Thứ Sáu, 29 tháng 9, 2023

Con đến để thực thi ý Ngài…

 Dụ ngôn này được ghi lại trong Tin Mừng Thánh Mát-thêu với tiêu đề: “Dụ ngôn hai người con” (x.Mt 21, 28-32).

Chúa Nhật XXVI – TN – A
Con đến để thực thi ý Ngài…

tbd 290923a

Trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam có một câu tục ngữ, có thể nói rằng, không ai trong chúng ta lại không hơn một lần nghe đến. Đó là câu tục ngữ: “Nói lời phải giữ lấy lời. Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.”

Vâng, không khó lắm để chúng ta hiểu được câu tục ngữ này. Nói thì phải “nói năng chín chắn, có ý thức và chịu trách nhiệm về lời mình nói.” Hiểu một cách sâu xa hơn, đó là “không hứa suông, đã hứa thì phải làm”.

Nói-lời-mà-không-giữ-lời là nói phét, nói xạo. Hứa mà không giữ lời hứa là hứa suông, hứa hão, hứa hươu, hứa vượn v.v… Nói không đi đôi với việc làm, hứa nhiều làm ít, nói một đằng làm một nẻo, có vẻ như đang trở thành một căn bệnh trầm kha trong xã hội, ngày nay. Ngày nay, khi nói tới lời hứa, không ít người “cười ruồi” và nói: “Quân tử nhất ngôn, quân tử dại. Quân tử nói đi nói lại, quân tử khôn”.

Ai dại ai khôn! Vâng, theo lời dạy của Kinh Thánh, những kẻ “nói đi nói lại”, họ “chẳng khác nào có mây có gió mà chẳng có mưa” (x.Cn 25, 14). Đối với Đức Giê-su, những kẻ “Biết bao lần (thốt lời) hứa. Hứa cho nhiều rồi lại quên”, Ngài mạnh mẽ lên án họ là “những kẻ giả hình”.

Trong bối cảnh các thượng tế và kỳ mục “bực bội” trước việc Đức Giê-su giảng dạy nơi Đền Thờ, và họ đã đặt vấn đề rằng, Ngài “lấy quyền nào mà làm các điều ấy”. Một cuộc tranh luận giữa họ và Đức Giê-su đã xảy ra. Kết quả đã không như ý họ muốn.

Không như ý họ muốn là bởi, Đức Giê-su nhìn thấu suốt tâm can của họ, tâm can của những-kẻ-giả-hình, những kẻ mà Ngài đã công khai tuyên bố rằng: “Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo, nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi các người.” (x.Mt 23, 15).

Vâng, vấn đề không phải là “quyền nào”, nhưng là “nói lời phải giữ lấy lời”, là sự vâng phục, là “thi hành ý muốn” của Gia-vê Thiên Chúa.

Hôm ấy, để cho quý ông thượng tế và kỳ mục (tất nhiên cả chúng ta nữa) nghiệm ra điều này, Đức Giê-su đã kể một dụ ngôn. Dụ ngôn này được ghi lại trong Tin Mừng Thánh Mát-thêu với tiêu đề: “Dụ ngôn hai người con” (x.Mt 21, 28-32).

**
Dụ ngôn được kể rằng: “Một người kia có hai con trai”. Một hôm, “ông ta đến nói với người thứ nhất: Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho” (x.Mt 21, 28).

Với người con này “Nó đáp: Con không muốn đâu!”. Rồi khi “Ông đến gặp đứa thứ hai và cũng bảo như vậy”. Nó đáp, rất trịnh trọng, rằng: “Thưa ngài. Con đây!”.

Nếu đọc tới đây, rồi chúng ta gấp quyển Kinh Thánh lại và để cho trí tưởng tượng của mình làm việc, có lẽ chúng ta sẽ nghĩ rằng, người con thứ hai, là người đi làm vườn nho.

Thế nhưng, sự thật thì ngược lại. Người con thứ nhất, không “hứa” nhưng sau đó, lại đi. Tại sao anh ta lại đi? Thưa, đó là, khi anh ta “nghĩ lại” lời nói của mình với người cha, anh ta “hối hận, nên lại đi.” (Mt 21, …29).

Còn người con thứ hai thì sao! Thưa, trước hết, ta nên đặt cho anh ta một cái tên. Tên gì nhỉ? Tên là “Hứa”, được chăng! Vâng, cứ tưởng rằng, với lời nói lịch thiệp và khả kính “Thưa Ngài”, anh-ba-hứa, một cách nào đó, hứa với cha mình sẽ đi. Rồi, khi anh-ba-hứa nói: “con đây”, có ai lại không nghĩ rằng, một trăm phần trăm anh ta sẽ thi hành ý muốn của cha mình!

Hóa ra, “con đây”… con chỉ là “con ma nhà họ Hứa”, con đến chỉ là để “trình diện” với cha thôi! Chuyện đi làm vườn nho ư! Còn khuya! Đúng vậy. Dụ ngôn ghi vắn tắt rằng: “nhưng lại không đi”.

Kết thúc dụ ngôn, Đức Giê-su đã đưa ra một câu hỏi, hỏi rằng: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Hôm ấy, không đợi tới ba mươi giây, họ đáp: “Người thứ nhất”.

Với câu trả lời như thế, cứ tưởng rằng Đức Giê-su sẽ nói một vài câu khen ngợi, khen ngợi về sự nhận định đúng của những người được Ngài hỏi. Trái lại, ngay lập tức, Đức Giê-su đã cất lên những lời cảnh báo, cảnh báo rằng: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.

***
Đừng nghĩ rằng, qua lời cảnh báo nêu trên, Đức Giê-su quá “lạnh lùng” với quý ông thượng tế và kinh sư. Chính quý ông thượng tế và kinh sư mới là những kẻ lạnh lùng.

Thật vậy, khi ông Gioan Tẩy giả cảnh báo rằng: “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”, thế mà quý ông thượng tế và kinh sư (lúc ấy) vẫn cứ bàng quan “lạnh lùng sương rơi heo may, (nhìn) ngơ ngác bóng chim bay”.

Đức Giê-su, hôm ấy, đã “cảnh tỉnh” các ông và nói: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy, còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận và tin ông ấy.” (Mt 21, 32).

Tông đồ Mát-thêu, như chúng ta được biết, đang là “cán bộ thu thuế”, một công việc béo bở đến thế, nhưng khi nghe Đức Giêsu gọi “hãy theo tôi”, ông nhận ra ngay đây chính là một lời mời gọi, lời mời gọi đi vào “đường công chính”, thế là, ông bỏ hết mọi sự và đi theo Ngài.

Và làm sao quên được ông Dakêu! Ông ta, đang là một tay “cán gộc” trong ngành thuế vụ. Một công việc hái ra tiền. Ấy thế mà, khi nhận ra “đường công chính”, một con đường dẫn đến “Vườn Nho của sự Công Bình”, ông ta sẵn sàng lên đường. Hành trang của ông ta, đó là: đem “phân nửa tài sản… cho người nghèo, và sẽ đền gấp bốn” cho những ai đã bị ông ta chiếm đoạt tài sản.

Họ đã “hối hận” như người con thứ nhất trong dụ ngôn đã hối hận. Nói cách khác, họ đã vâng nghe và thực thi lời mời gọi “hãy đi làm vườn nho”.

Đó là lý do Đức Giê-su đã có sự phân định rõ ràng giữa quý ông thượng tế, kinh sư và những ông thu thuế cùng các cô gái điếm, rằng ai sẽ là “người vào Nước Thiên Chúa trước”.

Một chi tiết chúng ta cần biết, khi Đức Giêsu nói, “người vào Nước Thiên Chúa trước”, thì đừng nghĩ rằng sẽ có “người vào Nước Thiên Chúa sau” Đừng có mơ! Theo ngôn ngữ sêmit chữ “trước” không được hiểu theo nghĩa “trước – sau”. Nó được hiểu theo nghĩa “được – mất”. Hiểu như thế, mới thấy sự nguy hiểm của việc “nói mà không làm”. Thế nên, một khi chúng ta “Hứa” thì lời hứa đó phải đi đôi với việc làm. Bởi đó là lời Thiên Chúa đã truyền dạy: “lời con phải trước sau như một” (Hc 5, …10).

****
Hứa phải làm. “Lời con phải trước sau như một”. Vâng, tất nhiên Đức Giê-su chính là mẫu mực để chúng ta noi theo. Tuy nhiên, còn một người nữa chúng ta cũng cần phải noi theo, đó chính là Đức Maria, thân mẫu của Ngài.

Nếu nơi Đức Giê-su – Ngài đã đáp lời Cha Thiên Thượng “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”, tại Vườn Nho Golgotha. Thì với Đức Maria - Mẹ cũng đã đáp lời truyền của Thiên Chúa qua sứ thần Gáp-ri-el, rằng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền.” (x.Lc 1, 38).

Nói theo cách nói của người con thứ hai trong dụ ngôn, Đức Maria đã lên tiếng nói rằng: “Thưa Ngài, con đây!” Con đây, con sẽ đi làm vườn nho, nơi mà Cha đã tuyển chọn con.

Vâng, hành trình của Đức Maria được khởi đầu “từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Be-lem.” Tại đây, Đức Maria đã “sinh con trai đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm đươc chỗ trong nhà trọ” Quả là thật nghiệt ngã cho “Con Thiên Chúa”.

Ấy thế mà Đức Maria vẫn tiếp tục cuộc hành trình của mình. Rồi để thoát khỏi sự truy sát của Hê-rô-đê, Mẹ đã phải đem Con Thiên Chúa trốn qua Ai Cập. Kế đến là Nazareth ba mươi năm có lẻ với những lời đàm tiếu về con yêu dấu của mình “ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?”

Nghiệt ngã chồng chất nghiệt ngã là thế ! Nhưng Đức Maria vẫn một lòng “phó thác đường đời cho Chúa”. Vẫn đặt niềm tin vào Thiên Chúa - “Đấng toàn năng đã làm… biết bao điều cao cả”. Vẫn vững bước tiến về Golgotha với bàn tay ôm trái tim nghẹn ngào nhìn Giê-su con yêu của mình: “chỉ vì tình yêu (đã phải) nhục thân chết cho trần gian… Để cứu muôn người lỗi tội đưa về trời đẹp tươi.”

Tại Ga-li-lê miền Na-da-rét, Đức Maria đã hứa. Tại Golgotha Mẹ đã thực thi trọn vẹn vai trò “người nữ tỳ trong Vườn Nho của Đức Chúa Trời”.

*****
Giáo Hội, như một truyền thống đẹp, đã dành riêng tháng mười hàng năm, để “Tôn sùng Mẫu Tâm” vả khuyên người tín hữu “hãy năng lần hạt Mân Côi” (hay còn gọi là Chuỗi Mân Côi).

Đã có rất, rất nhiều linh mục nói về Chuỗi Mân Côi. Có người nói, chuỗi Mân Côi như là một bản Tin Mừng rút gọn. Có người nói, lần chuỗi Mân Côi như một cách chúng ta tiếp tục sứ vụ thăm viếng Đức Maria của sứ thần Gáp-ri-en, năm xưa: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.” v.v…

Thánh Bênađô nói: “Kinh Kính Mừng làm cho quỉ dữ trốn chạy, hỏa ngục run sợ”. Tuyệt vời chưa!

Vâng, rất nhiều ơn phúc khi chúng ta tiếp tục thăm viếng Đức Maria, qua việc lần chuỗi Mân Côi. Tuy nhiên, những ơn phúc đó chỉ đến với chúng ta khi chúng ta biết “trông lên Mẹ là gương mẫu của đời ta”. Nói cách khác, đó là chúng ta phải biết xin vâng, như xưa kia Đức Maria cất lời xin vâng.

Cất-lời-xin-vâng, nói theo bối cảnh câu chuyện dụ ngôn, đó là chúng ta phải có sự lựa chọn mình là ai? Là ai, giữa người con thứ nhất và người con thứ hai?

Là người con thứ nhất ư? Tốt, rất tốt. Chính các vị thượng tế và kỳ mục cũng chọn “người thứ nhất”. Là người con thứ hai? Thì đã sao!

Trong thực tế của đời sống đức tin, biết bao lần chúng ta đến với Chúa và cầu nguyện. Lời cầu nguyện của chúng ta chẳng phải là “Lạy Chúa, con chẳng đáng”, đó sao!

Vâng, chúng ta đừng ngại đến với Chúa với lời cầu nguyện “Thưa Chúa, con đây!” Con đây! Con đến để “thi hành ý muốn của Chúa” chứ không phải yêu cầu “Chúa thực hiện ý muốn của con”.

Đừng quên, một ngày nọ, Đức Giê-su có lời tuyên phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7, 21).

Hôm nay, Chúa không kêu một hay hai người đi làm vườn nho, nhưng là kêu rất nhiều người. Người được kêu từ tảng sáng. Người được kêu giờ thứ ba. Người được kêu giờ thứ sáu, thứ chin. Người được kêu giờ mười một. Tất nhiên là có chúng ta.

Có chúng ta. Đừng bỏ lỡ cơ hội mà hãy đi. Hãy đến và nói: Thưa Chúa, này con đây. Con đây. “Con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 7).

Petrus.tran

Thứ Sáu, 22 tháng 9, 2023

Thiên Chúa luôn rộng lượng

“Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền hay sao?”

Chúa Nhật XXV – TN – A
Thiên Chúa luôn rộng lượng

tbd 220923b

Trong nhạc phẩm “Giấc ngủ cô đơn” do nhạc sĩ Anh Bằng sáng tác, có một phần lời bài hát khi được cất tiếng hát lên, nó đã làm cho không ít con tim khán thính giả rung động. Làm sao không rung động cho được, khi giọng ca đầy sự truyền cảm của ca sĩ Thanh Tuyền cất tiếng hát lên: “Đã yêu mến nhau, đừng gieo cay đắng cho nhau”.

“Đừng gieo cay đắng cho nhau” hay lắm! Vì đó là điều ai trong chúng ta cũng đều mong muốn như thế, phải không thưa quý vị! Thế nhưng, buồn thay! đây lại là điều hiếm thấy.

Trái lại, điều chúng ta dễ thấy, đó là: người người lại cứ gieo-cay-đắng-cho-nhau. Và, dường như đây là chuyện “thường xảy ra ở huyện”, xảy ra trong đạo lẫn ngoài đời.

Có hai điều “cay đắng” mà con người thường “gieo cho nhau” chúng ta có thể nhìn thấy thường xuyên, đó là: sự đố kỵ và ghen tỵ.

Đố kỵ là gì? Thưa, “là việc cảm thấy khó chịu trong lòng khi thấy người khác phát triển hơn mình ở một đặc điểm gì đó và sinh ra cảm giác ghét bỏ.” Còn ghen tỵ? Thưa, cũng vậy thôi. Ghen tỵ nghĩa là “So tính hơn thiệt giữa mình với người, và khó chịu khi thấy người ta hơn mình”. (nguồn: internet).

Giáo lý Công Giáo xem thói đố kỵ (hoặc ghen tỵ) là một trong bảy mối tội đầu. Do vậy, nên đã có lời dạy rằng: “yêu người chớ ghen ghét”.

Với Đức Giê-su thì sao? Thưa, trong những ngày còn tại thế, Ngài cũng đã không tiếc lời lên án thói ghen tỵ. Một trong những thông điệp, có thể được xem là thông điệp lên án thói xấu này mạnh mẽ nhất được Ngài đưa ra, đó chính là dụ ngôn “thợ làm vườn nho”. Dụ ngôn này được ghi trong Tin Mừng thánh Mát-thêu. (Mt 29, 1-16a).

**
Dụ ngôn được kể rằng: “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình”. Hôm ấy, “sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc.”

Rồi đến khoảng giờ thứ ba. Đến “khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” Nhóm người này có đi không? Thưa, thánh sử Mát-thêu cho biết: “Họ liền đi.”

Chưa hết… Chuyện kể tiếp rằng: “Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm như vậy.” Làm như vậy là làm gì! Thưa, dễ hiểu thôi, nghĩa là lại thuê thêm một toán thợ nữa.

Còn… còn nữa! Vào “khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?” Vâng, thật đáng thương, những người này từ sáng sớm cho tới “giờ mười một… không làm gì hết” là vì, theo họ nói: “không ai mướn chúng tôi”. Không-ai-mướn! Thôi được! Ông chủ vườn nho không chần chừ, bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho.”

Chiều đến, năm toán thợ, tính từ toán thợ được thuê lúc “vừa tảng sáng” cho đến toán thợ được thuê lúc “giờ mười một”, được người quản lý của ông chủ vườn nho tập trung lại để trả công cho họ. Ông chủ vườn nho trả công “bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người làm trước nhất”.

Cứ tưởng rằng, đây chính là lúc những người được thuê “phấn khởi hồ hởi” nở những nụ cười, sau một ngày lao động cực nhọc. Thế nhưng, cười đâu không thấy, lại thấy một số người thợ “cằn nhằn gia chủ”. Chuyện gì vậy! Thưa, vì cách thức chi trả tiền công của gia chủ.

Ông chủ chi trả thế nào mà họ cằn nhằn? Thưa, vì ông chi trả cho những người mới vào làm lúc giờ-mười-một, “ngang bằng” những người vào làm trước nhất (lúc tảng sáng).

Mới vào làm lúc giờ-mười-một (khoảng 5 giờ chiều) “ngang bằng” những người vào làm lúc tảng sáng (tức là 6 giờ sáng, theo giờ Do Thái) “mỗi người một quan tiền”, là sao!

Do vậy, họ ganh tỵ và cằn nhằn gia chủ rằng, “mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (x.Mt 20, 12).

Cứ tưởng rằng, lời ta thán của họ sẽ làm cho ông chủ mủi lòng và tăng thêm tiền công. Thế nhưng, đó là lời ta thán phi lý, phi lý trước một thỏa thuận mà họ đã chấp nhận. Vâng, hôm ấy, đáp lời ta thán, ông chủ đã nói với họ rằng, “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền hay sao?”

Aleksandr Solzhenitsyn có nói: “Sự ghen tỵ với người khác nuốt chửng chúng ta nhiều nhất”. Vâng, hôm ấy, nhóm thợ cằn nhằn ông chủ đã “nuốt chửng thỏa thuận”, một sự thỏa thuận mà chính họ đã công nhận, trước đó.

Còn phần ông chủ ư! Ông có gì sai trái! Đây, chúng ta cùng nghe tiếp câu trả lời của ông chủ vườn nho với một người trong nhóm họ: “Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”

***
Cứ sự thường, sau khi đọc xong dụ ngôn này, chúng ta luôn có sự suy nghĩ rằng, Đức Giê-su đã dạy cho chúng ta một bài học về sự ganh tỵ.

Đúng, qua câu chuyện dụ ngôn, chúng ta biết rằng, ganh tỵ là điều không được hoan nghênh ở “Vườn Nho Nước Trời.” Thì đây, ông chủ vườn nho đã chẳng nói với những người thợ cằn nhằn chỉ vì ganh tỵ, rằng: “Cầm lấy phần của bạn mà đi đi”, đó sao!

Thế nên, ngay hôm nay, bằng mọi cách, chúng ta phải làm sao để không bị sự ganh tỵ chi phối cuộc sống của mình. Bởi vì nếu để cho sự ganh tỵ chi phối đời ta, chẳng chóng thì chày, ta sẽ bị trôi theo vòng xoáy của tội lỗi. Vòng xoáy của tội lỗi đó đã được Lm. Gioan Vianney, liệt kê như sau: “nói xấu, vu khống, xảo quyệt, lập đi lập lại những gì mình biết. Còn những gì không biết, thì bịa đặt ra, hay thổi phồng lên…”

Câu chuyện Ca-in và A-ben là ví dụ điển hình. Chuyện kể rằng: Ca-in tức giận khi Đức Chúa Trời chấp nhận lễ vật của A-ben, nhưng lại không chấp nhận lễ vật của ông. Ca-in có thể khắc phục hoàn cảnh này, thế nhưng, chỉ vì sự ghen tị trong lòng ông quá lớn; lớn đến nỗi ông không thể kiềm chế, để rồi ông lừa A-ben ra đồng vắng và đã giết em mình (St 4, 4-8).

Vậy thì phải làm sao, bây giờ? Thưa, thánh Phê-rô cho ta lời khuyên, khuyên rằng: thứ nhất “vâng phục sự thật”, thứ hai “thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân thành” và cuối cùng là “hãy tha thiết yêu mến nhau với cả tâm hồn” (x.1Pr 1, 22).

Còn với thánh Phao-lô? Thưa, ngài Phao-lô có lời chỉ giáo: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương…” Như vậy, chúng ta phải có tình yêu thương.

Và, cuối cùng là hãy “vui với người đang vui” (x.Rm 12,15). Tại sao? Thưa, là bởi, vui với người thành công hơn ta, vui với người may mắn hơn ta, trong tâm hồn ta còn chỗ nào cho sự ghen tỵ ngự trị!?

Khi trong tâm hồn ta không còn chỗ cho sự ghen tỵ ngự trị, có phần chắc chúng ta sẽ chẳng bao giờ “gieo cay đắng cho nhau”.

Do vậy, điều mà chúng ta cần biết hôm nay “là phải xem lại vị trí của mình trong dụ ngôn” là vị trí nào. Vâng, Lm.Charles E.Miller có lời khuyên như thế.

“Chẳng lẽ ta nghĩ mình là người làm việc cho Chúa lâu năm và quá nhiệt thành đến mức coi mình thuộc nhóm thợ vào làm việc trước nhất?” Đừng, đừng nghĩ như thế mà hãy nghĩ đến… ngài Lm Charles tiếp lời khuyên, rằng: “… sự rộng lượng của Thiên Chúa”.

Nói tới sự rộng lượng của Thiên Chúa, tác giả sách Thánh Vịnh đã cảm nghiệm được điều này nên đã nói: “Ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa” (x.Tv 130, …7).

Nếu xưa kia, dân Do Thái được biết đến sự rộng lượng của Thiên Chúa, qua lời mời gọi của ngôn sứ Isaia, rằng: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào.” (Is 55, 1).

Thì ngày nay, “sự rộng lượng của Thiên Chúa được biểu hiện qua cuộc cử hành Bí Tích Thánh Thể”. Vâng, Lm. Charles có lời chia sẻ như thế, và ngài Lm tiếp lời rằng: “Thiên Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng Mình và Máu Thánh Tử của Người. Thật là chính đáng khi chúng ta thú nhận: ‘Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con’… Nhưng sau khi chúng ta thú nhận mình bất xứng, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta đến lãnh nhận Mình và Máu Thánh Ngài trong đức tin.”

Vâng, Lạy Chúa, con chẳng đáng. Rất, rất nhiều ơn phước Ngài đã ban cho, dẫu rằng con chẳng đáng được đón nhận.

Thế nên, dù chúng ta có là những người đã làm việc trong “Vườn Nho Giáo Hội” của Chúa bao nhiêu năm đi nữa, thì cũng đừng càm ràm về những gì Ngài đã và sẽ “ban trả” cho chúng ta.

Đức tin, đức tin sẽ giúp chúng ta không oán trách, giận hờn về những gì Chúa “ban trả” chúng ta. Trái lại, đức tin giúp chúng ta cảm nghiệm rằng: “Thiên Chúa luôn rộng lượng”.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 16 tháng 9, 2023

Hãy hết lòng tha thứ…

 “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18, 22).

Chúa Nhật XXIV – TN – A
Hãy hết lòng tha thứ…

tbd 150923a

Nhớ, trước năm 1975, truyện kiếm hiệp hoặc phim kiếm hiệp Tàu đã có một thời làm mưa làm gió ở Saigon. Ngoài một số truyện hoặc phim nói về những anh hùng trừ gian diệt bạo, đa phần nội dung cốt truyện liên quan đến sự báo thù. Sự báo thù được mô tả trong truyện hoặc trong phim thường xoay quanh việc bang hội này báo thù bang hội kia, con cái báo thù cho cha mẹ, hoặc đệ tử báo thù cho sư phụ của mình.

Con mà không báo thù cho cha mẹ sẽ bị mang tội bất hiếu. Đệ tử không báo thù cho sư phụ thì bị gọi là bất trung. Phạm vào hai tội danh trên, đôi khi còn bị xem là mang tội với trời với đất.

Do vậy, việc báo thù trở thành một đức hạnh của người quân tử. Chắc hẳn, ai trong chúng ta cũng đều nghe đến một câu nói bất hủ của người Trung Hoa xưa: “Quân tử trả thù, mười năm chưa muộn.”

Khi nói đến sự báo thù, có thể nói, nó như một căn bệnh trầm kha trong suốt chiều dài lịch sử con người. Con người đua nhau báo thù, từ đời nọ đến đời kia, từ đời con đến đời cháu, v.v… Dưới thời phong kiến, sự báo thù rất tàn bạo, đó là: “tru di tam tộc”. Có khi lên tới cửu tộc.

Với người Do Thái, cũng không là ngoại lệ. Tuy nhiên sự báo thù của họ chỉ được phép ở mức độ công bằng: “Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân”.

Công bằng là thế, thế nhưng với Đức Giê-su, tuy cũng là người Do Thái, Ngài lại không hoan nghênh bất cứ hình thức báo thù nào, dù hình thức báo thù có công bằng tới đâu.

Điều luật nêu trên được đặt ra không có mục đích khuyến khích người ta trả thù, lại càng không cho phép một người thực thi công lý theo kiểu ăn miếng trả miếng. Chính Môsê, người công bố đạo luật nêu trên, đã cấm: “Ngươi không được trả thù hay căm giận người trong dân mình” (Lv 19, 18).

“Chớ báo thù – Hãy yêu kẻ thù”. Đó là những điều cũng đã được Đức Giê-su truyền dạy. Bên cạnh những điều truyền dạy này, Ngài còn có lời khuyên bảo: “Hãy tha thứ cho nhau”. Tin Mừng thánh Mát-thêu đã ghi lại chi tiết bối cảnh Đức Giê-su nói lên lời khuyên bảo đáng ghi nhớ này.

**
Chuyện được thánh sử Mát-thêu ghi lại như sau: Một hôm, khi Đức Giê-su và các môn đệ quây quần bên nhau, bất chợt ông Phê-rô đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ mấy lần? Có phải bảy lần không?”

Bảy lần! Tại sao ông Phê-rô lại đưa ra con số bảy? Thưa, là bởi “số bảy” là một con số được xem là hoàn hảo về số lượng lẫn tâm linh đối với người Do Thái. Thế nên, thật khó để mà phủ nhận lời “gợi ý” của ông Phê-rô là một lời gợi ý hoàn hảo.

Ấy thế mà, thế mà Đức Giê-su vẫn không cho là hoàn hảo. Hôm ấy, đáp lời Phê-rô, Đức Giê-su nói: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18, 22).

***
Bảy-mươi-lần-bảy nghĩa là sao? Thưa, theo phép toán nhân, đó là: bốn trăm chín mươi lần. Vậy, đây là giới hạn của sự tha thứ! Thưa, về điều thắc mắc này, một nhà truyền giáo đã có lời chia sẻ, rằng: “Thật ra, câu trả lời của Đức Giê-su không nhằm đưa ra một giới hạn vì sự tha thứ không thể nói bao nhiêu lần là đủ, mà phải là luôn luôn tha thứ. Đó là tiêu chuẩn tha thứ của Đức Chúa Trời. Thập tự giá mà Đức Giê-su nhận lấy để đền tội là sự tha thứ không giới hạn đã được Đức Chúa Trời sắm sẵn cho nhân loại. Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sự tha thứ trong Đức Giê-su trước, rồi mới chất hết thảy tội lỗi của nhân loại từ xưa tới nay trên thân thể Con Một của Người.” (nguồn: internet).

Đúng vậy, bài học về sự tha thứ mà Đức Giê-su truyền dạy cho các môn đệ xưa (và cũng là cho chúng ta hôm nay) là muốn hướng mọi người hãy nhìn lại bản thân đầy tội lụy của chính mình. Chính mình, chính chúng ta rất, rất cần sự tha thứ.

Thế nên, chúng ta hãy nghe lại lời truyền dạy về sự tha thứ của Đức Giê-su được ghi trong Tin Mừng thánh Luca. Lời truyền dạy rằng: “Nếu người anh em của anh xúc phạm đến anh, thì hãy khiển trách nó; nếu nó hối hận, thì hãy tha thứ cho nó. Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, và bảy lần trở lại nói với anh: ‘Tôi hối hận’ thì anh cũng phải tha thứ cho nó” (x.Lc 17, 3-4).

Như vậy, tất cả chúng ta đều đã rõ. Tha thứ không phải là lời mời gọi, nhưng là lệnh truyền. Thi hành lệnh truyền này, không phải để chúng ta nhận lấy lời khen của ai đó, nhưng là để nhận được ơn tha thứ vô hạn của Thiên Chúa. Thi hành lệnh truyền này còn để “phân biệt” chúng ta là người thuộc về Chúa, hay là người thuộc về thế gian.

Là người thuộc thế gian: cứ chờ mười năm… mười năm rồi sao… rồi “tưởng chừng đã quên” chăng! Còn đã là người thuộc về Chúa: “Hãy tha thứ cho nhau”.

****
Phải thực thi lệnh truyền “Hãy tha thứ cho nhau”. Nếu không, nếu không… chúng ta sẽ bị dán nhãn là “tên mắc nợ không biết thương xót”.

Tên mắc nợ không biết thương xót là ai! Thưa, đây là một nhân vật được Đức Giê-su nói đến trong một dụ ngôn, như một lời cảnh cáo cho những ai không thực thi lệnh truyền của Ngài.

Dụ ngôn được kể rằng: “Một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách.” Có một người “mắc nợ vua mười ngàn yến vàng”. Và, thảm hại thay “y không có gì để trả.” Để xóa nợ “tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản.” Nghe thế, tên đầy tớ hoảng hốt “sấp mình xuống… xin (tôn chủ) rộng lòng hoãn lại”.

Tôn chủ đáp lại lời cầu xin của tên đầy tớ thế nào? Thưa, ông ta: “chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ.”


Tên đầy tớ “được tha”. Nhưng tệ thật! Chuyện kể tiếp rằng: “vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền.” Vâng, chỉ có một-trăm-quan-tiền, ấy thế mà tên đầy tớ “liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: trả nợ cho tao!”

Thật đáng thương cho “người đồng bạn” này. Vì không có tiền trả nợ, nên anh ta bị tên đầy tớ “tống vào ngục cho đến khi trả xong nợ.”

Chuyện đến tai tôn chủ. Tôn chủ cho đòi y tới. Một cơn mưa luận tội trút lên tên đầy tớ. Mười ngàn yến vàng so với một trăm quan tiền, là một khoảng cách lớn, là một trăm triệu quan tiền. (So với tiền lương thời đó), làm cả đời cũng không trả nổi.

Không trả nổi! Vậy mà “ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi… thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” Thật không oan uổng khi tôn chủ dán cho tên đầy tớ một cái nhãn là “đầy tớ độc ác”.

Sự độc ác của tên đầy tớ đã làm cho tôn chủ “nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông.”

Kết thúc dụ ngôn, Đức Giê-su có lời khuyến cáo: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.” (x.Mt 18, 35).

Không tha thứ, cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận nói: “Tôi không đáng được gọi là Kitô hữu”. Với William Arthur Ward: “Tình bạn tươi tốt bên suối nguồn tha thứ”. Với Mahatma Gandhi: “Kẻ yếu không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm cách của kẻ mạnh.”

Cuối cùng, chúng ta hãy nghe lời khuyên của thánh Phanxicô thành Assisi: “Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ”.

Vâng, chúng ta đã nghe lời khuyến cáo của Đức Giê-su. Chúng ta đã nghe lời khuyên răn của nhiều vị tiền bối. Thế nên, đừng bao giờ nghĩ tới báo thù. “Hãy dành sự báo thù cho Chúa” (Cn 20, 22). Phần chúng ta, hãy “hết lòng tha thứ cho anh em mình”.

Nói ngắn gọn: hãy hết lòng tha thứ.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 9 tháng 9, 2023

Phải có sự tương thân tương ái…

 “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe”! Vâng, Đức Giê-su nói: “thì hãy kể nó như một người ngoại” (x Mt 18, 17).

Chúa Nhật XXIII – TN – A
Phải có sự tương thân tương ái…

tbd 090923a

 

Trong bài kinh mười bốn mối, phần “thương linh hồn bảy mối”, chúng ta được dạy rằng: “Thứ nhất, lấy lời lành mà khuyên người. Thứ bốn, răn bảo kẻ có tội.”

Vâng, con người với bản chất là yếu đuối, thế nên dù ít hay nhiều đều có những điều chưa hoàn hảo. Trong cái gọi là “chưa hoàn hảo” đó, khi phải đối diện với thế giới của những thói hư tật xấu, con người rất dễ bị sa ngã.

Thật vậy, suốt một đời người, có ai mà không hơn một lần mắc phải sai lầm. Và, đó là lý do lời truyền dạy của Giáo Hội, qua bài kinh nêu trên, là điều mỗi chúng ta cần phải thực thi.

Tuy nhiên, lấy lời lành mà khuyên người, hoặc răn bảo kẻ có tội, đó là một vấn đề rất nan giải. Rất nan giải là bởi, chúng ta không biết phải bắt đầu làm sao, và kết thúc thế nào.

Bắt đầu làm sao! Kết thúc thế nào! Vâng, Đức Giê-su có lời giải cho nan đề này. Lời giải cho nan đề này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mát-thêu. (Mt, 18, 15-20).

**
Theo Tin Mừng thánh Mát-thêu ghi lại: Đức Giê-su, trong một dịp tâm tình riêng tư với các môn đệ, Ngài có lời truyền dạy rằng: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.”

Tại sao chỉ là “một mình anh với nó”? Thưa, rất dễ hiểu, vì khi chỉ có hai người, nó tạo ra khung cảnh “kín đáo”, và hơn nữa nó “giữ thể diện” cho người “trót phạm tội”.

Với khung cảnh như thế, không khó để chúng ta “lấy lời lành mà khuyên người (cũng như) răn bảo kẻ có tội”.

Thế nào là lấy-lời-lành-mà-khuyên-người! Thưa, câu chuyện dưới đây cho chúng ta câu trả lời. Có một vị linh mục người Mỹ, vị linh mục này rất buồn vì một số giáo dân cứ rước lễ xong là bỏ ra về. Nói thẳng thì sợ mất lòng. Ngài linh mục bèn đem câu chuyện bữa tiệc Vượt Qua giữa Đức Giê-su và các tông đồ kể cho giáo dân nghe, như một cách lấy-lời-lành-khuyên-người.

Chuyện chúng ta biết rồi. “Đức Giê-su chấm một miếng bánh, trao cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt… Sau khi ăn miếng bánh, Giu-đa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối.” Kể tới đây, vị linh mục giải thích: bóng tối đồng nghĩa với tội lỗi.

Chúa Nhật tuần kế tiếp. Rước lễ xong, không một ai bỏ ra về. Câu chuyện này, được đăng tải trên trang mạng Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.

Còn việc “răn bảo”, răn bảo như thế nào để kẻ trót-phạm-tội nhận ra tội của mình? Thưa, theo Dale Carnegie, tác giả cuốn Đắc Nhân Tâm, thì hãy “dùng cách đặt câu hỏi để răn bảo người ta”.

Phương cách “đặt câu hỏi để răn bảo người ta” có thành công? Thưa có. Câu chuyện ngôn sứ Na-than “một mình” đến “sửa lỗi vua Đa-vít” như một điển hình.

Chuyện kể rằng: vào một ngày nọ “Vua Đa-vít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc tuyệt vời” (x. 2Sm 11, 2).

Được mệnh danh là “người công chính”, nhưng chỉ một cái nhìn, ông ta trở thành con người “bất chính”. Đây, chúng ta cùng nghe tác giả sách Samuel tường thuật: “Vua Đa-vít sai người đi điều tra về người đàn bà, và người ta nói: đó chính là bà Bát Se-va, con gái ông Ê-li-am, vợ ông U-ri-gia người Khết”.

Mặc cho người đàn bà đã có chồng, vua Đa-vít vẫn không buông tha. Rồi chuyện gì đến cũng đã đến. “Vua Đa-vít sai lính đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng”. Và kết quả là: “Nàng thụ thai”…

Kể từ khi để cho “hồn lỡ sa vào đôi mắt Bát Se-va”, vua Đa-vít ngày càng “sa lầy” vào vòng vây của tội lụy. Cao điểm của hành vi tội lụy, đó là, nhà vua đã gián tiếp gây ra cái chết của ông U-ri-gia – chồng nàng Bát Se-va.

Mọi hành vi của Đa-vít không qua khỏi đôi mắt của ngôn sứ Na-than. Ngôn sứ Na-than đã “một mình” đến “sửa lỗi” vua Đa-vít. Ngôn sứ Na-than đã có một “cuộc nói chuyện riêng tư, không hạ nhục người có lỗi nhưng là giúp người ấy nhận ra lỗi lầm của mình”. Ngôn sứ Na-than đã “dùng cách đặt câu hỏi”, và ông ta đã thành công trong việc “chinh phục được người anh em”. Hôm đó, vua Đa-vít, sau khi nghe Na-than kể một câu chuyện ví von đầy bi ai, ông ta đã thốt lên rằng: “Tôi đã đắc tội với ĐỨC CHÚA”. (x. 2Sm 12, 1-13).

***
Giả sử vua Đa-vít không nghe lời sửa lỗi của ngôn sứ Na-than và “lôi cổ” ông ra chém đầu, thì sao? Rất may là đã không có sự “giả sử” đó.

Nhưng, nếu điều đó xảy ra đối với chúng ta hôm nay! “Nếu nó không chịu nghe”? Thưa, Đức Giê-su dạy: “Nếu nó không chịu nghe, thì đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba nhân chứng” (x Mt 18, 16).

“Đây không phải là gây áp lực. Sự hiện diện của các chứng nhân bảo đảm cho tính khách quan và cộng đoàn. Vâng, Lm. Nguyễn Hữu An có lời chia sẻ như thế.

Chưa hết, ngài Lm. còn có lời tiếp rằng: “Luật Môsê dạy: ‘Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào, phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét’ (Đnl 19,15). Tuy nhiên, chỉ thị của Chúa Giêsu nói đây không phải là nhân chứng buộc tội nhưng là những người trợ lực có uy tín để giúp tội nhân dễ dàng sữa lỗi. Cần kiên nhẫn đối vơi người cố chấp”.

“Đem theo một hay hai người nữa” tông đồ Phao-lô có lời nhận định, đó là cách thể hiện tinh thần “tương thân tương ái” (x. Rm 13, 8).

Trở lại với lời truyền dạy của Đức Giê-su. Hôm đó, Ngài còn đưa ra một nguyên tắc nữa, đó là: Nếu một hay hai người đến “sửa lỗi” với tinh thần tương thân tương ái mà người phạm lỗi không nghe, thì: “Hãy đi thưa Hội Thánh”.

“Thưa Hội Thánh sao!”. Đúng vậy. Ở một vài thời điểm, một ai đó có thể từng bước, từng bước “trót phạm tội”, những tội vi phạm đến giới luật “một vợ một chồng”, hoặc những tội vi phạm đến giới luật “độc thân” trong đời tu, chẳng hạn… Thưa ra Hội Thánh, Lm Nguyễn Hữu An nói: “không phải để bị xét xử nhưng để tỏ lòng sám hối và sẽ được ân xá”.

Cuối cùng, “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe”! Vâng, Đức Giê-su nói: “thì hãy kể nó như một người ngoại” (x Mt 18, 17).

Thật ra, suốt chiều dài lịch sử Hội Thánh, với trường hợp kể-nó-như-người-ngoại, nếu có thực thi thì cũng chỉ là “giọt nước tràn ly”, là một sự bất khả kháng, mà thôi.

****
Sửa lỗi cho nhau, sửa lỗi một ai đó đang “sa lầy” vào một vũng lầy tội lỗi, không phải là một chuyện dễ dàng. Thế nhưng, đó là việc chúng ta phải làm. Và, cách làm hay nhất, đó là “đưa ra những lời cảnh báo”.

Nếu “nhiệm vụ của đài khí tượng là cảnh báo trước cho dân biết các hiện tượng thời tiết sắp xảy ra có thể gây nguy hiểm, như bão và lũ quét, để dân có biện pháp đề phòng hay tránh né” thì những-lời-cảnh-báo của chúng ta cũng “có thể chế ngự một số cơn bão trong đời tư của một ai đó, nhất là sớm đưa ra lời cảnh báo”.

Lm.Charles E.Miller đã có lời khuyên như thế. Và, ngài Lm. còn có lời tiếp rằng: “Anh chị em phải chấp nhận một thực tế là Thiên Chúa đã đặt chúng ta là người canh gác cho nhau như Người đã từng làm như vậy với ngôn sứ Ê-dê-ki-en.”

Xưa, Thiên Chúa phán với Ê-dê-ki-en, rằng: “Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Ngươi hãy nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết.”

Nay, có phần chắc, Chúa cũng sẽ nói với chúng ta như vậy. Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta rằng: “Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.”

Nghe có hãi hùng không? Thưa không. Không là bởi, Thiên Chúa còn phán tiếp rằng: “Ngược lại, nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình.” (x.Gr 33, 9).

Thiên Chúa phán với chúng ta là thế đó. Và, chúng ta phải là người canh gác cho nhau. Ít nhất, ít nhất là canh gác cho chính gia đình mình.

Đừng để “nước tới chân mới nhảy”. Nói rõ hơn, đừng để những “cơn bão”, đại loại như bão-nghiện-game, bão-nghiện-ma-túy, bão-nghiện-sex, bão-phá-thai, bão-hôn-nhân-đồng-tính v.v… tàn phá gia đình chúng ta, tàn phá mảnh đất tâm hồn con em chúng ta.

Hãy là người đưa ra những lời cảnh báo sớm, để mà phòng tránh, để mà chế ngự nó. Hãy lớn tiếng nói với người thân của chúng ta, con em của chúng ta, rằng: Phá thai là phạm điều răn thứ năm: “chớ giết người”. Nghiện-sex có nguy cơ phạm điều răn thứ bảy: “chớ phạm tội tà dâm.” Hôn nhân đồng tính vi phạm luật hôn nhân Công Giáo v.v…

Không thể viện dẫn lý do, chẳng hạn như: “Ồ! Đã có nhà trường lo, đã có nhà thờ lo v.v…” Không thể viện dẫn lý do rằng: nước đổ là khoai, rằng, chúng nó có thèm nghe đâu!

Sửa lỗi cho nhau, hay cảnh báo cho nhau, không phải là chuyện dễ dàng. Và đó là lý do ngài Lm. Charles có lời nhắn nhủ: “Giống như ngôn sứ Ê-dê-ki-en, chúng ta được đặt làm người sửa lỗi và canh gác cho nhau. Món nợ tương thân tương ái mà ta chưa trả hết, bao hàm nghĩa vụ phải cánh báo nhau về các hiểm họa thiêng liêng trong cuộc sống. Các lý do này khác không bãi miễn trách nhiệm của chúng ta. Ta cũng không thể trốn tránh bằng cách cho rằng người trong cuộc dẫu sao cũng chẳng thèm nghe, hoặc sẽ bực mình và tức giận, hay đơn giản vì mình không thạo lắm với công việc này.”

Sửa lỗi cho nhau, Đức Giê-su đã dạy chúng ta phương cách thực hiện. Canh gác cho nhau, đó là điều Thiên Chúa đã đặt để chúng ta. Để chúng ta có thể thực hiện một cách tuyệt hảo phần việc này, hãy luôn tham dự thánh lễ.

Trong thánh lễ, chúng ta cầu nguyện cho nhau. Trong thánh lễ, chúng ta “cùng ăn một tấm bánh cùng uống một chén thánh”, những điều này giúp chúng ta ý thức rằng: phải chu toàn trách nhiệm với nhau.

Vâng, nói cách khác, chúng ta phải có sự tương thân tương ái.

Petrus.tran

Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...