Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2023

Hãy sống như Mục Tử Giê-su

 “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.”

tbd 290423a

Chúa Nhật IV – PS – Năm A
Hãy sống như Mục Tử Giê-su

Tông đồ Gio-an có nói: “Thiên Chúa là tình yêu.” Và ngài có lời tiếp rằng: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.” (1Ga 4, 9).

Với nhà truyền giáo Rich Warren, ông ta thêm lời diễn giải: “Như bất kỳ người cha yêu thương nào, Đức Chúa Trời không muốn mất bất kỳ người con nào của Người.”

Mà đúng là vậy. Ngay từ thuở xa xưa thời Cựu Ước, Thiên Chúa, qua môi miệng ngôn sứ Ê-dê-ki-en, có lời tuyên phán: “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống.” (Ed 33, 11).

Và rồi, khi Con Một của Thiên Chúa là Đức Giê-su xuống thế làm người, Ngài đã có lời công bố vẫn nội dung là thế: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.” (x.Ga 3, 16-17).

**
Đúng, Thiên Chúa yêu thế gian... Và Đức Giê-su chính là hiện thân cho tình yêu đó. Là hiện thân cho tình yêu đó, thế nên, Ngài luôn thể hiện lòng thương xót đối với bất cứ ai đến với mình.

Một lần nọ, để thể hiện lòng thương xót, Đức Giê-su đã cất tiếng mời gọi: “Hỡi những ai mệt mỏi và gánh nặng. Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.”

Một lần khác, khi nhìn thấy “dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo mình”, Đức Giê-su đã chạnh lòng thương xót, Ngài nói với các môn đệ, rằng: “họ như bầy chiên không người chăn dắt” (x.Mc 6, 34).

Thật vậy, họ không có người chăn dắt. Mà, nếu có thì cũng như không. Nhóm kinh sư và người Phariseu tuy được coi như là những người “chăn dắt” họ. Nhưng than ôi! Quý ông này đã chăn dắt con dân mình theo cung cách của những “kẻ cướp, kẻ trộm”.

Thì đây! Chúng ta thử nhìn xem! Có là kẻ cướp không, khi các kinh sư và các người Phariseu “nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ”!? Có là kẻ trộm không, khi các kinh sư và người Phariseu “lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà”?!

Đã có lần, Đức Giê-su gọi những kinh sư và người Phariseu là những kẻ “cướp bóc và ăn chơi vô độ.” Thế nên, với tình cảnh như thế, Đức Giê-su không thể không xem những người đi theo mình như thể là “những con chiên tan tác lạc đàn”.

Do vậy, bất chấp những căng thẳng vốn đã xảy ra giữa Ngài và những kinh sư lẫn nhóm Phariseu, Đức Giêsu tuyên bố: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là tên trộm cướp.”

Và tiếp theo đó, Ngài khẳng định: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (x.Ga 10, 7-10).

***
“Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Xưa kia, Đức Giê-su đã khẳng định như thế. Và, ngày nay, Ngài cũng vẫn khẳng định như thế.

Đức Giê-su không chỉ cho chúng ta được sống và sống dồi dào đời này. Nhưng Ngài còn ban “ơn cứu độ” cho tất cả những ai đã đi theo Ngài, đã tin vào Ngài, đã chọn Ngài là “Mục Tử đời tôi”.

Đó chính là lý do hôm nay Đức Giê-su vẫn lớn tiếng nói với chúng ta rằng: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.” Phần còn lại, đó là chúng ta có “vào và đi theo sau Ngài”, hay không?

Chúng ta có đi theo sau Ngài không? Vâng, câu trả lời là của riêng mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, chỉ khi chúng ta đi-theo-sau-Ngài chúng ta mới có thể “ra vào và gặp được đồng cỏ”.

Muốn được như thế, chúng ta phải lắng nghe tiếng Chúa gọi và nhận ra tiếng nói của Ngài.

Xưa, Samuel chỉ có thể nghe tiếng ĐỨC CHÚA gọi mình trong đêm thanh vắng. Cũng vậy, hôm nay, chúng ta chỉ có thể nghe tiếng Chúa gọi trong thinh lặng nguyện cầu.

Còn Thánh Kinh! Vâng, Thánh Kinh chính là nơi chúng ta nhận ra tiếng nói của người mục tử Giê-su, và Thánh Thể chính là nơi chúng ta sẽ nhận được một thứ cỏ, không phải “cỏ dại” nhưng là một thứ cỏ cho chúng ta “sự sống đời đời”. Nói rõ hơn, đó là Mình-Máu-Thánh-Chúa.

Đi-theo-sau-Mục-Tử-Giê-su, có lúc chúng ta sẽ phải đối diện với những thế lực ác tà, những thế lực ác tà dưới sự chỉ huy của Satan và con cái chúng. Chúng sẽ ngăn cản, chống phá, đe dọa v.v... để chúng ta sợ hãi mà không đi theo Mục Tử Giê-su.

Những lúc ấy, đừng buông tay chúng ta ra khỏi bàn tay của Ngài. Và, hơn thế nữa, Ngài sẽ không bao giờ buông chúng ta. Vâng, Đức Giê-su sẽ ban cho chúng ta sự an toàn, sự an toàn “để chiên của Ngài được bình an”.

Chúng ta không phải sợ, đó là công việc của Mục Tử Giê-su.

Đi-theo-sau-Mục-Tử-Giê-su, sẽ có lúc chúng ta bị Satan và con cái chúng tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ… bằng những tin tức giả tạo đầy ác ý, v.v… để chúng ta mất đi niềm tin vào Mục Tử Giê-su.

Những lúc ấy, chúng ta hãy nhìn Mục Tử Giê-su “như là cội rễ và cuối cùng của đức tin” Chúng ta phải tin, tin rằng: “Tôi biết Đấng tôi tin cậy, và tôi chắc chắn rằng Ngài có thể gìn giữ điều tôi đã tín thác Ngài, cho đến ngày Ngài trở lại” (2Tm 1, 12).

*****
Hôm nay, Chúa Nhật IV Phục Sinh. Theo truyền thống, vào Chúa Nhật này, Giáo Hi cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục.

Nói tới ơn thiên triệu linh mục, không ít người lo sợ rằng, với một thế giới cổ suý cho chủ nghĩa thế tục, thật khó để mà có nhiều người từ bỏ hết mọi sự, “tự ý không kết hôn vì Nước Trời”.

Thật ra, điều đáng để sợ, đó là sợ rằng, những người đã-được-Chúa-tuyển-chọn, dù đã được năm mười năm, dù đã vượt qua “kim khánh”, thế mà vẫn chưa thấy quý ngài “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người”.

Vâng, có ai đó đã nói: “người linh mục là một Đức Kitô khác (Alter Christus) chứ không phải khác Đức Kitô”, thế nên việc “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người”, là điều cần thiết.

Có “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người”, người linh mục hôm nay mới có thể cùng Đức Giêsu “đi trước” chứ không phải “đi giữa hay đi sau” đoàn chiên.

Có là một Alter Christus, mới có thể cất tiếng nói với đoàn chiên mình rằng: “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Cuối cùng, người linh mục đó mới đủ dũng cảm như “anh cả Phêrô” dám hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên.

Về những điều nêu trên, Đức Giêsu nói: “Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được”.

Vâng, chỉ khi thực thi những mệnh lệnh nêu trên, người linh mục hôm nay, mới có thể được ghi nhận là một người mục-tử-nhân-lành, “người mục tử đích thực”.

Do vậy, đừng cố làm linh mục khi chúng ta không thể trở thành một Alter Christus. Không trở thành Alter Christus mà cố trở thành linh mục, nói không sợ sai, người đó sẽ tạo ra biết bao nhiêu đau khổ cho Giáo Hội và nhất là làm mất đức tin nơi các bạn trẻ. Để rồi, lời cuối cho cuộc tình mình, đó là: ông chỉ là “sói đội lốt chiên”.

Nói lên điều này để làm gì? Thưa, để chúng ta phải cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều cho ơn thiên triệu linh mục. Vâng, chúng ta hãy cầu nguyện như thế này: “Xin Chúa làm nên cuộc Hiện Xuống mới trong đời sống Hội Thánh, xin tuôn tràn trên các Mục tử ơn khôn ngoan và thông hiểu, gìn giữ các ngài luôn hiệp thông với nhau trong Chúa, để các ngài cùng nhau tìm hiểu những điều đẹp ý Chúa, và hướng dẫn đoàn Dân Chúa thực thi những điều Chúa truyền dạy.” (trích: Kinh cầu cho Thượng Hội Đồng Giám Mục 2023).

Hãy, hãy thiết tha trong việc cầu nguyện. Có như thế, chúng ta mới có thể hy vọng Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta “những mục tử như lòng (Người) mong ước, (những mục tử) sẽ khôn ngoan sáng suốt chăn dắt (chúng ta)” (Gr 3, 15).

Cũng đừng quên cầu nguyện cho chính gia đình của chúng ta. Và lời cầu nguyện đẹp nhất, đó là hãy xin cho chúng ta biết sống một cuộc sống như Gia-Thất-Thánh, nơi có sự hiện diện Thánh Giu-se, Đức Maria và Mục Tử Giê-su. Bởi vì, khi chúng ta sống một cuộc sống như Gia-Thất-Thánh, gia đình chúng ta mới có thể “nảy sinh các mục tử tốt lành”.

Nảy-sinh-các-mục-tử-tốt-lành chẳng phải là chúng ta cùng với Chúa, đem đến cho Giáo Hội những “mục tử như lòng Chúa mong ước”!

Thế nên, chúng ta hãy sống như Mục Tử Giê-su.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 23 tháng 4, 2023

Người môn đệ vô danh là tôi…

 “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người”.

tbd 220423b

Chúa Nhật III – PS – Năm A
Người môn đệ vô danh là tôi…

Đức Giê-su Phục Sinh chính là hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại. Với chúng ta hôm nay, khi nói tới chuyện Đức Giê-su Phục Sinh, chắc hẳn ai ai cũng thốt lên rằng: Chúng con Tạ Ơn Chúa. Thế nhưng, với các môn đệ xưa thì không như thế. Bị tác động bởi nhiều cảm xúc cộng với những yếu tố ngoại cảnh, do vậy các ông mang tâm trạng lo lắng, sợ hãi, bồn chồn và hồi hộp.

Tuy Kinh Thánh không ghi rõ, nhưng chúng ta có thể nghĩ rằng, chính sự lo lắng, sợ hãi, bồn chồn và hồi hộp đã khiến các môn đệ “buồn hiu hắt buồn”.

Và, bởi vì quá u buồn trước biến cố Thầy mình bị giết chết, thế nên hầu hết các môn đệ đều thất vọng, chán nản, tuyệt vọng và mất dần các hứng thú đối với cuộc sống. Không còn hứng thú với những gì đang diễn ra trong cuộc sống của mình, thế nên, đã có hai vị bỏ Giê-ru-sa-lem về quê “cắm câu”. Đây là một câu chuyện, một câu chuyện rất ly kỳ, câu chuyện này được ghi trong Tin Mừng thánh Luca. (x.Lc 24, 13-35).

**
Tin Mừng thánh Luca ghi lại rằng: “Cùng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau.”

Hai người môn đệ này là ai? Thưa, hai ông rất có thể thuộc nhóm bảy mươi hai, một nhóm đã được Đức Giê-su “chọn thêm”, chọn thêm để “sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới.” Hồi ấy các ông đã ra đi, ra đi và được Thầy Giê-su dặn dò rằng, hãy nói cho mọi người biết: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 10, 9).

Triều Đại Thiên Chúa đến là một ước mơ lớn. Các ông từng ước mơ rằng, Thầy Giê-su sẽ xây dựng một Triều Đại Mới, một Triều Đại sẽ đem lại cho Israel, cho gia đình, cho mọi người thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Roma.

Vì thế, ba năm theo Thầy Giê-su cũng là ba năm các ông mong đợi cho “Triều Đại” ấy mau đến. Hy vọng một khi Triều-Đại-Thầy đến, tệ lắm các ông cũng được một chức vụ gì đó trong Triều Đại của Thầy mình.

Than ôi! sự việc lại không như mong muốn. Thê thảm quá! Thật không thể hiểu nổi một người đầy quyền năng, đầy lòng nhân ái như “sư phụ”, thế mà lại có một kết cục bi đát! Thầy Giêsu đã bị giết chết. Bước qua ngày thứ ba rồi. Thế là chấm hết! Thế là “mộng vàng tan mây”!

Kinh Thánh có chép rằng “Giấc mộng chưa thành làm trái tim khắc khoải” (Cn 12, 13). Ôm trái tim khắc khoải sầu thương “về tất cả những sự việc vừa mới xảy ra” cho Thầy Giêsu, hai ông “nhọc nhằn lê gót chân buồn” trở về Emmau.

Con đường chỉ “chừng mười một cây số”, nhưng hai ông vẫn cảm thấy “như (sao) đường về quá xa.” Và rồi, trong lúc hai ông “trò chuyện”, trò chuyện rằng: Ước gì… ước gì: “Trời cao có thấu cúi xin người ban phước cho đời con”, thì bất ngờ Đức Giêsu xuất hiện.

Vâng, chính là Đức Giê-su. Ngài “tiến đến gần và cùng đi với các ông”. Thế mà, chẳng hiểu vì sao “mắt (hai ông)… bị ngăn cản, không nhận ra Người.”

Thôi kệ! Cũng chẳng sao! Thêm người thêm vui. Thế là, đường về Em-mau, bây giờ người ta thấy có ba người. Ba người, thì “một người đi với một người”, còn người kia, người kia “đi với nụ cười hắt hiu.” Ai cười hắt hiu? Thưa, ông Cơ-lê-ô-pát.

Vâng, hôm ấy, sau khi Đức Giê-su hỏi hai ông: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau chuyện gì vậy?” Chuyện kể rằng: “Họ dừng lại vẻ mặt buồn rầu.”

Với vẻ mặt buồn rầu, ông Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” – Đức Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Trời ạ! “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình và đã đóng đinh Người vào thập giá.” Ông-không-biết-sao!

“Phần chúng tôi” Cơ-lê-ô-pát với nụ-cười-hắt-hiu, nói tiếp: “trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi.”

Nhìn “ông bạn đường” không hẹn mà gặp, Cơ-lê-ô-pát tiếp tục kể lể: “Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra và bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói, còn chính Người thì họ không thấy.”

Trước nỗi buồn hiu, thất vọng, nghi nan của hai môn đệ, Đức Giê-su cất tiếng nói: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?”.

Để cho hai môn đệ không còn chìm trong tâm trạng “lặng lẽ buồn hiu đứng nhìn”, Đức Giê-su “bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.”

Hôm ấy, khi gần tới làng hai môn đệ muốn đến, chuyện kể rằng: “Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa.” Thấy thế, hai môn đệ “nài ép Người” ở lại với họ. Họ nói: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn.”

Đức Giê-su đã ở lại. Và rồi, khi đồng bàn với hai môn đệ, “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người”. Tiếc thay! Đức Giê-su, sau đó “Người lại biến mất”.

Sau vài giây phút “ra ngẩn vào ngơ”, hai môn đệ thì thầm với nhau, rằng: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy sao?”

Đúng vậy, lòng hai ông bừng cháy mãnh liệt, mãnh liệt đến độ hai ông, ngay lập tức: “quay trở lại Giê-ru-sa-lem gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó.”

Nhóm Mười Một cho biết: “Chúa trỗi dậy thật rồi và đã hiện ra cho ông Si-môn.” Còn hai người môn đệ, họ “thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (x.Lc 24, 35).

***
Chúng ta vừa nghe lại câu chuyện “Đức Giê-su hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau”. Đây không phải là chuyện “thần tiên - giả tưởng”. Đây là một câu chuyện có thật, một sự thật là Cơ-lê-ô-pát và người bạn đồng hành của ông đã “nhận ra Chúa”.

Tiến trình nhận-ra-Chúa của hai ông là một tiến trình tiệm tiến. Thoạt tiên hai ông “gặp” Đức Giê-su và cùng đồng hành với Ngài. Tiếp đến, khi cùng đồng hành với Ngài, các ông được “nghe” Ngài giải thích Lời Chúa. Cuối cùng là hai ông “đón” chính con người Phục Sinh của Đức Giêsu “mời Ngài ở lại”, nhờ đó qua việc “cùng đồng bàn với họ”, hai môn đệ “nhận” ra Thầy Giêsu của mình, qua việc Người “bẻ bánh và trao cho các ông”.

Nói tắt một lời, nhờ “đón” nên hai ông “nhận” ra Đức Giê-su Phục Sinh, qua việc cùng đồng bàn với Ngài.

Chia sẻ về sự kiện hai môn đệ được diễm phúc đồng-bàn-với-Chúa, Lm. Charles E.Miller có lời rằng: “Chúa Giê-su cũng tiếp tục làm (như thế) cho chúng ta.”

“Đó là”, ngài Lm. Charles nói tiếp: “Khi chúng ta bảo toàn tập quán thánh của mình là cùng nhau tham dự thánh lễ Chúa Nhật, thì nhà thờ trở thành con đường Em-mau của chúng ta. Chúa Giê-su nói với chúng ta qua lời Kinh Thánh (phần phụng vụ Lời Chúa).

Đôi lúc, có lẽ chúng ta không cảm nhận được mấy ảnh hưởng về những gì chúng ta nghe, nhưng khi mở rộng lòng đón nhận ơn sủng Chúa Thánh Thần, tác giả đích thực của các sách Tin Mừng, Lời Chúa có sức mạnh thấm nhập vào con người chúng ta. Bấy giờ, chúng ta sẽ nhận ra chính Chúa Giê-su đang nói với chúng ta.”

Chính Chúa Giê-su sẽ nói với chúng ta và chúng ta sẽ nghe Chúa nói, nếu chúng ta cùng nhau tham dự thánh lễ Chúa Nhật. “Nhà thờ”, như Lm. Charles đã nói: “trở thành con đường Em-mau của chúng ta.” Và, khoảng cách từ nhà chúng ta đến nhà thờ làm gì tới “mười một cây số”! Thế nên, với phương tiện cơ giới ngày nay, chúng ta đừng vắng mặt như ông Tô-ma đã vắng mặt ngày thứ nhất trong tuần.

Đừng vắng mặt, bởi vì, đến nhà thờ, chúng ta còn có thể gặp Đức Giê-su Phục Sinh nơi Bàn Tiệc Thánh Thể.

Cũng là Lm. Charles E.Miller, khi nói tới Bàn Tiệc Thánh Thể, ngài có lời chia sẻ: “Nhìn lên bàn thờ trong phần Kinh Nguyện Thánh Thể, chúng ta tận mắt thấy hành động của Chúa Giê-su, và tận tai nghe lời Người, (qua Lm. chủ tế), y hệt như hai môn đệ xưa kia tại bàn ăn ở nhà các ông: Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và bắt đầu trao cho họ.”

Có một chi tiết, tưởng chúng ta nên chú ý. Trong hai người môn đệ, thánh sử Luca chỉ cho chúng ta biết tên một người: ông Cơ-lê-ô-pát. Thế còn ông kia tên gì? Thưa, nhiều nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng, chính chúng ta là người môn đệ vô danh đó.

Vâng, phải là chúng ta. Bởi vì, người môn đệ vô danh năm xưa không còn nữa. Và, chúng ta phải là hiện thân của người môn đệ vô danh đó.

Phải là hiện thân người môn đệ vô danh đó là bởi, sứ vụ “loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến.” vẫn còn đó.

Phải là hiện thân người môn đệ vô danh đó còn để, tiếp nối Chúa Giê-su Phục Sinh, cùng-đồng-hành với: “những kẻ nghèo đói - những người ăn xin hèn yếu”.

Phải là hiện thân người môn đệ vô danh đó còn để, tiếp nối Chúa Giê-su Phục Sinh, quan tâm đến: “người phu xe gầy vai… người lao công cùng đi”.

Chưa hết, chúng ta còn phải quan tâm đến những trẻ em cơ nhỡ, những kẻ đau yếu tật nguyền, những người già không chốn nương thân v.v…

Cuối cùng, có trở thành người môn đệ vô danh đó, chúng ta mới có hy vọng “Chúa vào và ở lại với chúng ta (và) cùng đồng bàn với chúng ta.”

Vâng, Chúa Giê-su Phục Sinh vẫn tiếp tục gửi đến chúng ta những lời mời gọi yêu thương: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.” (x.Kh 3, 20).

Chúng ta muốn được diễm phúc như thế không! Nếu muốn, nếu muốn chúng ta chỉ cần xác định, xác định rằng: “người môn đệ vô danh là tôi.”

Petrus.tran

Thứ Bảy, 15 tháng 4, 2023

Đừng bỏ lễ Chúa Nhật…

 “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).

tbd 150423a

Chúa Nhật II – PS – Năm A
Đừng bỏ
 lễ Chúa Nhật…


“Mừng Chúa Phục Sinh – Chúa đã Phục Sinh - Mừng Chúa sống lại – Happy Easter.” Vâng, trong suốt một tuần qua, chắc hẳn không ai trong chúng ta lại không nhìn thấy những dòng chữ này. Đây là những dòng chữ được viết, được vẽ, nói chung là được thiết kế rất, rất đẹp, và được treo trang trọng trước cổng những ngôi thánh đường.

Những dòng chữ này được treo trang trọng như một cách để nói lên niềm tin của gần hai tỷ người Ki-tô hữu, rằng: Chúng tôi tin Đức Giê-su: “Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô, Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh”.

Niềm tin Chúa-đã-Phục-Sinh không phải do Giáo Hội tự bịa đặt ra. Nhưng là do các thánh tông đồ truyền dạy. Các ngài đã truyền dạy rằng: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su đã bị nộp… kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết.” (x.Cv 2, 23-24)

Các thánh tông đồ đã truyền dạy. Và hôm nay, chúng ta tin một cách đơn sơ, chân thành. Thế nhưng, với các môn đệ xưa, để có được một niềm tin tuyệt đối về điều mình truyền dạy, không phải là một sớm một chiều.

Đó, đó là sự thật, sự thật của hơn hai ngàn năm xa trước đó. Thầy Giê-su đã sống lại. “Người đang sống và (tôi) đã thấy Người”. Vâng, bà Maria Mác-đa-la đã làm chứng như thế.

Thế nhưng, các môn đệ “vẫn không tin”. Các ông còn cho đó là “chuyện vớ vẩn.” Chưa hết, một ông trong nhóm mười một còn tuyên bố xanh rờn, rằng: “thấy mới tin”.

Thấy-mới-tin, đó là lời tuyên bố của tông đồ Tô-ma. Vâng, câu chuyện này đã được ghi lại trong Tin Mừng Thánh Gio-an. (x.Ga 20, 19-31)

**
Theo thánh sử Gio-an kể lại thì, sự kiện này xảy ra vào buổi chiều “ngày thứ nhất trong tuần”. Chiều hôm đó, các môn đệ của Đức Giêsu tụ họp trong một ngôi nhà. Vâng, sau hai ngày tan tác, kể từ khi Thầy Giê-su bị bắt và bị giết, nay các ông tụ họp nơi đây trong nỗi sợ hãi lẫn âu lo.

Các ông sợ là bởi nhóm thượng tế và các kỳ mục, họ đã mua chuộc nhóm lính tung tin đồn rằng “các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác”. Tin đồn đó như sợi dây thòng lọng sẵn sàng xiết vào cổ các môn đệ bất cứ lúc nào.

Và, như người ta thường nói “ngoại cảnh chi phối nội tâm”. Thế nên, những lời tuyên truyền dối trá đó đã chi phối rất mãnh liệt đến nội tâm các ông. Mãnh liệt đến độ, ai nấy đều “sợ người Do Thái”. Vâng, bởi vì sợ, nên các ông đã “đóng kín” các cánh cửa ngôi nhà mình.

Còn âu lo! Sao không lo! Tính từ hôm thứ-sáu-buồn, ngày Thầy Giêsu thọ nạn, cho đến hôm nay là “ngày thứ nhất trong tuần”… trời đã xế chiều. Sắp hết ba ngày rồi! Nhớ đến lời phán hứa của Thầy rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”, các ông không khỏi thở than: Ôi! Sao vẫn chưa thấy ứng nghiệm!

Thế rồi… vào chiều hôm ấy, đang lúc Gio-an suy đi nghĩ lại về hiện tượng lúc sáng sớm ra mộ, ông chỉ thấy ngôi mộ trống. Còn Phê-rô… có thể, có thể ông đang buồn bã “ngồi một mình, nghe mưa rơi, mặc lệ tràn câu thiên thu”… thì bất ngờ, một điều không tưởng đã xảy ra.

Điều không tưởng đó là: “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông”. Người đã nói với các ông rằng: “Bình an cho anh em” (Ga 20, 19).

Sau lời chào bình an, khung cảnh sầu thảm của gian phòng nơi các ông tụ tập được nhường chỗ cho sự vui mừng. Chuyện kể rằng: “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20, 20).

Thầy đó ư! Lời Thầy đã ứng nghiệm rồi sao! Nhớ lại lời bà Maria Mác-đa-la cho biết “Tôi đã thấy Chúa” và đã “kể lại những gì Người đã nói với bà”, bây giờ các ông mới cảm thấy xấu hổ vì đã “cho là chuyện vớ vẩn” (x.Lc 24, 11).

Vâng. Chính Đức Giêsu chứ không là ai khác. “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Bàn tay và cạnh sườn in đậm dấu tích của vết đinh và mũi đòng, chứng tích của cuộc khổ nạn mà Ngài đã phải trải qua.

Các môn đệ như người chết sống lại. Mà quả thật, các ông sống cũng như chết. Sau cái chết của Thầy Giê-su, các ông mất hẳn sức sống, sức sống mà ông Phê-rô đã tự hào, rằng: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã.” Vâng, hôm ấy, các ông đã sợ hãi và lẩn trốn.

Và, hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh đến, các ông đã được “tái sinh”, tái sinh qua việc Đức Giê-su “thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”, một sự tái sinh đúng nghĩa, đó là “tái sinh trong Thần Khí”, một sự tái sinh đủ mạnh để đón nhận niềm tin, tin rằng “Người đã sống lại thật”.

Thật đáng tiếc! Tông đồ Tôma, hôm đó, vì không có mặt, nên đã không tin sự kiện “Người đã sống lại thật”, mặc cho tất cả các môn đệ đều xác quyết rằng, “chúng tôi đã được thấy Chúa”.

Không tin, bởi ông Tô-ma cho rằng: “Bách văn bất như nhất kiến - Trăm nghe không bằng một thấy”. Do vậy, ông lớn tiếng nói với các bạn đồng môn của mình, rằng “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).

Thế rồi, tám ngày sau, Tôma đã phải giật thót mình khi nhìn thấy Đức Giê-su. Cũng giống như lần trước, mặc cho “các cửa còn đóng kín”, Ngài hiện đến, đứng giữa các ông, cũng một lời chúc “Bình an cho anh em”, rồi Ngài bảo với ông Tôma rằng, “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”.

Nhìn Thầy Giê-su, một Giê-su bằng xương bằng thịt, với tất cả dấu tích của cuộc khổ hình, sự hồ nghi đã biến khỏi tâm hồn của Tôma, thay vào đó là một tâm hồn tan vỡ, một tâm hồn mở ra, xác tín niềm tin của mình vào Đức Giê-su với lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).

***
Đức Giêsu Phục Sinh còn nói gì với tông đồ Tôma? Thưa, Ngài bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.” Phải chăng đây là lời Đức Giêsu trách cứ Tôma?

Thưa không. Mà, nếu đúng thì đâu chỉ mình ông Tô-ma “cứng lòng tin”! Còn đó là cả nhóm mười người trong họ, dù đã nghe bà Maria Mác-đa-la nói “(Chúa) đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin”.

Một lần nọ, trong một lần tỏ mình ra cho các ông, khi các ông đang dùng bữa, Đức Giê-su đã chẳng “khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người trỗi dậy”, đó sao!

Đức Giêsu Phục Sinh và hiện đến không phải để trách móc những yếu đuối của các môn đệ. Ngài đến là để “Ban Bình An” cho các ông. Điều mà các ông đang rất cần, rất cần để vượt qua sự sợ hãi, sợ hãi trước những thách đố mà các ông đã và đang phải đối diện. Đó là những thách đố giữa cuộc đời.

Còn việc ông Tô-ma muốn thấy-mới-tin ư! Vâng, không có gì lạ, Tôma muốn được dùng chính “thị giác” hơn là “thính giác” để khẳng định lòng tin của mình.

Vâng, chính việc tông đồ Tôma có nhu cầu “nhìn sự thật” hơn là “nghe sự thật” nên nhờ đó Đức Giêsu ưu ái tặng cho các môn đệ và cũng là cho chúng ta hôm nay thêm một lời chúc phúc: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, …29).

****
Nói về niềm tin của các môn đệ về sự Phục Sinh của Đức Giê-su, thì cũng nên nói về niềm tin của chúng ta trước biến cố trọng đại này.

“Mừng Chúa Phục Sinh -Chúa đã Phục Sinh- Mừng Chúa sống lại - Happy Easter.” Vâng, chúng ta đã tin, chắc chắn là thế. Thế nhưng, chúng ta đã thật sự gặp Đức Giê-su Phục Sinh? Chúng ta đã “thật sự” được thấy, được chạm, được “đặt bàn tay vào cạnh sườn Người”?!

Chúa Giêsu Phục Sinh không quá thiên vị, Ngài vẫn hiện đến với chúng ta nơi “Bàn Tiệc Thánh Thể”.

Nơi bàn Tiệc-Thánh-Thể, chúng ta sẽ được thấy, được chạm, được đặt-bàn-tay-vào-cạnh-sườn-Người. Nơi bàn Tiệc-Thánh-Thể, Đức Giê-su, qua các vị linh mục, chúng ta được nhận thêm một lời chúc phúc, chúc rằng: “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”

 Vâng, một hình ảnh mẫu mực, mà chúng ta cần noi theo, để được gặp Đức Giê-su Phục Sinh và nhận được sự “Bình An trong Chúa” đó chính là hình ảnh cộng đoàn tiên khởi “luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2, 42).

Lm Charles E. Miller gọi sự hiệp thông của các tín hữu xưa là một “ngày đại hội”, ngài Lm. có lời khuyên: “Anh chị em không được vắng mặt tại ngày đại hội này như tông đồ Tô-ma tại buổi họp đầu tiên của các môn đệ”.

Đức Giê-su Phục Sinh còn cho chúng ta thấy Ngài qua: “những kẻ đói cần miếng ăn, những kẻ khát cần nước uống, những kẻ rách rưới cần mặc, những người đau ốm bệnh hoạn cần viếng thăm. v.v…”

Chúng ta còn có thể gặp gỡ Ngài, ngay trong gia đình mình, qua hình ảnh người chồng (hay người vợ), với tất cả tình yêu thương, một tình yêu “hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu”, và với tất cả sự trung thành “sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly”.

Không gặp được Đức Giê-su Phục Sinh là do chúng ta đến không đúng địa chỉ. Không gặp được Đức Giê-su Phục Sinh là vì chúng ta tìm “sự sống trong vòng cái chết”. Mà, thật vậy, làm sao gặp Ngài khi chúng ta tìm đến những phù phiếm của thế gian, đại loại là quyền lực, là danh vọng, là tiền bạc, v.v...

Đức Giê-su, trong những ngày còn tại thế, đã nói: “Được cả thế gian mà mất linh hồn thì nào ích gì.” Như vậy, nếu chúng ta tìm kiếm quyền lực, danh vọng, tiền bạc chẳng phải là đi vào trong-vòng-cái-chết, đó sao!

Tông đồ Tô-ma, sau khi gặp Thầy Giê-su Phục Sinh, ông ta đã cất tiếng thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Còn chúng ta hôm nay, thì sao?

Thưa, câu trả lời dành riêng cho mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, cộng đoàn tín hữu đầu tiên, khi đã đặt niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh, họ đã “ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ.”

Vâng, đúng là một việc làm rất, rất thiết thực mà chúng ta cũng cần phải làm. Nói rõ hơn, việc chúng ta cần thực hiện, đó là đừng bao giờ vắng mặt như ông Tô-ma vắng mặt “ngày thứ nhất trong tuần”.

Nói, theo cách nói ngày nay, “Đừng bỏ lễ Chúa Nhật”.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...