Thứ Bảy, 25 tháng 3, 2023

Hãy ra khỏi mồ…

 “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”.

Chúa Nhật V – MC – A
Hãy ra khỏi mồ…

Cuộc sống của một đời người, như một vòng tuần hoàn sinh-lão-bệnh-tử. Khi nói tới “tử”, có thể nói rằng, đó là nói đến một nỗi buồn, một nỗi buồn không của riêng ai.

Nghĩ tới “tử”, có không ít người mong sao y học tìm ra được thần dược làm cho con người trường sinh bất tử. Thế nhưng, tất cả vẫn chỉ là ước mơ. Ước mơ đó, con người đã mang theo mình cho tới lúc chết.

Vâng, ai ai cũng sợ chết. Nhưng, với đức tin Ki-tô giáo, “chết” không có gì đáng sợ. Không đáng sợ là bởi: “Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi, lúc con người nằm im giấc ngủ mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai.” Không đáng sợ vì “tương lai” mà người Ki-tô hữu sẽ thấy là một tương lai: “chẳng có chia lìa, chẳng có hợp tan.”

Đây không phải là niềm tin mơ hồ, do con người bịa đặt ra. Nhưng, đây là niềm tin được đặt trên nền tảng những lời Đức Giê-su đã tuyên phán.

Đức Giê-su, trong những ngày còn tại thế, Ngài đã từng tuyên phán rằng: “tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 40).

Rồi một lần khác, Đức Giê-su cũng có lời phán tương tự: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25).

Và để củng cố cho những lời tuyên phán của mình, Đức Giê-su đã hơn một lần làm phép lạ cho người chết sống lại. Phép lạ làm cho một người đã chết bốn ngày, được sống lại, như một điển hình. Sự kiện này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an.

**
Sự việc xảy ra tại làng Bêtania. Nơi đây, một gia đình có ba chị em Mác-ta, Maria và La-da-rô, cùng sinh sống. Gia đình này rất thân thiết với Đức Giê-su. Cuộc sống của gia đình họ đang trong cảnh an lành, thì bỗng nhiên anh La-da-rô, em của cô Mác-ta, bị đau nặng.

Bị đau nặng ư! Vâng, cứ sự thường, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng sẽ đem người bịnh đến nhà thương hay chí ít cũng tìm đến phòng mạch một ông bác sĩ nào đó, phải không, thưa quý vị!

Thế nhưng, hai chị em Mác-ta thì không. Hai cô cho người tìm đến Đức Giê-su để báo tin, dù biết Ngài không phải là bác sĩ.

Vâng, không phải là bác sĩ, nhưng có gì ngăn cản Đức Giê-su cứu chữa anh La-da-rô! Thì đây, sự kiện cậu bé con của một bà goá tại thành Nain đã chết và được Thầy Giê-su cứu sống lại, có phải là điều đã được chứng minh! Và phải chăng, hai chị em Mác-ta và Maria cũng đã biết đến sự kiện này!

Thánh sử Gio-an không có lời lý giải, nhưng có phần chắc là như thế.

Rồi… Đức Giê-su cũng đến nhà hai chị em Mác-ta và Maria. Lúc đó, “anh La-za-rô đã chôn trong mồ bốn ngày rồi”. Chuyện kể rằng: “Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Maria”.

Và khi nhận được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.”

Đừng, đừng vội suy diễn, rằng thì-là-mà cô Mác-ta “than thân trách phận”. Không… cô ta, qua lời nói với Đức Giê-su, đã chứng tỏ đức tin mãnh liệt của mình.

Vâng, ngọn lửa đức tin trong cô đã bùng lên, bùng lên khi cô nói tiếp, rằng: “Nhưng bây giờ con biết…” Bây-giờ-con-biết: “Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, người cũng sẽ ban cho Thầy” (Ga 11, …22).

Kinh Thánh có chép rằng: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.” (Tv 103, 3-5).

Và, quả thật, Đức Giê-su đã làm cho lời Kinh Thánh nêu trên, thành sự thật. Hôm ấy, Đức Giê-su đã cứu-La-da-rô-khỏi-chôn-vùi-đáy-huyệt… khiến-tuổi-xuân-Ladaro-mạnh-mẽ-như-xưa.

Vâng, Ngài nói với Mác-ta: “Em chị sẽ sống lại”. Mác-ta ơi! em-chị-sẽ-sống-lại, nhưng không phải “sẽ sống lại, khi kẻ chết sẽ sống lại trong ngày sau hết” như lời chị tuyên xưng, đâu! Em chị sẽ được chính Thầy Giê-su “đưa lên khỏi huyệt”, ngay hôm nay.

“Chính ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt”. Vâng, lời loan báo của ngôn sứ Ê-dê-ki-en xưa kia, nay đã ứng nghiệm. Và, hôm nay, Đức Giê-su thêm một lần công bố: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”.

Công bố xong, Đức Giê-su đã hỏi cô Mác-ta: “Chị có tin thế không?” Có Mác-ta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.

***
Có cái chết nào lại không làm cho lòng người thổn thức và xao xuyến! Nếu cái chết của Abel kêu thấu tận Trời cao. Thì hôm nay, cái chết của Ladaro đã làm cho Con Trời “bật khóc”.

Hôm đó, Đức Giêsu đã khóc. Ngài khóc không phải bởi tại không có mặt kịp thời kể cứu Ladaro. Chính Đức Giêsu, khi nhận được tin xấu về Ladaro, Ngài đã nói với các môn đệ rằng: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy không có mặt ở đó, để anh em tin.” (Ga 11, 15).

Đức Giê-su khóc là do “tình bạn”. Tình bạn giữa Ngài và gia đình ba chị em Mác-ta, Maria và Ladaro.

Nói về tình bạn, Lm Thái Nguyên, trong bài chia sẻ “Huyền Nhiệm của tình bạn” có nói: “Thiếu tình bạn thân, người ta dễ rơi vào bệnh lạnh lùng, hoặc hung hăng hiếu chiến, hoặc bệnh chủ quan, hà khắc và độc đoán. Các thể chế hay cộng đoàn nào không cho tình bạn phát triển đều là những hình thức bất nhân. Một môi trường không được phép phát triển một tình yêu chan hòa với bạn hữu, dù chung hay riêng, thì đều là môi trường chết.”

Một nhà truyền giáo khác, có lời chia sẻ: “Tình bạn là điều quan trọng đối với những người có đức tin. Nếu chúng ta chọn bạn một cách khôn ngoan, biết giúp đỡ và trung thành với nhau thì đức tin của chúng ta có thể được củng cố trong thời kỳ lạnh nhạt.” (Cn 27, 17).

Alexandre Manzoni cũng rất quý trọng tình bạn khi nói: “Một trong những sung sướng lớn lao nhất ở đời này là tình bạn, và một trong những sung sướng của tình bạn là có người để ký thác những điều thầm kín”.

Vâng, Đức Giê-su khóc là do tình bạn. Suy tư về tình bạn của Đức Giê-su với gia đình cô Mác-ta, Lm. Charles E.Miller có lời chia sẻ: “Là người thật, Đức Ki-tô đã khóc La-da-rô, bạn hữu Người, là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho La-da-rô sống lại ra khỏi mồ.”

Bắt nguồn từ sự bội phản và bất trung của nguyên tổ Adam và Eva, con người đã bị Thiên Chúa đoán phạt “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”. Án phạt đó cho thấy “Thiên Chúa là thẩm phán công minh” (Tv 7, 12).

Thế nhưng, không vì sự phản bội bất trung của nguyên tổ mà Thiên Chúa bỏ rơi con người. Thiên Chúa còn là “Đấng từ bi nhân hậu. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145, 9).

Lòng nhân hậu đó được biểu lộ qua việc “sai Con của Người đến thế gian”. Người Con đó chính là Đức Giêsu “để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Mác-ta và Maria “đã tin”. Hai cô tin rằng: “Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” Mà, đúng vậy. La-da-rô đã sống lại. Hôm đó, sau lời cầu nguyện của Đức Giê-su và qua lời phán bảo của Ngài với người chết, rằng: “Anh Ladaro, hãy ra khỏi mồ”. Kỳ diệu thay! “Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn”.

Sau đó, Đức Giê-su bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, và để anh ấy đi”. Chứng kiến việc Đức Giê-su làm “có nhiều kẻ đã tin vào Người”.

****
Hôm nay, qua Tin Mừng thánh Gio-an (Ga 11, 1-45), chúng ta cũng đã “chứng kiến việc Đức Giê-su làm”. Vấn đề là “chúng ta đã tin vào Người”, như xưa kia “có nhiều kẻ đã tin vào Người!” Chúng ta có tin rằng: “có sự sống lại và sự sống đời sau” không?

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Nhưng, hãy nhớ rằng: “Sự sống lại và sự sống đời sau” là món quà không chỉ dành cho anh La-da-rô, xưa. Mà, còn là món quà dành cho những ai tin vào Đức Giê-su, hôm nay.

Chỉ những ai tin-vào-Người, mà thôi. Nếu chúng ta tin vào Chúa, thánh Phao-lô nói: “…thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính”.

“Lại nữa…” ngài Phao-lô nói tiếp: “nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11).

Rất, rất để cho chúng ta suy ngẫm về những gì thánh Phao-lô chia sẻ. Vâng, chúng ta hãy suy ngẫm xem, thân xác của mình có được “sự sống mới”, kể từ khi mình bước ra khỏi “nấm mồ tội lỗi”, nhờ Bí Tích Rửa Tội?

Chúng ta hãy suy nghĩ xem, thân xác mình có “tái sinh” kể từ khi Thần Khí Chúa ngự trong ta, qua Bí Tích Thêm Sức?
Cũng đừng quên, thánh Phao-lô có lời truyền dạy: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (x.Gl 5, 25).

Đừng quên để biết rằng, khi chúng ta sống nhờ Thần Khí và nhờ Thần Khí mà tiến bước, không ai… không ai dám nói thân xác chúng ta chỉ là một đống “xương cốt đã khô” (x.Ed 37, …11).

Trở lại với Lm.Thái Nguyên, qua biến cố sống lại của anh La-da-rô, ngài có lời chia sẻ: “Sự sống lại của Ladarô dù sao cũng chỉ là tiếp nối cuộc sống dương trần, điều quan trọng là sự sống đời đời mà chính Chúa Giêsu sẽ đem lại cho chúng ta nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài.

Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời mình cho Chúa, để Chúa đưa chúng ta vào cuộc sống mới từ hôm nay. Chỉ khi gắn bó với Chúa Giêsu, nhờ quyền năng Ngài, ta mới có khả năng ra khỏi nấm mộ của bản thân mình, và có khả năng thông truyền niềm vui sự sống cho những người chung quanh, đúng theo ơn gọi của mình là môn đệ Đức Giêsu.”

Vâng, đã là môn đệ của Đức Giê-su, ơn gọi của chúng ta, đó là: “hãy ra khỏi mồ”, nấm mồ tội lỗi của mình.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 18 tháng 3, 2023

Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy

 “Anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được” (Ga 9, 7).

tbd 180323a


Chúa Nhật IV – MC – A
Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy

Có bao giờ chúng ta tự hỏi, nếu đem so sánh giữa người bị mù bẩm sinh được trông thấy sự sáng sủa ở thế gian, với người có thể trông thấy hết thảy sự vật kể từ khi sinh ra, thì ai sẽ là người cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn, đối với sự vật được trông thấy!

Vâng, có phần chắc, chúng ta sẽ trả lời, rằng: người cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn, chính là người bị mù bẩm sinh.

Quả đúng là vậy. Bởi vì, không có gì đau khổ cho bằng khi vừa mới sinh ra đã phải sống trong cảnh “Lần mò phận lấy thương thân; Làm sao biết được phương gần phương xa”. Và có gì bất hạnh hơn khi người đó chỉ: “Nghe tiếng Cha, biết vậy mà! Nghe tiếng Mẹ, Mẹ ấy à, Mẹ ơi!” (thơ Mặc Giang).

Mà, có phải là chỉ đau khổ về thể xác thôi đâu! Còn đó là nỗi đau khổ về tinh thần. Nỗi đau khổ về tinh thần phát xuất từ “thói đời” mà ra. Thói đời, khi một ai đó bị hoạn nạn tật nguyền, người ta thường nghĩ rằng, chắc tại “kiếp trước” người đó sống thất đức, nên họ phải gánh chịu những bất hạnh khổ đau cho kiếp này. Hoặc, đại loại là “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”.

Do Thái giáo xưa, cũng cùng một quan điểm nêu trên. Với Ki-tô giáo thì sao? Thưa, niềm tin Kitô giáo không cho phép nghĩ như vậy. Đức Giê-su, trong những ngày còn tại thế, Ngài đã thẳng thừng lên tiếng bác bỏ luận điệu phi nhân bản như thế. Không chỉ bác bỏ, Đức Giê-su còn đưa ra quan điểm riêng của mình. Vâng, quan điểm của Ngài đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gioan, qua câu chuyện: “Đức Giê-su chữa một người mù từ thuở mới sinh” (Ga 9, 1-41).

**
Chuyện kể rằng: Hôm ấy, khi Đức Giê-su ra khỏi Đền Thờ, Ngài “nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh.”

Những người môn đệ đi theo Ngài cũng nhìn thấy. Nhưng thay vì nhìn anh mù với một tấm lòng nhân ái, các ông lại nhìn anh ta với một cái nhìn theo tập tục Do Thái giáo. Theo tập tục Do Thái giáo, với những ai bị tật nguyền như đui mù què quặt, họ cho rằng, kẻ đó bị Thiên Chúa trừng phạt.

Chính vì thế, các môn đệ đã hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy! ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”

Ai, ai đã phạm tội! Hôm ấy, Đức Giê-su đã trả lời, rằng: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh”.

“Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy… Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” Vâng, Đức Giê-su đã tiếp lời như thế đấy.

Và, không để các môn đệ luẩn quẩn trong một mớ tập tục phản nhân bản, “Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và sức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa”. Chuyện kể tiếp rằng: “Anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được” (Ga 9, 7).

Vâng, anh mù bẩm sinh đã đến Si-lô-ác. Đó là hành động của niềm tin. Chính niềm tin này đã giúp anh ta vượt thắng dư luận của thế gian lẫn của thần quyền.

Hôm ấy, từ Si-lô-ác trở về, dư luận thế gian đã bủa vây anh ta với tất cả sự hoài nghi: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” Có người nói: “Chính hắn đó”. Kẻ khác nói: “Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!”.

Thế nhưng, dù dư luận thế gian có: “nói ngả nói nghiêng” lòng tin anh mù “vẫn vững như kiềng ba chân”. Hôm ấy, anh mù vẫn một lời quả quyết: “Chính tôi đây… Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.” (x.Ga 9, 11).

Còn dư luận thần quyền! Vâng, khi biết được người chữa lành anh là một “Người tên là Giê-su”. Những ông kẹ Phariseu đã ra sức gây cho anh sự hoang mang. Họ nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabat”. Có người lại nói: “Một người tội lỗi sao có thể làm những dấu lạ như vậy?” Hôm ấy, giữa họ đã xảy ra sự chia rẽ. Riêng anh mù, anh ta vẫn lớn tiếng nói, Đức Giê-su “là một vị ngôn sứ”.

Lời tuyên bố của anh mù như một thách thức lớn đối với người Pha-ri-sêu. Họ đã “gọi cha mẹ anh ta đến” để làm một cuộc điều tra. Kết quả, cha mẹ anh ta đã khéo léo trả lời, rằng: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đó mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó, nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.”

Mà, thật vậy. Anh mù đã tự mình “khai” tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh, rằng: “Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được”. Rằng: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì”.

Chính, chính những lời khai của anh ta đã làm “cáu tiết” quý ông Pha-ri-sêu. Và rồi quý ông Pha-ri-sêu đã “trục xuất anh”. Như họ đã từng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô.

Nghe người ta trục xuất anh, Đức Giê-su tìm gặp lại anh và hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?… Chính Người đang nói với anh đây”. Trước mặt Đức Giê-su, anh mù nói: “Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người”.

***
“Trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được.” Vâng, một người mù bẩm sinh lại được trông thấy hết thảy mọi sự vật nhờ vâng lời Đức Giê-su, sau khi đi đến hồ Si-lo-ác rửa đôi mắt mình.

Cũng giống như vậy, đối với chúng ta chăng! Chúng ta đã sinh ra giữa sự tăm tối mù mịt phần linh hồn, thế rồi một ngày nọ, “ánh sáng trong Đức Giê-su là ơn đức tin được ban cho chúng ta nhờ Bí Tích Rửa Tội”, nhờ đó chúng ta được biết và được “trông thấy” lẽ thật.

Lẽ thật là chúng ta có một Thiên Chúa là Cha. Người “…yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3, 16).

Ơn đức tin còn được tăng cường bởi Bí Tích Thêm Sức. Nói rõ hơn, đó chính là Thần Khí sự thật. “Khi nào Thần Khí sự thật đến”. Đức Giê-su nói: “Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”.

Vâng, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã đến “Hồ Rửa Tội”. Thế nên, hãy tự hỏi lòng mình rằng: Từ giếng rửa tội, trở về với đời sống đức tin, chúng ta có lớn tiếng nói, như anh mù bẩm sinh đã nói: “Thưa Ngài, tôi tin” – “Lạy Chúa Giê-su – con tin Ngài”!

Về điều này, Lm Charles E.Miller có lời chia sẻ: “Kẻ không có đức tin ‘nhìn’ người anh em đồng loại và chỉ thấy một con vật có lý trí. Còn ai có niềm tin thì ‘thấy’ đó là một người con của Thiên Chúa”.

“Kẻ không có đức tin ‘nhìn’ cảnh đau khổ và chỉ thấy một thảm kịch. Còn ai có niềm tin thì ‘thấy’ và xác tín rằng đau khổ là được thông phần vào thập giá của Đức Ki-tô”.

“Kẻ không có đức tin cầm một quyển Kinh Thánh trong tay và ‘chỉ thấy” toàn là những dòng chữ. Còn ai có đức tin thì ‘nhìn thấy’ đó là ‘đèn soi ta bước, là ánh sáng chỉ đường ta đi” v.v…

Thế nên, thật phải đạo khi chúng ta ghi khắc trong con tim mình, lẽ thật rằng: “mù mắt sáng hồn hơn mù hồn sáng mắt”.

Hôm nay, mù-thể-lý không còn là điều đáng sợ. Y học ngày nay cho biết, những bệnh có thể gây mù, lé, nhược thị ở trẻ em thường gặp nhất, đó là: bệnh ROP, glocom bẩm sinh, đục thủy tinh thể và bướu nguyên bào võng mạc. Nhưng, nếu được phát hiện và điều trị sớm sẽ ngăn ngừa được mù lòa, giảm thiểu biến chứng.

Có sợ, chúng ta hãy sợ mình rơi vào căn bệnh “mù quáng”. Người mù quáng thấy rõ những “cái rác trong đôi mắt của người anh em”, nhưng lại không nhìn thấy “cái xà trong con mắt của mình”. Thật đúng với câu: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.”

Mù thể lý là một mất mát lớn, nhưng không làm hại ai. Còn người bị bệnh “mù quáng”, họ có thể gây ra vô số điều tai hại cho mình cũng như cho tha nhân.

Kinh Thánh cho chúng ta thấy những ai mắc căn bệnh mù quáng đều trở thành kẻ sát nhân.

Trường hợp Vua David như một điển hình. Tuy đã có nhiều thê thiếp, nhưng David lại say mê bà Bát-sa-bê là vợ của Uria. Sự say mê đó đã làm cho nhà vua trở nên “mù quáng”. Bất chấp đạo lý, ông ta tìm cách chiếm đoạt Bát-sa-bê.

Một âm mưu thâm độc được ông ta vạch ra. Đó là mượn tay quân thù giết chết Uria chồng bà Bát-sa-bê, ngoài mặt trận. Uria chết, ông David công khai lấy bà Bát-sa-bê.

Thế là cùng một lúc David phạm hai tội ác: tội ngoại tình và tội giết người. Thế mà, nhà vua vẫn bình thản như không thấy gì. Nhờ Ngôn Sứ Na-ta-an đến cảnh tỉnh, David mới nhận ra căn bệnh “mù quáng” của mình, ông ăn năn thống hối. (II Sm 11,1-12,12).

Tưởng chúng ta cũng nên nhắc đến một ông vua nữa, ông Hê-rô-đê. Trước “một điệu vũ làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích” của con gái bà Hê-rô-đi-a, Hê-rô-đê trở nên “mù quáng” chém đầu Gio-an Tẩy Giả, để đáp ứng lời yêu cầu của nàng vũ nữ.

Căn bệnh “mù quáng” rất đáng sợ. Nó làm cho ta sơ cứng tâm hồn. Sơ cứng tâm hồn làm cho ta mù nhân đức. Mù nhân đức… vâng, những con virus-ích-kỷ, virus-vô-cảm, virus-thành-kiến, virus-tự-cao-tự-đại v.v… tha hồ tung hoành ngang dọc trong tâm hồn ta.

Điều hiển nhiên, đó là chúng ta “mù bác ái, mù nhân hậu, mù từ tâm, mù nhẫn nhục, mù-sự-thật, mù-niềm-tin, mù-khiêm-nhường” v.v…

Thế nên, hãy xem lại đôi mắt tâm hồn của ta và tự hỏi: tôi có đang mắc phải căn bệnh mù quáng? Nếu có, hãy đến, không phải là đến hồ Si-lô-ác năm xưa, nhưng là “hồ Thánh Kinh”, nơi đây đôi mắt tâm linh của ta sẽ được chữa lành, nơi đây chúng ta sẽ được “nhìn thấy” đâu chính là “Đường, là Sự Thật và là sự sống” cho cuộc sống của mình.

Tại “hồ Thánh Kinh”, đôi mắt chúng ta sẽ nhận được một thứ ánh sáng, một thứ ánh sáng “lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5, 9). Vâng, đó chính là liều thuốc công hiệu nhất để ta “rửa sạch” đôi mắt mù quáng, của chúng ta.

Khi đã rửa sạch đôi mắt mù quáng của mình, chúng ta có thể nói, như người mù bẩm sinh xưa, đã nói: “Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy”.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 11 tháng 3, 2023

Hãy là cuộc trường chinh gặp Chúa

 “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?”

tbd 110323a


Chúa Nhật III – MC – A
Hãy là cuộc trường chinh gặp Chúa

Cuộc sống của con người là một chuỗi dài của những cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ làm cho ta nôn nóng, ví dụ như nôn nóng gặp người thân xa cách đã lâu. Có những cuộc gặp gỡ làm cho ta háo hức, ví dụ như háo hức gặp người yêu, chẳng hạn. Cũng có những cuộc gặp gỡ khiến cho ta bực bội, khó chịu, sợ hãi. Đó là gặp phải một người mồm to nhiều chuyện, hoặc một tên cướp cạn, xin đểu, trấn lột v.v…

Là một Ki-tô hữu, còn một cuộc gặp gỡ nữa, rất cần thiết, đó là cuộc gặp gỡ Đức Ki-tô. Gặp gỡ Đức Ki-tô, thì sao! Thưa, Lm. Tiến Lộc có lời chia sẻ: “Gặp gỡ Đức Ki-Tô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Ki-Tô đón nhận ơn tái sinh. Gặp gỡ Đức Ki-Tô chân thành mình gặp mình. Gặp gỡ Đức Ki-Tô nảy sinh tình đệ huynh.”

Thật thế sao? Thưa, đúng vậy. Người đầu tiên, là ông Lê-vi. Sau khi gặp gỡ Đức Giê-su, ông đã biến-đổi-cuộc-đời-mình, biến đổi từ một người thu thuế thành người môn đệ của Đức Giê-su.

Rồi đến trường hợp ông Da-kêu. Là thủ lãnh những người thu thuế, một hạng người bị cho là kẻ tội lỗi, thật khó có hy vọng được gặp gỡ Đức Giêsu. Thế mà, ông lại được gặp Ngài. Hay nói đúng hơn, Đức Giê-su chủ động gặp ông, ngay ở-trong-nhà-ông. Qua sự kiện gặp gỡ này, Đức Giêsu đã chinh phục được tâm hồn ông. Từ một hạng người bị mọi người xầm xì cho là “người tội lỗi”, ông đã được cảm hóa và được nhận lãnh ơn-tái-sinh.

Gặp-gỡ-Đức-Giê-su-chân-thành-mình-gặp-mình, đó là trường hợp người phụ nữ tại Samari. Câu chuyện này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an. (x.Ga 4, 5-42)

**
Tin Mừng thánh Gio-an thuật lại rằng: Hôm ấy, Đức Giêsu “đến một thành xứ Samari, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cop đã cho con là ông Giu-se. Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.” (x.Ga 4, 5-6).

Là khoảng-mười-hai-giờ-trưa. Vâng, thời khắc này chắc hẳn là rất nóng. Ấy thế mà có lạ không kia chứ, bất chấp nắng nóng “một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước”! Lạ hơn nữa, khi thấy người phụ nữ này, “Đức Giê-su nói với người ấy: Chị cho tôi xin chút nước uống.”

Vâng quả là lạ! Lạ vì, theo lẽ thường “người Do Thái không được giao thiệp với người Samari”. Và đó là lý do, khi nghe Đức Giê-su xin nước, người phụ nữ Samari nói: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?”

Nghe thế, Đức Giê-su vẫn không có một cử chỉ gì gọi là kỳ thị. Trái lại, Ngài lại có những lời nói rất chân tình, nói rằng: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị ‘Cho tôi chút nước uống’ thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” (x.Ga 4, 10).

Điều gì là ân-huệ-Thiên-Chúa-ban! Nước gì lại gọi là nước-hằng-sống! Chắc hẳn người phụ nữ này không hiểu. Và, chính vì không hiểu nên chị Samari này đã nói với Đức Giê-su: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy?”

Xưa, ngôn sứ Edekiel đã được “Thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải… Người ấy lại nói với tôi: Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. (Ed 47, 1-2… 8-9)

Vâng, tất cả đều được sống, nhưng đó chỉ là sự sống thuộc thể. Nay, với Đức Giê-su, Ngài nói về một nguồn nước, nguồn nước đem-lại-sự-sống-thuộc-linh.

Hôm ấy, trả lời người phụ nữ Samari, Đức Giê-su nói: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ phải khát. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (x.Ga 4, 13).

Dù chưa biết nước ấy ngon ngọt ra sao, nhưng khi nghe Đức Giê-su nói thế, người phụ nữ Samari liền nói với Ngài, rằng: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.”

Vâng, thật đáng cảm phục về độ tin cậy của chị ta. Chỉ mới diện kiến lần đầu. Chưa biết Đức Giêsu là ai, thế mà chị ta vẫn cứ tin vào lời nói của Ngài.

Mà, làm sao lại không tin cho được. Là một kẻ xa lạ, mới chỉ là cuộc gặp gỡ lần đầu, thế mà Đức Giêsu đã biết rất rõ cái lý lịch đen tối của chị ta, rằng: “chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị…” (Ga 4, 18).

Rất, có rất nhiều điều Đức Giê-su đã nói với người phụ nữ này. Những điều đó, có thể nói, đó là những điều mà hôm nay chúng ta cần ghi khắc trong con tim mình.

Hôm ấy, tranh luận với người phụ nữ Samari về việc phải thờ phượng Chúa ở đâu, Đức Giê-su có nói: “Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (x.Ga 4, 23-24).

Chúng ta hãy nhớ nha! Thờ phượng Chúa phải thờ phượng trong thần khí và sự thật. Không phải trên núi… gì gì đó, mà phải “lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy Cha” (bản dịch United Bible Societies).

Kết thúc cuộc gặp gỡ, người phụ nữ Samari hoàn toàn bị chinh phục bởi những gì Đức Giê-su đã nói với mình. Bà ta “…vào thành và nói với người ta: Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”.

Không dừng ở đó, người phụ nữ Samari còn nói tiếp rằng: “Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” (x. Ga 4, 28).

Có thể kết luận rằng, cuộc gặp gỡ giữa người phụ nữ Samari và Đức Giê-su là một cuộc gặp gỡ không chỉ làm cho bà ta thấy rõ “mình gặp mình”, mà còn “nảy sinh tình đệ huynh.”

Hôm ấy, những người đệ-huynh trong thành, sau khi nghe những lời tường trình của bà, “Họ ra khỏi thành và đến gặp (gỡ) Người… Khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày.”

Vâng, cuộc gặp gỡ này đem đến cho dân Samari một cái nhìn rõ nét về Đức Giê-su. Họ nói: “Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.

***
Là một Ki-tô hữu, chúng ta đã gặp gỡ Đức Ki-tô? Sao! Ngài đã về trời rồi, nên không gặp được, sao! Đúng, Đức Giê-su đã về trời, nhưng Ngài vẫn ở lại với chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế.”, kia mà!

Thật vậy, Đức Giê-su vẫn đang ở với chúng ta. Ngài đang ngồi bên bờ giếng, nhưng không phải là bờ giếng Gia-cóp năm xưa, mà là ngồi bên “bờ giếng Thánh Thể”.

Nói rõ hơn, Đức Giê-su đang ngồi nơi Bàn Tiệc Thánh Thể… và chờ, chờ chúng ta đến gặp gỡ Ngài, cùng với Ngài ”dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Tham dự bữa tiệc này, chúng ta “sẽ không bao giờ khát nữa”. Chúng ta sẽ được ăn một thứ bánh và uống một thứ rượu “đem lại sự sống đời đời”. Đó chính là Mình và Máu Thánh Đức Ki-tô.

Vâng, đó là điều chính Đức Giê-su phán hứa: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống.” (x.Ga 6, 54-55).

Chớ, chớ có mải mê bu quanh bờ-giếng-trần-thế, những bờ giếng tưởng như là sẽ cho làm chúng ta thỏa mãn những cơn khát, đại loại như: khát quyền lực, khát danh vọng, khát tiền bạc, khát tình dục v.v...

Đừng quên “Tất cả chỉ là phù vân”. Vâng, Cohelet có nói rằng: “Đào kép, mỹ nữ cung phi ư! Tôi đã trổi vượt và giàu có hơn mọi người... Tôi nhận thấy: tất cả chỉ là phù vân.” (Gv 2, 11).

Một điều nữa chúng ta cần nên nhớ, đó là đừng bao giờ để mình: “Khát… lời ĐỨC CHÚA” (x.Am 8, 11). Hãy đến bờ-giếng-Thánh-Kinh, nơi chúng ta sẽ được khỏa lấp những “cơn khát chân lý và lẽ thật”, chân lý và lẽ thật dẫn chúng ta đến hạnh phúc Nước Trời.

Thật ra, gặp gỡ Đức Giê-su không quá khó. Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta, trên con đường đời ta đi. Chúng ta gặp gỡ Ngài nơi những người đói ăn, nơi những người nghèo khổ, nơi những kẻ bệnh hoạn, tật nguyền, nơi những đứa trẻ mồ côi, nơi những phụ nữ đơn thân nuôi con v.v…

Chúng ta có thể gặp gỡ Đức Giê-su qua việc “Đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp. Đem chân lý vào chốn lỗi lầm.”

Chúng ta có thể gặp gỡ Đức Giê-su qua việc “Đem tin kính vào nơi nghi nan. Chiếu trông cậу vào nơi thất vọng… rọi ánh sáng vào nơi tối tăm. đem niềm vui đến chốn u sầu.”

Xưa, người phụ nữ Samari nói với Đức Giê-su, rằng: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.”

Nay, là một Ki-tô hữu, chúng ta sẽ xin gì với Đức Giê-su? Nên chăng, xin Ngài “sự sống đời đời và khỏi phải chết đời đời”! Muốn thế, không gì tốt hơn là hãy biến cuộc đời mình là một cuộc trường chinh gặp gỡ Đức Ki-tô.

Vâng, là một Ki-tô hữu, cuộc đời của chúng ta “hãy là cuộc trường chinh gặp Chúa”.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...