Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2023

Hãy khát khao nên người công chính

 “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”



Chúa Nhật IV - TN – A

Hãy khát khao nên người công chính

“Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi. Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi. Người thương gia lợi tức. Người công nhân ấm no. Thoát ly đời gian lao nghèo khó. Á a a a. Nhấp chén đầy vơi. Chúc người người vui. Á a a a. Muôn lòng xao xuyến duyên đời.

… Nhấc cao ly này. Hãy chúc ngày mai sáng trời tự do. Nước non thanh bình. Muôn người hạnh phúc chan hoà. Ước mơ hạnh phúc nơi nơi. Hương thanh bình dâng phơi phới.”

Những dòng chữ trên đây được trích đoạn trong bản nhạc “Ly rượu mùng” tác giả: Phạm Đình Chương. Vâng, chắc hẳn không ai trong chúng ta lại không hơn một lần nghe (hoặc cất tiếng hát) bản nhạc này. Nhất là mỗi khi xuân đến.

Xuân đến, có ai lại không “nâng chén”! Tết đến, có ai lại không “nhấp chén đầy vơi, chúc người người vui”! Mừng năm mới, có ai lại không “ước mơ hạnh phúc nơi nơi - muôn người hạnh phúc chan hòa”!

Chúng ta có rất nhiều ước mơ. Và, chúng ta gửi cho nhau muôn vàn lời chúc phúc. Chúng ta ước mơ một năm mới “an khang thịnh vượng” Chúng ta chúc nhau một năm mới “phát tài phát lộc, hạnh phúc tràn đầy, vạn sự như ý”, v.v…

Nhưng than ôi! như người ta thường nói: “Ba ngày xuân, bốn ngày xẹp”. Mà thật vậy, sau vài ngày xuân, những lời chúc phúc đó “xẹp” như một trái bong bóng hết hơi, nó tuột khỏi tầm tay của ta như bánh xà phòng trơn ướt.

Tại sao? Thưa, vì những lời chúc nêu trên chỉ có giá trị tương đối. Bởi, như có người nói: “Hạnh phúc như một con bướm vậy. Khi bạn càng rượt đuổi thì nó càng bay xa hơn.” Hoặc: “Hạnh phúc là cái gì đó thật mơ hồ khiến ta buộc phải mơ ước.”
 
Xuân đi… mọi người, có thể nói như thế, lại quay về với thực tại của cuộc sống, một thực tại với những lo toan, với những bất an, với những băn khoăn và trắc trở v.v…

Vâng, thật buồn… thật buồn vì hạnh phúc quá mong manh…

**
Đức Giê-su, khi còn tại thế, Ngài đã vạch ra một lộ trình, một lộ trình cho những ai muốn tìm cho mình niềm hạnh phúc đích thực, vĩnh cửu.

Lộ trình đó khởi đầu bằng việc: Hãy “có tâm hồn nghèo khó”. Và, tiếp theo sau, đó là: Hãy sống “hiền lành”. Đừng sợ “sầu khổ”. Hãy “khao khát nên người công chính”. Phải biết “xót thương người”. Hãy “có tâm hồn trong sạch”. Hãy là một con người biết nỗ lực “xây dựng hòa bình”. Và, cuối cùng là đừng sợ “bị bách hại vì sống công chính”.

Hồi ấy, trên một ngọn núi cao, gần bên là những người môn đệ vây quanh mình, Đức Giê-su đã công bố những điều như thế đấy. Và Ngài đã có lời chúc phúc, rằng: “Phúc thay ai… Phúc thay ai… Phúc thay ai… Phúc thay anh em…”

“Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”

Đấy! Hạnh phúc dành cho những ai đi theo lộ trình Đức Giê-su vạch ra, là như thế đấy. Đó là: “Nước Trời là của họ. Họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng. Họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.”

Và đây… đây chính là điều “hạnh phúc” nhất, đó là “Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa (và) Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. (x.Mt 5, 1-12).

Với những cái “được” như thế, tại sao chúng ta không “vui mừng hớn hở” về những lời chúc phúc của Đức Giê-su? Tại sao không, nhỉ!

Thế nên, đừng… đừng xem những lời chúc nêu trên là những lời chúc ngộ nghĩnh. Hãy “ngộ ra” rằng, lộ trình đi tìm hạnh phúc vĩnh cu là một lộ trình đầy chông gai. Và, để đạt được tới đích, đừng ngại rằng mình rồi sẽ như “các ngôn sứ là những người đi trước… cũng bị người ta bách hại như thế.” (x.Mt 5, …12).

***
Những điều Đức Giê-su chúc phúc năm xưa, hôm nay chúng ta gọi là “bát phúc – tám mối phúc thật.” Tám mối phúc thật không phải là “Mười Điều Răn”, cũng chẳng phải là những lời khuyên răn.

Đó chỉ là những lời công bố. Nhưng, những lời công bố này có giá trị như một “chiếc xe” một chiếc xe chở chúng ta về Nước Trời. Đó là sự thật, sự thật Đức Giê-su đã công bố: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.

Thiên Chúa không cấm ta làm giàu, vì giàu cũng là ơn phước Chúa ban, như Người đã ban cho các tổ phụ Apraham, Isaac và Giacop. Thế nhưng, khi ta sống với một “tâm hồn nghèo khó”, đó là ta đã “sống theo Giê-su”, sống nghèo khó như Ngài, như Ngài đã sinh ra “trong máng cỏ” và sau đó là một cuộc sống nghèo khó tại Nadarét.

Sống, với một “tâm hồn nghèo khó”, chúng ta sẽ nhận ra: tiền bạc, quyền lực, danh vọng chỉ là những thứ phù phiếm, nay có mai mất. Sống, với một “tâm hồn nghèo khó”, chúng ta sẽ nhận ra: “được cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì.”

Tấm gương thánh Phan-xi-cô Assisi, còn đó. Tuy là một người giàu có, nhưng ngài đã dám từ bỏ tất cả, sống suốt cả một đời người với một “tâm hồn nghèo khó”.

Rồi khi chúng ta biết “xót thương người”! Vâng, đó là chúng ta “học theo Giê-su”, một Giê-su luôn chạnh lòng thương xót đối với ai chạy đến cầu xin mình.

Thưa quý vị, gặp một người hàng xóm nghèo, là một Ki-tô hữu, lẽ nào ta không xót-thương-họ! Chẳng lẽ ta không “cho kẻ đói ăn” sao!

Vâng, các vị linh mục, khi chia sẻ về “tám mối phúc thật”, hầu như các vị đó đều có chung một lời khuyên, khuyên rằng: chỉ cần thực hiện một trong tám phúc nêu trên, cũng đủ nên thánh rồi.

Một trong tám phúc mà các vị linh mục thường khuyên giáo dân của mình thực hiện, đó là: “(hãy) khát khao nên người công chính”.

Quả… quả là một lời khuyên rất thực tế, một thực tế của một đất nước, của một xã hội, mà chúng ta đang sống, hôm nay. Đâu đâu chúng ta cũng phải đối diện với sự bất chính. Từ nơi học đường, ngoài xã hội, nơi công sở, (nếu không muốn nói là ngay cả trong giáo hội), kẻ bất chính tràn lan. Tại nơi được gọi là “nhà thương”, nhưng hỡi ơi! để tìm một người biết “xót thương người” thật không dễ dàng.

Vâng, chúng ta hãy-khát-khao-nên-người-công-chính. Rất cần có nhiều người sống-công-chính. Nếu không có, coi chừng chúng ta sẽ chung số phận với dân thành Sodoma, khi xưa.

Thành Sodoma xưa bị tiêu diệt vì “tội lỗi chúng nặng nề” (x.St 18, 20)Nếu trong thành đó có “năm mươi người lành”, Thiên Chúa “sẽ dung thứ cho thành đó”. Giả như mười người! Thưa, “Thiên Chúa sẽ không phá hủy thành đó”.

Chỉ cần mười người “làm lành lánh dữ”, một tiêu chuẩn đã được Kinh Thánh gọi là sống-công-chính. Tiếc thay! Sodoma không có.

Nhắc lại câu chuyện này làm gì? Thưa, để chúng ta tự hỏi: tôi có là một trong số mười người… mười-người-công-chính, hôm nay?

Hôm nay, thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, rất cần nhiều nhiều người, nên-người-công-chính. Bởi vì, “miệng người công chính niệm lẽ khôn ngoan và lưỡi họ nói lên điều chính trực. Luật Thiên Chúa, họ ghi tạc vào lòng, bước chân đi không hề lảo đảo.” (x.Tv 37, 30-31).

Sống… ở một nơi mọi người đều nói-lên-điều-chính-trực, luật-Thiên-Chúa, mọi người đều ghi-tạc-trong-lòng… chẳng phải là một nơi “đáng sống”, sao!

Vì thế, ngay hôm nay - bây giờ, cái bây giờ của một năm mới. Khi mà con người lần lượt “tiến về tuổi già”, khi mà chúng ta trong niềm tin “tiến về Trời Mới Đất Mới”, khi mà mọi người có những lời chúc loạn xạ, chúng ta hãy gửi đến nhau lời chúc mà Đức Giê-su đã chúc năm xưa, chúc rằng: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính!”

Vâng, chúng ta hãy-khát-khao-nên-người-công-chính.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2023

Hãy theo Ta, mau hỡi con, hãy theo Ta…

 Chúa Nhật III – TN – A

Hãy theo Ta, mau hỡi con, hãy theo Ta…

Đức Giê-su, sau ba mươi năm sống tại làng quê Na-da-rét, Ngài bắt đầu ra đi rao giảng Tin Mừng. Và để cho công cuộc rao giảng Tin Mừng được loan báo “khắp tứ phương thiên hạ… đến tận cùng trái đất”, Đức Giê-su đã tuyển chọn mười hai vị môn đồ.

Cuộc tuyển chọn mười hai vị môn đồ được bắt đầu tại Ga-li-lê. Tại đây, đã có bốn người… bốn người được tuyển chọn. Theo thánh sử Gio-an ghi lại, thì: hai trong bốn vị này là những người đã được nghe ông Gio-an (Tẩy Giả) giới thiệu Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa”. Vào hôm được nghe giới thiệu về Đức Giê-su, hai vị này đã “đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy.”

Chưa hết, một trong hai vị này là ông An-rê, anh ông Si-mon Phê-rô, gặp em mình là ông Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a nghĩa là Đấng Ki-tô. Rồi ông (An-rê) dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su.” Hôm ấy, Đức Giê-su “nhìn ông Si-mon và nói: Anh là Si-mon, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha (tức là Phê-rô)”.

Còn theo thánh sử Mát-thêu! Vâng, ngài Mát-thêu cũng đã ghi lại cuộc tuyển chọn của Đức Giê-su với bốn vị môn đệ này. Câu chuyện được ghi lại như sau: một ngày nọ, “khi Đức Giê-su đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai người anh em kia, là ông Si-mon, cũng gọi là Phê-rô và người anh là ông An-rê.” Hai anh em “đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá.” (x.Mt 4, 18).

Thưa bạn, bạn có bao giờ nhìn thấy hình ảnh người ngư phủ quăng chài xuống biển? Rất đẹp, đó là vẻ đẹp của cơ bắp, của sức mạnh, của sự cần cù, của sự nhẫn nại, nơi người ngư phủ.

Hôm đó, như đã nói ở trên, Đức Giê-su “thấy” hai chàng ngư phủ Phê-rô và An-rê. Thế nhưng, Ngài không “nhìn” hai chàng ngư phủ với đôi mắt của phàm nhân, mà là với nhãn giới của một Đấng Cứu Thế.

Vâng, với nhãn giới của Đấng “đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ (Ngài), mà được cứu độ”, hôm ấy, sự cần mẫn của hai chàng ngư phủ trước công việc liên quan đến cuộc sống thuộc thể đã làm cho Đức Giê-su liên tưởng đến công việc liên quan đến cuộc sống thuộc linh. Và, thế là một lời mời gọi đã được Ngài gửi đến hai ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Nghe thế, hai chàng ngư phủ: “Lập tức… bỏ chài lưới mà đi theo Người”.

Chưa dừng ở đây, “Đi một quãng nữa, (Đức Giê-su) thấy hai anh em con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và người em là Gio-an.” Hai người này không quăng chài, nhưng họ đã cùng người cha của mình “là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền”. Và, lời mời gọi của Đức Giê-su cũng được gửi tới hai vị này. Cũng như hai vị môn đệ nêu trên, hai vị này: “Lập tức… bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người”.

**
Vâng, chỉ một lời mời gọi giản dị: “Các anh hãy theo tôi…” với một lời hứa lạ kỳ: “… tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”, bốn chàng “ngư phủ Biển Hồ” đã đi theo Đức Giê-su.

Tại sao bốn chàng ngư phủ này lại đi theo Đức Giê-su một cách nhanh chóng như thế? Thưa, như đã nói ở trên, do bởi quý ông ngư phủ này đã “đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người...” Ở lại với Đức Giê-su và họ đã nhận biết “Người là Đấng Messia.” Một Đấng Messia, mà ngôn sứ Isaia đã có lời loan báo: “Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Gio-dan, vùng đất của dân ngoại… ban chứa chan niềm hoan hỷ… tăng thêm nỗi vui mừng” (x.Is 9, 3).

Mà, thật là vậy. Theo lời ghi lại của thánh sử Mat-thêu. Đức Giê-su đã làm-vẻ-vang “khắp miền Ga-li-lê” qua việc “chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân”. Và, “Dân chúng… từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-dan”, đã biểu lộ nỗi-vui-mừng khi họ “lũ lượt kéo đến đi theo Người” (x.Mt 4, 25).

Nhận định cho việc “lập tức đi theo” Đức Giê-su của bốn vị môn đệ: Phê-rô và An-rê – Gia-cô-bê và Gio-an, Lm. Charles E.Miller có lời chia sẻ: “Các ông thấy một điều gì đó nơi Đức Giê-su mà (từ trước tới nay) các ông chưa từng chứng kiến. Ánh sáng đức tin giúp những con người này bắt đầu thấy Đức Giê-su thật sự là Ai: Người là Con Thiên Chúa.”

Đúng. Đức Giê-su - Người là Con (Chiên) Thiên Chúa, điều mà các ông đã được thầy của mình là ông Gio-an (Tẩy Giả), chứng thực rằng “Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.” Và, đó là lý do: Phê-rô và An-rê – Gia-cô-bê và Gio-an “bỏ chài lưới, bỏ thuyền, bỏ cha lại” tận hiến đời mình cho Thầy Giê-su.

***
Xưa, Đức Giê-su đã kêu gọi Mười Hai vị môn đệ. Và, câu chuyện kể trên, là câu chuyện Ngài kêu gọi bốn vị môn đệ đầu tiên.

Nay, Đức Giê-su có tiếp tục kêu gọi như xưa Ngài đã kêu gọi? Thưa, vẫn tiếp tục kêu gọi. Và, chúng ta là những người Ngài kêu gọi.

Hôm nay, Đức Giê-su cũng gọi đích danh mỗi chúng ta, như xưa Ngài đã gọi đích danh Mười Hai vị môn đệ. Hôm nay, khi chúng ta chịu phép Rửa Tội, Lm. Charles E. Miller chia sẻ: “Người phán qua vị linh mục chủ sự, rằng: Hồng hoặc Hoa. Lan hay Điệp (bất luận tên chúng ta là gì), Cha rửa con nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.”

Vâng, Cha-rửa-con và con-là-con-Cha. Lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội chúng ta được gọi là Con của Chúa. Đã là Con của Chúa thì hãy theo Chúa. Đã là Con của Chúa thì đừng theo Satan và con cái của nó. Đó là điều chúng ta cần ghi khắc trong con tim mình.

Nói cụ thể hơn. Đã là con Chúa thì hãy nghe và thực thi ý Chúa. Nghe và thực thi ý Chúa, có như thế, chúng ta mới được xem là đã đi theo Chúa một cách trọn vẹn. Về điều này, một lần nọ, Đức Giê-su có lời khuyến cáo: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa! Là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi”.

“Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi”, nhớ nha!
 
Thế nên, đã là con Chúa thì đừng nghe và thực thi ý Satan và bè lũ con cái nó. Nghe và thực thi thì hỏng… hỏng bét.

Điều răn thứ nhất, Chúa dạy: “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự.” Thế nên, hãy quên đi chuyện cầu cơ, bói toán nhé! Gặp nan đề gì khó xử, hãy đến với Chúa. Mẹ Maria còn đó… hãy đến với Mẹ.

Điều răn thứ năm, Chúa dạy: “Chớ giết người.” Thế nên, chớ có bất cứ vì lý do gì chúng ta ủng hộ sự phá thai. Người nào ủng hộ phá thai… Người nào đặt bút ký sắc lệnh cho phép phá thai, người đó đã không nghe và không thực thi ý Chúa.

Đừng quên Đức Giê-su đã có lời nhắc nhở: “Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ.” Chúng ta không thể vừa đi theo Chúa vừa đi theo Satan.

Trở lại với bốn vị môn đệ. Vâng, khi theo Đức Giê-su, họ đã bỏ hết mọi sự. Nay, Chúa Giê-su cũng muốn chúng ta bỏ-hết-mọi-sự, thế nhưng đừng nghĩ rằng, “bỏ hết mọi sự” đồng nghĩa với việc ta phải bỏ sự nghiệp, bỏ gia đình, bỏ thân bằng quyến thuộc để đi theo Chúa, như các ông Simon, Anrê, Giacôbê và Gioan đã thực hiện, năm xưa.

“Bỏ hết mọi sự”… vâng, đó là chúng ta dám sống một cuộc sống hy sinh, ngay cả bản thân của mình, cho chân lý mà chúng ta tin theo. “Bỏ hết mọi sự”, đó là chúng ta dám sống một đời sống phục vụ, cho một lý tưởng, mà chúng ta đã chọn lựa. “Bỏ hết mọi sự”, chính là bỏ “cái tôi” của mình, cái tôi của ích kỷ, của nóng giận, của bất hòa, của ghen tuông, của ganh tỵ, của tranh chấp, của bè phái v.v...

Chúa đã gọi chúng ta. Chúng ta có đáp lời mời gọi! Đừng quên, trước khi chúng ta trả lời, Đức Giê-su đã có câu trả lời cho chúng ta.

Vâng, một ngày nọ khi tông đồ Phê-rô hỏi Đức Giê-su rằng: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ hết mọi sự và theo Thầy!...” Ông Phê-rô mới nói thế thôi, Đức Giê-su trả lời sao nhỉ! Thưa, Ngài phán rằng: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (x.Mc 10, 28-30).

Câu trả lời của Đức Giê-su là thế. Và, Ngài cho chúng ta lựa chọn “yes or no”. Đúng, quyền lựa chọn là của mỗi chúng ta.

Sao! chọn “no” sao! Chớ… chớ có dại chọn như thế. Chọn như thế, vào ngày sau hết, ngày Đức Giê-su sẽ trở lại trong vinh quang. Ngày mà mọi đầu gối trên mặt đất này sẽ phải quỳ, mọi môi miệng sẽ phải thốt lên rằng: Ngài là Đấng Ki-tô. Vào ngày vinh quang đó, Chúa Giê-su sẽ nói với những ai đã “no” với Ngài, rằng: “đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó.”

Sự khôn ngoan mà chúng ta cần thực hiện, hôm nay, đó là chọn “yes”. Chọn “yes” vào ngày sau hết, Chúa Giê-su sẽ nói với chúng ta, rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa.”

Tất cả rất rõ ràng. Chúa Giê-su hôm qua, hôm nay và mãi mãi, vẫn cất tiếng mời gọi chúng ta: “Này (con) lặng nghe Giê-su phán tuyên. Hãy theo Ta mau hỡi con, hãy theo Ta. Lời đây trọn đêm ngày luôn nhắc khuyên. Hãy theo Ta mau hỡi con, hãy theo Ta. Ta nếm mùi cay đắng thay con rồi, chuộc con Ta đã chết cách nhục nhã. Đau khổ vì con trả xong nợ tội. Hãy theo Ta mau hỡi con, hãy theo Ta.

Này con mọi lo buồn đem đến đây. Hãy theo Ta mau hỡi con, hãy theo Ta. Đời con nặng chăng nhờ Ta gánh thay. Hãy theo Ta mau hỡi con, hãy theo Ta. Con chớ sợ chi hãy nương ngực này, dựa Ta trong cõi tương lai vui thỏa. Nước mắt rồi Ta sẽ lau khô ngay. Hãy theo Ta mau hỡi con, hãy theo Ta. (Hãy theo Ta – Thánh ca cổ điển).

Vâng, đừng chần chờ gì nữa, hãy mở lòng ra, đón nhận lời mời gọi của Chúa Giê-su: “Hãy theo Ta, mau hỡi con, hãy theo Ta”

Petrus.tran

Chủ Nhật, 15 tháng 1, 2023

Hãy đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa

 Chúa Nhật II – TN – A

Hãy đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa

Chúng ta vừa mới trải qua một mùa Giáng Sinh nhiều cảm xúc. Gọi nhiều cảm xúc là bởi, có người vui và cũng có người buồn. Vâng, có người vui, vui vì mùa Noel năm nay “trúng mánh”, hàng online tấp nập người older, nhìn shipper chạy giao hàng cứ như thể bươm bướm bay lượn.

Và, có người buồn. Nhớ... “Noel năm nào chúng mình có nhau… Áo trắng em bay như cánh thiên thần. (Nụ cười duyên) dưới tháp chuông ngân”. Ấy thế mà… thế mà Noel năm nay, có buồn không kia chứ! Chẳng hiểu vì sao, lời nguyện “mình suốt đời có nhau” nay đã trở thành “Lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu” để rồi… “em qua cầu xác pháo bay sau…” (Bài thánh ca buồn).

Vâng, buồn vui là chuyện thường tình trong cuộc sống. Tuy nhiên, là một Ki-tô hữu, nếu vui thì hãy vui trong Chúa. Còn nếu buồn ư! Đừng để nỗi buồn vấn vương trong lòng ta, hãy dâng nỗi buồn đó cho Chúa. Hãy buồn trong Chúa.

Noel là gì nếu không phải là “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta”! Hài Nhi Giê-su xuống thế làm người là vì ai, nếu không là “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.”!

Thế nên, với những ai đang buồn! Đừng buồn nữa. Còn những ai đang vui, hãy tiếp tục vui lên, vì Hài Nhi Giê-su còn được biết đến chính là “Đấng xóa tội trần gian” và chính là người “Thiên Chúa tuyển chọn.”

Ông Gio-an Tẩy Giả là người diễm phúc được nghe chính Thiên Chúa xác thực điều này. Sự kiện Thiên Chúa nói với ông đã được ghi lại chi tiết trong tin mừng thánh Gio-an. (x.Ga 1, 29-34).
**
Vâng, chuyện được ghi lại, rằng: Từ khi rời hoang địa và đến sông Gio-dan, ông Gio-an Tẩy Giả đã nói rất nhiều điều liên quan đến Đức Giê-su. Một hôm, khi thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, ông liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”

“Tôi…” ông Gio-an Tẩy Giả nói: “…đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân It-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước.”

Và, như một chứng nhân, ông nói tiếp: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước, đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần” (Ga 1, 32-33).

Cuối cùng, ông Gio-an tuyên bố, rằng: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”

***
Đừng ngạc nhiên khi ông Gio-an Tẩy Giả đã gọi Đức Giê-su là “Chiên”. Tại sao? Thưa, bởi đó là từ ngữ không xa lạ đối với người Do Thái. Mà, chẳng phải là ông đang nói với người Do Thái, đó sao!

Khi nói tới chiên, người Do Thái không thể quên đó là con vật từng giải thoát cha ông họ ra khỏi Ai Cập, khi xưa.

Về sự kiện này, trong bài viết “chiên sát tế”, tác giả Anphong, ofm, có lời giải thích rằng: “Hằng năm vào lễ Vượt Qua của người Do Thái, mỗi gia đình có tục lệ ăn thịt một con chiên. Phải lựa con chiên non dưới một năm tuổi, tốt đẹp, không tì vết. Người Do Thái ăn thịt chiên Vượt Qua, không phải để mừng mùa đông đã qua và mùa xuân vừa mới khởi đầu, nhưng là để kỷ niệm ngày Chúa giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Vào đêm hôm giải thoát dân Do Thái. Chúa truyền cho họ giết một con chiên non, lấy máu bôi lên cửa nhà. Đêm ấy sứ thần Chúa đến, nhờ dấu máu chiên bôi ở cửa nhà mà người Do Thái được sứ thần “vượt qua,” (bỏ qua), không vào nhà tàn sát con đầu lòng.” (nguồn: internet).

“Chiên”, từ đó, được dùng làm con vật trong tế tự. Con chiên đã được được dùng để tế lễ Thiên Chúa, làm của lễ toàn thiêu, làm của lễ hiến tế, và cũng để làm của lễ đền tội.

Sách Lêvi dạy: “Nếu một người vô ý phạm tội, làm một trong những điều mà ĐỨC CHÚA cấm làm... thì vì tội đã phạm, nó sẽ đưa đến một con dê (hoặc chiên) làm lễ tiến. Nó sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế lễ vật tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy máu con vật và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ... Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, và người ấy sẽ được tha. (Lv 4, 27-32).

Sách Xuất Hành truyền dạy: “Đây là những gì ngươi sẽ dâng trên bàn thờ: hai con chiên một tuổi, ngày nào cũng vậy, phải giữ như thế mãi mãi. Ngươi sẽ dâng một con lúc sáng, còn con thứ hai thì dâng vào lúc chập tối. Cùng với con chiên thứ nhất, ngươi sẽ dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với hai lít dầu ô-liu giã trong cối, và lấy hai lít rượu nho làm rượu tế. Còn con chiên thứ hai, ngươi sẽ dâng vào lúc chập tối, và dâng cùng với lễ phẩm và lễ tưới rượu như ban sáng. Đó là hương thơm làm đẹp lòng ĐỨC CHÚA, là lễ hoả tế dâng ĐỨC CHÚA.” (Xh 29, 38-41).

Giới thiệu Đức Giêsu là Chiên-Thiên-Chúa, ông Gioan Tẩy Giả muốn nói rằng: Ngài chính là Chiên-Con-Mới, một lễ vật mới cho việc “tế lễ” tạ tội cho tội lỗi của nhân loại.

Tác giả thư Do Thái cũng có lời, rằng: “Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con”. (Dt 10, 4-7).

Thánh Phaolô đã nhắc nhở cộng đoàn Corinto điều này, ngài nói: “Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (x.1Cr 5, 7).

****
Đức Giê-su còn được gọi là Đấng-xóa-tội-trần-gian. Đúng ra, phải gọi là Đấng-gánh-tội-trần-gian. Cũng trong bài viết chiên-sát-tế, tác giả  Anphong, ofm, cho rằng, “chữ ‘xóa’ là một cách nói văn hoa nhẹ nhàng nhưng không lột hết ý nghĩa của nguyên ngữ. Tiếng Hy Lạp dùng từ “Airein,” tiếng Latin dùng từ “Tollit” có nghĩa là nhận lấy vào mình, gánh lấy, vác lấy. ‘Xoá’ có thể có nghĩa là đứng ngoài. Ở ngoài ta bắn một quả canon, xoá sạch hang ổ của kẻ địch. Từ trời, Đức Chúa cho mưa diêm sinh xuống xoá sạch tội lỗi dân Sôđoma và Gômora. Vì thế có lẽ nên dịch là Đấng ‘gánh’ tội trần gian thì đúng hơn.”

Đúng vậy. Đức Giêsu không đứng ngoài cuộc. Ngài đã nhập cuộc. Đã gánh lấy thân phận con người và nhất là gánh lấy tội lỗi thế nhân.

Đó là sự thật. Sự thật là Đức Giê-su đã hạ mình đứng cùng những kẻ tội lỗi để xin ông Gio-an Tẩy Giả “làm phép rửa cho mình” (Mt 3, …13). Sự thật là Đức Giê-su đã đồng bàn với những kẻ tội lỗi. Sự thật là Đức Giê-su đã chịu chết giữa hai tội nhân, những kẻ bị gọi là phường-trộm-cướp.

Có một câu chuyện được kể, rằng: “Có một cô gái đang có người yêu bị một kẻ lạ mặt hãm hiếp và đã có thai. Cô khổ tâm vô cùng vì bị người yêu khước từ và gia đình ngờ vực. Cô đã đến gặp Đức Cha Fulton Sheen than thở với ngài và hỏi ngài: “Tại sao con phải ra nông nỗi này?” Sau khi lắng nghe với tất cả sự cảm thông, Đức Cha ôn tồn trả lời cô gái: ‘Vì con đang gánh tội của một người’.

Rồi Đức cha Sheen kết luận: Nếu chỉ vì phải gánh tội của một người mà cô gái kia phải đau khổ buồn sầu như thế, thì khi phải gánh chịu tội của cả nhân loại Chúa Giêsu đã phải chịu đau khổ buồn sầu biết chừng nào!” (nguồn: internet).

“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian.” Vâng, là một tín hữu Công Giáo, chẳng phải là chúng ta đã nghe câu này trong mỗi thánh lễ, đó sao!

Chúng ta đã nghe, nghe nhiều lần. Nghe nhiều lần, thế nhưng chúng ta có thực hiện những gì Chiên-Thiên-Chúa, đã thực hiện! Chúng ta có sống như những gì Chiên-Thiên-Chúa, đã sống!

Nói rõ hơn, chúng ta có hiền hậu và khiêm nhường, như Chiên-Thiên-Chúa đã mời gọi: “hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.”!

Chúng ta có chạnh-lòng-thương-xót trước những kẻ nghèo đói, bệnh hoạn, tật nguyền, như Chiên-Thiên-Chúa “(khi) thấy đám đông thì chạnh lòng thương xót, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”?

Chúng ta có tha thứ cho người anh em mình như Chiên-Thiên-Chúa đã tha thứ cho chúng ta? Có phần chắc đó là những ước mong mà Chiên-Thiên-Chúa muốn chúng ta thực hiện.

Nếu… nếu chúng ta thực hiện, hãy tin, vào ngày sau hết chúng ta sẽ được “mời đến dự tiệc cưới Con Chiên” trên Nước Trời, nơi chúng ta sẽ được “nên một với Chiên Thiên Chúa.” (x.Kh 19, 9).

Vâng, chúng ta sẽ được nên-một-với-Chiên-Thiên-Chúa, không phải ngày sau, mà là ngay hôm nay, ngay bây giờ. Đó là, nơi Bàn Tiệc Thánh Thể, qua việc lãnh nhận “Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô”, chúng ta sẽ được nên-một-với-Chiên-Thiên-Chúa.

Nơi bàn tiệc cưới Con Chiên trên Nước Trời, thiên thần bảo: “Hạnh phúc thay kẻ được mời” (Kh 19, 9). Còn nơi bàn Tiệc Thánh Thể thì sao, nhỉ! Thưa, vị linh mục chủ tế nói: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.

Ai được mời? Thưa, chúng ta được mời. Thế thì, hãy đến. Hãy đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...