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (x.Cv 1, …8).

“…Tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Samari…”, tất cả những địa danh này đã được các môn đệ thực thi. Còn “…cho đến tận cùng trái đất” ai sẽ thực thi, chẳng phải là chúng ta, sao?

Là một Ki-tô hữu, Đức Giê-su Ki-tô rất, rất muốn chúng ta “đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ (chúng ta) mà tin”.

Thế nào là làm-chứng-về-ánh-sáng ư! Thưa, đó là hãy sống “bằng cả cuộc sống của mình”, một cuộc sống “tỏa sáng” lòng bác ái, sự hoan lạc, sự bình an, sự nhẫn nhục, lòng nhân hậu, sự từ tâm, sự trung tín, sự hiền hòa và tiết độ. Nói theo cách nói của thánh Phao-lô, đó là một cuộc sống “tỏa sáng hoa trái Thần Khí”.

Và, khi chúng ta có một cuộc sống tỏa sáng hoa trái Thần Khí, nói không sợ sai, ánh sáng Đức Ki-tô sẽ được chiếu tỏa “đến tận cùng trái đất”. Và đó, đó chẳng phải là chúng ta đã “làm chứng về ánh sáng” sao!

Vâng, Linh mục Teilhard de Chardin đã có lời ví von rất sống động, rằng: “Ánh sáng xuyên qua những đám mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán được có Đức Kitô”.

Tôi, người viết, xin phép, xin phép ngài Teilhard de Chardin, sửa một chút xíu, một chút xíu lời ví von của ngài, lời sửa rằng: nhìn vào một cuộc sống tỏa sáng hoa trái của Thần Khí, chúng ta có thể đoán, đó là cuộc sống của người chứng nhân, chứng nhân của Đức Ki-tô.

Thế nên, hãy sống sao để thiên hạ có thể đoán, “chúng ta là chứng nhân của Chúa”.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...