Chủ Nhật, 25 tháng 6, 2023

Lạy Chúa, đừng để họ dọa nạt con.

 “Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”.

Chúa Nhật XII – TN – A
Lạy Chúa, đừng để họ dọa nạt con

Sợ… hay sợ hãi, đó là cảm xúc tự nhiên của con người. Khi nói tới sự sợ hãi, có thể nói rằng: đó là vị khách không mời cũng đến. Nó đến, khi ta rơi vào trạng thái không yên lòng vì nghĩ rằng có sự xuất hiện một điều gì đó nguy hiểm hoặc một mối đe dọa có thể gây tổn hại cho ta.

Có mối sợ hãi khiến ta thẫn thờ, bất động. Ví dụ như sợ ma chẳng hạn. Có mối sợ hãi làm cho ta hoảng loạn. Ví dụ như chiến tranh, thiên tai, v.v...

Có mối sợ hãi khiến ta “không dám suy nghĩ và hành động đúng theo niềm xác tín Công Giáo của mình.” Đây là mối sợ hãi đặc biệt thường do từ sự đe dọa. Sự đe dọa bởi một ai đó, bởi một thể chế nào đó, bởi một thế lực nào đó, v.v…

Đức Giê-su rất quan tâm đến mối sợ hãi này. Trong những ngày ra đi rao giảng Tin Mừng, Ngài và Nhóm Mười Hai vẫn thường phải đối diện với nhiều sự đe dọa. Những sự đe dọa này, thường xuất phát từ giới thần quyền Do Thái. Đó là quý ông Phariseu, kinh sư, biệt phái.

Với Đức Giê-su, Ngài chưa một lần tỏ ra sợ hãi. Nhưng, với Nhóm Mười Hai… Có, có vấn đề! Thế nên, Đức Giê-su đã có những lời giáo huấn thiết thực, hầu đem lại cho các ông niềm xác tín vững mạnh vào sứ vụ trong một tương lai mà các ông sẽ thực hiện. Những lời giáo huấn này, được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mát-thêu.

**
Theo Tin Mừng thánh Mát-thêu ghi lại, thì: Sau khi Đức Giê-su tiên báo những cuộc bách hại sẽ xảy ra, Ngài đã có những lời giáo huấn với các môn đệ của mình, rằng: “Anh em đừng sợ người ta.”

Người ta là ai! Thưa, tất nhiên là những kẻ “bách hại” mà Đức Giê-su đã nói trước đó. Và vào thời đó, những kẻ bách hại không ai khác ngoài thế lực thần quyền là nhóm Phariseu, kinh sư, biệt phái.

Tại sao Đức Giê-su lại bảo là đừng sợ? Đừng sợ là đừng sợ thế nào! Thưa đừng sợ là bởi, quý vị đó chỉ là phàm nhân, và Đức Giê-su đã nói rằng: họ chỉ là “những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”.

Nếu có sợ… Vâng, hôm ấy, Đức Giê-su nói: “Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”.

“Đấng có thể tiêu diệt” là ai! Thưa, đó chính là Thiên Chúa, một Thiên Chúa toàn trí, toàn năng.

Hôm ấy, minh chứng về một Thiên Chúa toàn trí, Đức Giê-su nói: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”. Minh chứng về một Thiên Chúa toàn năng, Đức Giê-su nói: “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”. (x.Mt 10, 29-30).

Kết thúc cho những lời giáo huấn, Đức Giê-su đưa ra một lời khuyên: “Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”.

***
Chúng ta vừa nghe lại những lời giáo huấn của Đức Giê-su. Rất ngắn gọn, nhưng cũng đủ để nói về một Thiên Chúa, một “Đức Chúa hằng ở bên (chúng ta)” (x.Gr 20, 11).

Vâng, Thiên Chúa luôn ở bên chúng ta. Và chính Đức Giê-su cũng có lời phán hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Thế nên, chúng ta phải hiểu rằng, khi Đức Giê-su nói về Đấng-có-thể-tiêu-diệt, Ngài không nhằm mục đích “dọa dẫm” chúng ta. Trái lại, đó chính là lời nhắc nhở chúng ta rằng: “không có Thiên Chúa có nghĩa là chúng ta mất tất cả.”

Ngôn sứ Giê-rê-mi, được mênh danh là “Người của Thiên Chúa” cũng đã có lời khuyên rằng: “Nhưng ĐỨC CHÚA hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.” (x.Gr 20, 11).

Khi có ĐỨC CHÚA hằng ở bên, ngôn sứ Giê-rê-mi đã không còn sợ hãi trước những lời nhạo báng ông, hoặc những lời sỉ nhục và chế giễu (ông) suốt ngày”. Giê-rê-mi đã “nói ra giữa ban ngày” sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.

Chuyện được kể lại rằng: “Giê-rê-mi bị những kẻ chống lại ông buộc phải lên đường trốn sang Ai Cập. Theo truyền thuyết, ông bị một số đồng bào của mình giết hại tại đó.”

Lm Charles E.Miller có lời chia sẻ về vụ thảm sát của ông, rằng: “Những con người độc ác (những kẻ giết ông) không được ai nhắc nhở, nhưng với Giê-rê-mi thì ngược lại. Ông vẫn tồn tại không chỉ trong các trang Sách Thánh, mà còn trên Thiên Đàng với Chúa Giê-su, Đấng Mesia mà ông chưa từng biết tới trên cõi đời này, nhưng luôn giữ một lòng trung tín với Người tuy không hề nhận biết.”

****
Hôm ấy, Đức Giê-su không chỉ nói tới quyền tối thượng của Thiên Chúa. Ngài còn khẳng định vai trò của mình bên cạnh “Cha Ngài.” Đó là, Ngài có quyền “định đoạt số phận đời đời của chúng ta.”

Về điều này, tông đồ Phao-lô xác tín mạnh mẽ, rằng: “Nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giê-su, Chúa chúng ta” (x.Rm 5, 21).

Vâng, “nhờ Đức Giê-su, Chúa chúng ta”. Do vậy, đã là một Ki-tô hữu, chúng ta đừng sợ hãi chối bỏ đức tin của mình trước mặt thiên hạ. Về điều này, một dịch giả Kinh Thánh, trong nhóm Phiên Dịch CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ, có lời khuyên rằng: “Chúng ta không nên hổ thẹn mà hành động và ăn nói với tư cách là người có đức tin, khi cần còn phải tuyên bố những xác tín của chúng ta cách công khai nữa.”

Đúng vậy, đừng hổ thẹn. Vì như lời Đức Giê-su truyền dạy: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”

Còn không tuyên bố thì sao nhỉ! Thưa, Đức Giê-su nói: “Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”

“Giả bộ” không tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ, đại loại như không ghi tôn giáo trong phần khai sơ yếu lịch lý vào những năm tháng trước đây, có được không? Tôi, người viết, không có câu trả lời. Thế nhưng, Đức Giê-su có câu trả lời. Ngài nói: “Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết.”

Đã là một Ki-tô hữu, hãy thực hiện lời Đức Giê-su tuyên phán: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.”

Như các môn đệ xưa, hôm nay chúng ta cũng đã và đang bị đe dọa bởi Satan thông qua “những trào lưu nguy hiểm” đầy dẫy trong xã hội. Chúng ta sẽ bị “chụp cho một cái mũ vi phạm nữ quyền” khi quá nhấn mạnh “phá thai là một tội ác không sao tả xiết”.

Những người tôn thờ “chủ nghĩa cá nhân” sẽ nhìn chúng ta bằng cặp mắt hình “viên đạn đồng đen” khi chúng ta “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc”, v.v…

Rất, rất nhiều lời chế diễu, nhạo báng chúng ta, khi chúng ta “lên mái nhà”, à không! phải nói là “lên mạng xã hội” rao giảng những lời giáo huấn mà Đức Giê-su Ki-tô đã truyền dạy, năm xưa.

Đừng sợ! Anh-em-đừng-sợ-người-ta. Xưa, Đức Giê-su đã có lời nhắn nhủ như thế. Còn hôm nay, Ngài sẽ nói gì với chúng ta!

Vâng, Lm.Charles E. Miller, qua một bài chia sẻ được đăng trong tác phẩm “Sunday Preaching”, viết: “Chúa Giê-su nói với chúng ta đang tụ họp nơi đây trong tinh thần phụng tự (rằng): Thầy thấy các con đến nhà thờ với tư cách là dân Chúa. Thầy sẽ tiếp tục nhận các con trước mặt Cha Thầy trên trời, bao lâu các con tiếp tục tuân hành các giáo huấn của Thầy, chứ không nhận kẻ chống đối Phúc Âm. Đừng để họ dọa nạt các con.”

Lm.Charles E. Miller cho rằng Đức Giê-su sẽ nói như thế. Thế nên, chúng ta “cũng nên” mượn lời ngài Charles, làm lời cầu nguyện cho chúng ta. Vâng, mỗi khi chúng ta phải đối diện mối sợ hãi nào, hãy cầu nguyện với Chúa Giê-su, nguyện rằng: “Lạy Chúa, đừng để họ dọa nạt con.”

Petrus.tran

Thứ Bảy, 17 tháng 6, 2023

Hãy xin Chúa sai chúng ta…

 Sai họ đi như “chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” Sự kiện này đã được ghi lại chi tiết trong Tin Mừng thánh Mát-thêu. (Mt 9, 36 – 10, 8).

Chúa Nhật XI – TN – A
Hãy xin Chúa sai chúng ta…

“Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương chúng ta vì thế Chúa sinh ra. Chúa thương chúng ta vì Chúa muốn thương ta. Vì thánh ý của Ngài là luôn luôn thương ta.”

Những dòng chữ trên đây là trích đoạn bài thánh ca “CHÚA THƯƠNG CHÚNG TA”. Tác giả là Lm. Thành Tâm.

Vâng, Thiên Chúa thương chúng ta. Tông đồ Gio-an cũng đã nói lên điều này, rằng: “Thiên Chúa là tình yêu… Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến để làm của lễ đền tội cho chúng ta.” (1Ga 4, 10).

Và quả thật, tại Belem miền Giu-đê, Đức Giê-su đã sinh ra. Ngài được sai đến để thể hiện lòng thương xót mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại.

Trong ba năm hiện diện giữa thế gian, bất cứ ai đến với Đức Giê-su, họ đều nhận thấy nơi Ngài là một con người giàu lòng thương xót.

Với những kẻ “ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt…” tìm đến, Đức Giê-su luôn thể hiện lòng thương xót của mình qua việc chữa lành họ.

Để cho lòng thương xót được lan tỏa, Ngài đã “lập Nhóm Mười Hai (và) ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.”

Vâng, Nhóm Mười Hai Tông Đồ đã được Đức Giê-su tuyển chọn. Và, Ngài đã sai họ đi. Sai họ đi như “chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” Sự kiện này đã được ghi lại chi tiết trong Tin Mừng thánh Mát-thêu. (Mt 9, 36 – 10, 8).

**
Theo Tin Mừng thánh Mát-thêu ghi lại: “Tên của nhóm mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Si-mon, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông. Sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông. Ông Phi-lip-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô, ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế, ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô, ông Si-mon thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người.”

Mười hai người đã được Đức Giê-su sai đi. Và Ngài đã chỉ thị cho các ông, rằng: “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào các thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en.”

Tại sao Đức Giê-su lại chỉ thị cho các ông “đừng vào các thành nào của dân Sa-ma-ri”! Thưa, vào thời kỳ đó, người Do Thái không được giao thiệp với người Samari. Vâng, theo Tin Mừng thánh Luca cho biết, đã có “một làng Samari không đón tiếp Đức Giê-su” (x.Lc 9, 51). Và, đó là lý do Ngài chỉ thị cho các ông “đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en”.

Đức Giê-su nói các ông, hãy-đến-với các-con-chiên-lạc-nhà It-ra-en là bởi, họ “lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt.” Lm.Charles E.Miller đã gọi đây là cách Đức Giê-su bộc lộ một trái tim nhân bản trọn vẹn tròn đầy tình yêu của Thiên Chúa”.

“Hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần… Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ.” Đó, đó là những điều Đức Giê-su đã chỉ thị cho nhóm mười hai tông đồ.

***
Trước khi sai nhóm mười hai, Đức Giê-su đã nói với các ông rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”

Nhắc lại lời nói này để làm gì? Thưa, để chúng ta tự hỏi mình rằng: Phải chăng, đây cũng là lời Đức Giê-su nói với chúng ta, hôm nay? Vâng, tất nhiên cũng là lời Ngài nói với chúng ta.

Đức Giê-su nói với chúng ta, bởi chúng ta cũng là môn đệ của Ngài. Đức Giê-su nói với chúng ta, bởi hôm nay, bên cạnh chúng ta vẫn còn rất nhiều người “ngồi quanh đây, trán in vết nhăn.”

Thật vậy, vẫn còn rất nhiều vầng trán nhăn nhó vì phải đối diện với nỗi đau thể xác. Vẫn còn rất nhiều vầng trán in đầy vết nhăn, những vết nhăn do phải lựa chọn giữa sự ác và sự thiện, giữa điều phải làm và điều không nên làm.

Nói cách khác, vẫn còn đó những người đau yếu bệnh hoạn, tật nguyền. Vẫn còn đó những người bị “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường. Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”.

Thật là vậy đấy! Có “đoạn trường” không kia chứ, khi mà mọi giá trị của đạo đức hầu như bị đảo lộn. Xưa, hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, thì nay, đồng tính, lưỡng tính tất cả đều có thể!

Chính chúng ta phải “chạnh lòng thương” với những ai rơi vào hoàn cảnh nêu trên. Chính chúng ta phải là người “chữa lành người đau yếu”. Chính chúng ta phải là người nói lên sự hiểm nguy cho những ai đang tiến bước trên con đường của quỷ ma, rằng: đó chính là con đường dẫn đến thung lũng âm u, nghi ngờ và chết chóc.

Đừng nghĩ rằng, chúng ta không thể thực hiện được, như nhóm mười hai tông đồ xưa đã thực hiện được. Mọi sự đều có thể khi chúng ta thấm đậm lòng thương xót, lòng thương xót Đức Giê-su đã truyền dạy.

Mà, Đức Giê-su đã truyền dạy điều gì về lòng thương xót, nhỉ! Phải chăng, đó là: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”!? (Ga 15, 13).

Đức Giê-su, người mục tử nhân lành, đã thực sự “hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” Điều này đã làm cho thánh Phao-lô “hết sức kinh ngạc và sửng sốt”. Ngài Phao-lô đã giải bày nỗi lòng mình với tín hữu Roma, rằng: “Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng? Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (x.Rm 5, 7-8).

Nên, nên chăng chúng ta nói rằng: “đó là bằng chứng lòng Chúa thương xót chúng ta!” Vâng, nói như thế cũng không sai. Thế nên, chúng ta phải đáp lại lòng Chúa thương xót chúng ta. Đáp lại bằng cách nào? Thưa, đó là: Hãy “đem уêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.”

Đó là: Hãy “đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậу vào nơi thất vọng… rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.”

Đó là: Hãy “tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm уêu mến người hơn được người mến уêu.”

Cuối cùng và quan trọng nhất, đó là: chúng ta “hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” Nói rõ hơn, chúng ta “Hãy xin Chúa sai chúng ta…”

Petrus.tran

Chủ Nhật, 11 tháng 6, 2023

Mình Máu Thánh: nguồn sống của chúng ta

 “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 58).

Mình Máu Thánh: nguồn sống của chúng ta


Như chúng ta được biết, giáo lý Công Giáo dạy rằng: Có bảy phép Bí Tich, đó là: Rửa Tội, Thêm Sức, Mình Thánh Chúa, Giải Tội, Xức Dầu Thánh, Truyền Chức Thánh, và Hôn Phối.

Trong bảy Bí Tích, có những Bí Tích người tín hữu chỉ được lãnh nhận một lần trong đời, đó là: Rửa Tội, Thêm Sức và Truyền Chức Thánh. Lý do là bởi, ba Bí Tích này “in vào linh hồn ta một dấu thiêng liêng không bao giờ mất được.” Có những Bí Tích người tín hữu được phép lãnh nhận nhiều lần trong đời. Đặc biệt nhất đó là Bí Tích Mình Thánh Chúa.

Khi nói đến Bí Tích Mình Thánh Chúa, có thể nói rằng, đây là Bí Tích quan trọng nhất, quan trọng là bởi bí tích này “ban chính Chúa Giêsu là nguồn mạch mọi ơn Thánh cho ta.” Chính Chúa Giê-su “thực sự hiện diện dưới hình bánh rượu, làm của nuôi linh hồn ta, làm cho ta nên giống Chúa và kết hợp chúng ta trong tình yêu Chúa.”

Bí Tích Mình Thánh Chúa còn được gọi là Bí Tích Thánh Thể. Chất thể của bí tích Thánh Thể “là rượu, bánh và nước.” Mô thể của bí tích Thánh Thể là lời truyền phép: “Này là Mình Ta sẽ bị nộp vì các con… Này là chén Máu Ta, máu sẽ đổ ra vì các con…”

Trong bữa tiệc Lễ Vượt Qua, trước khi chịu chết, Chúa Giêsu lập bí tích này. Hôm ấy, Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: “Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta. Hãy cầm lấy mà uống, này là Máu Ta.”

Đức Giê-su đã thiết lập Bí Tích Mình Thánh Chúa. Đồng thời, Ngài đã có một bài diễn từ nói đến “ơn phước” dành cho những ai lãnh nhận Bí Tích này. Bài diễn từ đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an.

**
Theo Tin Mừng thánh Gio-an ghi lại: Hôm ấy, “Khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phac-na-um tìm Người.”

Rồi, “khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Vâng, chỉ là một câu hỏi rất tự nhiên, nhưng dưới cái nhìn thấu suốt của Đức Giê-su, Ngài đã đáp lời rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”.

Đúng vậy, mấy hôm trước đó, chỉ với “năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá” Đức Giê-su đã “hóa bánh ra nhiều” cho năm ngàn người ăn no nê.

Còn hôm nay, Đức Giê-su có lời khuyến cáo với họ, rằng: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.”

Phải là lương-thực-thường-tồn. Phải là thứ-lương-thực-Con-Người-sẽ-ban. “Không…” Đức Giê-su nói tiếp: “…không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”.

Cuối cùng Ngài tuyên bố: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”.

Nghe thế, một sự phản đối giữa đám đông dân chúng và Đức Giê-su đã xảy ra.

Họ phản đối vì không thể nuốt trôi lời Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống”. Họ ngạc nhiên vì Ngài “chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao?” Họ đã lớn tiếng nói với nhau, rằng: “Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”

Hôm đó, dù cho họ có xầm xì phản đối, Đức Giêsu vẫn nói lên thông điệp từ trời, một thông điệp của tình yêu, rằng: “Thật tôi bảo thật với các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết.”

Cuối cùng, Đức Giê-su khẳng định, rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (x.Ga 6, 51).

Lời công bố của Đức Giê-su như một quả bom tấn, nó đã làm nổ tung thành kiến của những người đang vây quanh Ngài. Chuyện kể rằng: “Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”

Bất chấp những lời tranh luận giữa họ với nhau. Đức Giêsu vẫn xác quyết rằng: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.” (x.Ga 6, 52-56)

Vai trò và sứ vụ của Đức Giêsu đến thế gian, là để cho thế gian “được sống muôn đời”. Đây không phải là một trò ảo thuật. Đây là ân sủng, một thứ ân sủng đến từ “Chúa Cha là Đấng hằng sống”.

Vâng, hôm ấy, trước đám đông người Do Thái, Đức Giê-su xác quyết rằng: “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 58).

***
Những điều được trình bày trên đây: “đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phac-na-um” (x.Ga 6, 59).

Và, đó chính là lý do, hôm nay, Giáo Hội tiếp tục nói với mọi người tín hữu điều Đức Giêsu đã truyền dạy năm xưa, lời truyền dạy rằng: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”

Hôm nay, Đức Giê-su, qua vị linh mục chủ tế, cùng lời truyền thánh hiến Bánh, tiếp tục nói với chúng ta, rằng: “Tất cả các con hãy lãnh nhận mà ăn, vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”.

Hôm nay, Đức Giê-su, qua vị linh mục chủ tế, cùng lời truyền thánh hiến Rượu, tiếp tục nói với chúng ta, rằng: “Tất cả các con hãy lãnh nhận mà uống, vì này là Chén Máu Thầy, Máu Tân Ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.

Có lẽ và thật là như thế, hôm nay, chúng ta không cần tranh luận hay xầm xì về những lời Đức Giêsu đã phán truyền. Bởi vì “Đây là mầu nhiệm đức tin”.

Và, như có lời nói rằng: “Biết điều đó thì khác xa với những ai đã nếm được điều đó”. Thế nên, hãy đáp lời mời gọi của Thiên Chúa, lời mời gọi, rằng “Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống, hãy bước đi trên con đường hiểu biết” (x.Cn 9, 5-6).

Thế nên, khi đã là một Ki-tô hữu, chúng ta hãy-đến-mà-ăn, bởi như lời Giáo Hội truyền dạy: “Phúc thay ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.  

****
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Mình Máu Chúa Ki-tô. Chắc hẳn không ít người Công Giáo “thuộc các thế hệ trước, hoài niệm về những cuộc rước kiệu Thánh Thể, với những dòng người dài uốn khúc, với nền nhạc là giai điệu tạo cảm xúc nhẹ nhàng của bài Bình Ca và âm tiết La Tinh kỳ bí của các bài thánh ca cổ mà đỉnh điểm luôn là những lời ca tán tụng quen thuộc bắt đầu với ‘Nào hát lên’ (Panger Lingua) và kết thúc với ‘Đây nhiệm tích’ (Tantim Ergo)”. (trích nguồn: Sunday Preaching).

Vâng, một sự hoài niệm rất để “cảm thấy tiếc nhớ”. Thế nhưng, đừng để sự “tiếc nhớ” lấn át sự “tưởng nhớ”, điều mà Đức Giê-su nhắc nhở năm xưa, rằng: “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.” (Lc 22, 19).

Không để sự tiếc nhớ lấn át sự tưởng nhớ, chưa đủ. Còn phải tự hỏi mình rằng: Tôi đã “tưởng nhớ đến Thầy” bao nhiêu lần trong đời? Sao! Mỗi năm một lần ư!

Vâng, câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, đừng quên, nếu chúng ta thờ ơ đến việc tưởng-nhớ-đến-Thầy, thì điều đó sẽ có nguy cơ làm cho chúng ta mất đi hồng phúc kết hiệp với Chúa Giê-su.

Thì đây, lời tông đồ Phao-lô đã nói với những người tín hữu tại Cô-rin-tô, còn đó: “Khi ta cùng bẻ Bánh Thánh đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao?”.

Chưa hết, việc tưởng-nhớ-đến-Thầy, mà hôm nay, Giáo Hội gọi là lãnh nhận “Bí Tích Thánh Thể” chính là chất xúc tác, tạo “sự kết hiệp – sự hiệp nhất” chúng ta với nhau trong Đức Ki-tô.

Thật vậy, tông đồ Phao-lô đã chẳng nói: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể”, đó sao! (x.1Cor 10, 16-17).

Chính vì thế, đừng quên tưởng-nhớ-đến-Thầy, ít nhất một tuần một lần. Đừng ngần ngại, “cầm lấy mà ăn” bởi nhờ đó, chúng ta sẽ được, được sống mãi trong tình yêu của Thiên Chúa. Đó, đó là điều Đức Giê-su đã phán hứa: “Kẻ ăn tôi… sẽ nhờ tôi mà được sống” (x.Ga 6, …57).

Lm. Thành Tâm, khi còn tại thế, cũng đã cất tiếng nhắn nhủ chúng ta: “Người ơi! Nào mau tới thờ lạy Chúa! Đồng thanh hợp chung tiếng hát ca khen. Cảm mến ơn Chúa ban tràn lan cho trần gian Mình Máu Thánh nên nguồn sống tuôn ngày đêm.”

Vâng, hãy ghi khắc trong con tim mình, rằng: Mình Máu Thánh: nguồn sống của chúng ta.

Petrus.tran

Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2023

Chúa Ba Ngôi: hồng phúc đời ta…

 Kinh Thánh cho chúng ta biết “Thiên Chúa là tình yêu”. Mà, đã là tình yêu, thì tình yêu không thể hiện hữu một mình. Yêu là cho đi và yêu cũng là đón nhận.

Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi
Chúa Ba Ngôi: hồng phúc đời ta…

 

tbd 020623a


Như là một truyền thống đẹp, hôm nay toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi nghĩa là gì? Thưa, Giáo lý Công Giáo dạy rằng: Chỉ có một Chúa nhưng có Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi tuy riêng biệt, nhưng cùng một bản thể duy nhất và một uy quyền ngang nhau.

Khi nói về “Chúa Ba Ngôi”, có người gọi đó là một danh từ thần học, một danh từ thần học tuy không được nhắc đến trong Kinh Thánh nhưng lại là “danh từ” rõ nghĩa nhất để diễn tả về Thiên Chúa trong Thánh Kinh.

Thật vậy, tuy Kinh Thánh không trực tiếp nói về Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng, Kinh Thánh vẫn phảng phất đây đó những trình thuật, những thông điệp về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Về Cựu Ước, với đoạn mở đầu sách Sáng Thế, trình thuật đã mô tả “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” (x.St 1, 1-2) Rồi khi tạo dựng con người, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta…” (x.St 1, 26).

Với những lời diễn tả “thần khí Thiên Chúa bay lượn… Chúng ta hãy làm ra…” trong đoạn trình thuật nêu trên, có nhà chú giải Kinh Thánh đã suy tư rằng, phải chăng những lời lẽ đó chính là sự hé lộ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi!

Chỉ là sự hé lộ. Và, theo như lời chia sẻ của Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn thì: “Mầu Nhiệm này đã không được mặc khải trong Kinh Thánh Cựu Ước có lẽ để tránh bối rối cho Dân Do Thái vốn quen với não trạng ‘độc thần = monotheism’ theo đó họ chỉ biết tôn thờ một Thiên Chúa Yaweb là Cha của các Tổ Phụ Abraham, Isaac và Jacob và cũng là Thiên Chúa đã giải phóng họ, qua bàn tay ông Môisen, khỏi ách thống khổ bên Ai Cập, được an toàn trở về quê hương. Nghĩa là họ không biết gì về Chúa Kitô, Đấng đã xuống trần gian làm Con Người để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội. Cũng như không biết Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý, là Đấng ban sự sống, đã khai sinh Chúa Giêsu trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã phục sinh Chúa Giêsu-Kitô từ cõi chết sau ba ngày nằm trong mồ đá.” (nguồn: internet).

Ngài Lm. Huấn chia sẻ tiếp, “Ngược lại trong Kinh Thánh Tân Ước mà anh em Do Thái không nhìn nhận và đọc chung với chúng ta, thì Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi đã được mặc khải rõ ràng cho nhân loại lần đầu tiên qua trình thuật Chúa Giêsu nhận phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả trong sông Jordan, nơi đây ‘Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu’ và tiếng nói của Chúa Cha lần đầu được nghe từ trời cao phán ra: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.” (Lc 3, 22).

Tiếng Chúa Cha lại được nghe thêm một lần nữa khi Chúa Giêsu Biến Hình trên núi Tabor trước mắt ba Tông Đồ Phêrô, Gioan và Gia-cô-bê: ‘Đây là Con Ta yêu dấu hằng đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người’ (Mt 17, 5). Đặc biệt, trong Tin Mừng Thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã minh nhiên nói đến Ba Ngôi Thiên Chúa khi Người truyền cho các Tông Đồ đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ và rửa tội cho muôn dân ‘nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần’. Những lời này của Chúa Giêsu đã vén mở cho chúng ta biết về Ba Ngôi Thiên Chúa đồng bản thể trong Một Thiên Chúa duy nhất mà Giáo Hội long trọng mừng lễ hôm nay.”

**
Kinh Thánh cho chúng ta biết “Thiên Chúa là tình yêu”. Mà, đã là tình yêu, thì tình yêu không thể hiện hữu một mình. Yêu là cho đi và yêu cũng là đón nhận. Trong tình yêu phải có người yêu và người được yêu. Nói cách khác, tình yêu phải có điểm xuất phát và điểm hội tụ.

Chính vì thế, với sự suy tư của thánh Augustin, mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa đã được ngài diễn tả rất chí tình. Chúa Cha là nguồn mạch, là điểm xuất phát của tình yêu. Chúa Con là điểm hội tụ của tình yêu. Chúa Thánh Thần là mối dây liên kết hai chiều của tình yêu.

Đọc Tin Mừng theo thánh Gio-an (x.Ga 3, 16-18), chúng ta sẽ thấy rõ nét về những suy tư (nêu trên) của ngài Augustin.

Tin Mừng thánh Gio-an có ghi rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một (Con của Người)”. Đó, đó chẳng phải là một “tình yêu sáng tạo” sao! Và, tình yêu sáng tạo này đã được biến thành tình yêu trao ban, ban cho con người “để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Nếu xưa kia, xuất phát từ tình yêu sáng tạo, Thiên Chúa đã sáng tạo con người “theo hình ảnh Người”. Thì ngày nay, Người “…sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ”.

Làm thế nào để được-cứu-độ? Thưa, là nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần, như có lời Đức Giê-su tuyên phán: “Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.” (x.Ga 16, 13-15).

Chỉ có tám mươi tám chữ… Vâng, với tám-mươi-tám-chữ, Đức Giê-su không chỉ nói đến Chúa Thánh Thần, mà Ngài còn cho chúng ta nhìn thấy rõ nét về Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Ngôi thứ nhất là Chúa Cha: mọi-sự-Chúa-Cha-có… Ngôi thứ hai là Ngài: đều-là-của-Thầy. Ngôi thứ ba là Thánh Thần: Người-lấy-những-gì-là-của-Thầy.

Với những gì Đức Giê-su đã nói, thiết tưởng chúng ta không cần giải thích Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi theo những cách thông thường mà một số người xưa đã diễn tả, chẳng hạn như: so sánh Ba Ngôi Thiên Chúa giống như H2O, tuy ở ba dạng thể: thể lỏng (nước lỏng), thể rắn (nước đá), và thể khí (hơi nước) nhưng tất cả đều được gọi là H2O. Hoặc đem quả trứng ra so sánh. Trứng có vỏ bọc, có lòng đỏ và có lòng trắng, nhưng cũng chỉ là quả trứng, v.v…

Thiên Chúa là Đấng vô hạn, chính vì thế, chúng ta không thể dùng những vật thể hữu hạn để mà so sánh về Người. Và Thiên Chúa nào có cao xa… Người “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”, kia mà! (x.Ga 1, 14).

Nếu, nếu phải giải thích, hãy giải thích: đây là Mầu Nhiệm Đức Tin.

***
Nói đây là Mầu Nhiệm Đức Tin, chưa đủ. Chúng ta còn phải tuyên xưng niềm tin đó. Tuyên xưng như thế nào? Sao! Tuyên xưng bằng cách làm dấu thánh giá ư! Tốt. Rất tốt khi “Ϲon làm Dấu hằng ngàу, con làm Dấu một đời... Khắc ghi tình уêu Ba Ɲgôi Thiên Ϲhúa trong trái tim con.” (trích nhạc phẩm: Làm Dấu – tác giả Lê Đức Hùng).

Thế nhưng, sẽ là hoàn hảo hơn nếu chúng ta tuyên xưng qua cuộc sống của chính mình. Nói theo cách nói của thánh Augustin, đó là; sẽ thiết thực hơn khi chúng ta chính là “nguồn mạch của tình yêu, là điểm xuất phát của tình yêu, là mối dây liên kết hai chiều của tình yêu.” Bởi vì, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chẳng phải là “Mầu Nhiệm của Tình Yêu”, đó sao?

Thế nên, nếu không tuyên xưng qua cuộc sống của mình, thì có khác nào chúng ta còn xa lạ với Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời tông đồ Gio-an cảnh báo, còn đó: “Ai không yêu thương thì không ở trong Thiên Chúa” (x.1Ga 4, 8).

Đừng quên, Đức Giê-su cũng có lời truyền dạy, rằng: “Cứ dấu này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy; là anh em có lòng yêu thương nhau”. Và hãy nhớ: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Hãy ghi khắc trong con tim mình và hãy thực hiện những “cách thức yêu thương” Đức Giê-su truyền dạy. Đó là: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em… Ai xin thì hãy cho…” Đó là: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.”

Đức Giê-su không quá khắt khe đâu! Bởi vì, như lời Ngài nói: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả…”

Nghe lời Thầy Giê-su truyền dạy, thấy mà “lạnh người”, phải không, thưa quý vị! Thế nhưng, dù có “lạnh” đến đâu, chúng ta vẫn phải thực hiện. Phải thực hiện vì chúng ta “là môn đệ của Ngài”.

Phải thực hiện, vì có như thế, “tình yêu của (Thiên Chúa) mới nên hoàn hảo”. (x.1Ga 4, 12). Phải thực hiện, vì có như thế, chúng ta mới hoàn tất sứ vụ “tôn vinh Ϲhúa Ϲha toàn năng… chúc tụng Ϲhúa Ϲon tình уêu... vinh danh Ϲhúa Thánh Thần.”

Cuối cùng, phải thực hiện vì, nói theo cách nói của Lm.Thái Nguyên: “Đó chính là dấu chứng của một thực tại vô hình, là biểu hiện đích thực của niềm vui sự sống và hạnh phúc muôn đời.” (nguồn: internet).

Đúng vậy, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, tuy vô hình, nhưng lại là biểu-hiện-đích-thực của “Nguồn ơn Thánh Thiêng hồng phúc đời con.” Nói tắt một lời: “Chúa Ba Ngôi: hồng phúc đời ta”.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...