Thứ Sáu, 24 tháng 11, 2023

Giê-su ơi… xin nhớ đến con

 “Đức Giê-su là Vua của thế giới, trị vì giữa các quốc gia”.

Lễ Đức Giê-su Ki-tô Vua
Giê-su ơi… xin nhớ đến con

 

tbd 241123b


Chúa Nhật hôm nay (26/11/2023) kết thúc năm Phụng Vụ. Và theo truyền thống, toàn thể Giáo Hội long trọng cử hành thánh lễ kính “Đức Giê-su Ki-tô là Vua”.

Vâng, trước trào lưu con người chủ trương tiêu diệt Thiên Chúa, hô hào trục xuất Thiên Chúa ra khỏi gia đình, ra khỏi học đường, ra khỏi xã hội, ra khỏi quốc gia, từ bỏ quyền trở nên con Thiên Chúa, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập thánh lễ này.

Đó là vào năm 1925. Vào năm đó, “Đức Piô XI tổ chức Năm thánh trọng thể đánh dấu 1.600 năm Công đồng Nicaea. Công đồng Nicaea được nhóm họp vào năm 325, các nghị phụ của Công đồng đã khẳng định Thiên tính trọn vẹn của Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa Con, đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Lời tuyên bố của Công đồng đã trở thành một tín điều mà sau đó được mở rộng thành Kinh tin kính Nicea, mà chúng ta vẫn tuyên xưng trong Thánh lễ Chúa nhật và lễ Trọng.

Trong suốt Năm Thánh, Đức Piô XI không ngừng nhấn mạnh đến Vương quyền của Chúa Kitô như được tuyên xưng trong Kinh tin kính: ‘Nước Người sẽ không bao giờ cùng’. Cụ thể, chủ đề về Vương quyền của Chúa Kitô liên tục xuất hiện trong việc cử hành lễ Truyền tin, lễ Hiển linh, lễ Biến hình, và lễ Thăng thiên của Giáo hội.

Để nhìn nhận Đức Giêsu Kitô chính là vị vua tối cao duy nhất, Đấng thống trị bằng sự thật và tình yêu đối với mọi người, mọi quốc gia, và mọi tương quan trần thế, vào ngày 11.12.1925 khi kết thúc năm Thánh, Đức Piô XI đã ban hành Thông điệp Quas Primas, cho thêm ngày lễ “Chúa Giêsu Kitô Vua của chúng ta” vào Lịch Phụng vụ của Giáo hội.

Theo hướng dẫn của Thông điệp Quas Primas, Lễ Chúa Kitô Vua được cử hành hằng năm vào Chúa nhật cuối cùng của tháng mười một. Với sự chọn lựa này, Lễ Chúa Kitô Vua rơi vào 4 tuần trước Mùa Vọng như lời nhắc nhở rằng: Chúa Giêsu Kitô không chỉ là Vua của thế giới, trị vì giữa các quốc gia, mà Người còn là vị Vua vĩnh cửu, được tôn vinh bởi Các Thánh trên thiên quốc, và một ngày nào đó Người sẽ trở lại để phán xét loài người.” (nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/doi-net-ve-le-chua-kito-vua-48809)

**
Vâng, thông điệp Quas Primas gợi cho chúng ta nhớ đến lời Đức Giê-su, trước khi về trời, đã tuyên phán với các môn đệ rằng: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (x.Mt 26, 18). Lời tuyên phán này, có thể hiểu một cách gián tiếp rằng, “Đức Giê-su là Vua của thế giới, trị vì giữa các quốc gia”.

Mà nào chỉ có vậy đâu! Trong những ngày Đức Giê-su còn tại thế, không ít người cũng đã thừa nhận thần tính, quyền cai trị và nhất là quyền năng của Ngài.

Điển hình là người đàn bà xứ Ca-na-an, người đã xin Đức Giê-su chữa đứa con gái của mình bị quỷ ám. Rồi đến hai người mù tại Giê-ri-khô. Và, một anh mù khác, cũng tại Giê-ri-khô tên là “Ba-ti-mê, con ông Ti-mê”. Tất cả những người này, khi gặp Đức Giê-su, họ đều lớn tiếng kêu lên, rằng: “Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít.”

Thời đó, tưởng chúng ta cần biết, gọi Đức Giê-su là Con-vua-Đa-vít, đó là một danh xưng cao trọng. Gọi Đức Giê-su với danh xưng cao trọng, đủ để nói rằng, những người kêu xin đã tin rằng, Ngài là Đấng Messia - Vị “thủ lãnh” cứu tinh của dân tộc.

Tuy nhiên, những lời xưng tụng (nêu trên) chỉ là những xưng tụng của từng cá nhân. Tung hô Đức Giê-su là Vua, là một tập họp của hàng trăm, hàng trăm người. Đó là hôm Ngài cùng các môn đệ lên Giê-ru-sa-lem. Chuyện kể rằng: “Nghe tin Đức Giê-su tới… họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng Vua Israel” (x.Ga 12, 12-13).

***
Tất cả những điều được diễn giải nêu trên đủ để nói rằng “Đức Giêsu Kitô là Vua”. Đức Giê-su là Vua. Thế nhưng, Ngài lên ngôi vua không như những vị vua trần thế.

Nói về những vị vua trần thế, có lẽ chúng ta chỉ cần nói sáu chữ: “biết rồi, khổ lắm, nói mãi.” Tuy nhiên, có ba ông vua của dân Israel, thời Cựu Ước, tưởng cũng nên nói đến. Nói đến, vì ba ông vua này, được cho là nhận được nhiều “ơn Chúa”, thế mà cũng gây ra nhiều tai tiếng. Ba vị vua này, đó là: Saul, David, và Salomôn.

Với vua Saul… Thiên Chúa đã phán: “Ta hối hận đã đặt Saul làm vua, vì nó đã bỏ không theo Ta và không thi hành các lệnh của Ta.” (1S 15, 10).

Còn về vua David… Thiên Chúa đã phán: “Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua Israel… Vậy, tại sao ngươi dám khinh màng lời Đức Giavê mà làm điều dữ trái mắt Người. Ngươi đã lấy gươm đâm Uria, người xứ Hitit và đoạt lấy vợ nó làm vợ ngươi.” (2S 12, 7-9).

Còn “ông thần” Salômôn ư! Ông ta có 700 vợ chính thức và 300 hầu thiếp (1V 11, 3). Ông đã bỏ Đức Chúa Giavê để thờ tà thần của các người vợ của ông. Giavê phán với Salômôn: “Bởi ngươi đã nên thể ấy nơi ngươi… Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi mà trao cho thuộc hạ của ngươi.” (1V 11, 11).

Ba vị vua này nên bình luận như thế nào? Riêng tôi (người viết) chắc cũng chỉ bình luận sáu chữ: “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.

Nhưng thôi! Chúng ta dừng ở đây và trở lại với Vua Giê-su. Vua Giê-su thì sao! Thưa, Vua Giêsu lên ngôi không bằng một cuộc đảo chánh, như ông Qaboos Bin Sa’id (thuộc vương quốc Hồi giáo Oman), đã làm một cuộc đảo chánh lật đổ người cha mình vào năm 1970.

Các sách Tin Mừng cho chúng ta biết lễ đăng quang của Đức Giê-su được diễn ra trong chính ngày Ngài tử nạn tại đồi Golgotha.

“Khởi đầu là cuộc khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, hôm đó Đức Giêsu đã ngồi trên lưng một con lừa con. Qua cử chỉ này, Đức Giêsu đã khẳng định rằng, Ngài là Vua, nhưng Ngài là Vua không theo các cung cách của vua chúa trần gian. Tất cả bản án của Chúa Giêsu đều xoay quanh tước hiệu Vua của Ngài.” Lm Giuse Nguyễn Hữu An, trong bài viết: “Giê-su – Vua tình yêu”, đã có lời nhận định như thế.

Vâng, nhận định của ngài Lm. rất đúng. Vua Giêsu không dùng bạo lực, dùng thủ đoạn, dùng sức mạnh của họng súng, để thống trị, để nô lệ hóa người dân, như xưa kia có vài vị vua, vài vị lãnh tụ trần gian đã hành xử, hành xử đến nỗi dân tộc Việt Nam đã phải “một ngàn năm nô lệ giặc Tàu - một trăm năm đô hộ giặc Tây”, vào những thế kỷ trước. Hồi ấy, trả lời quan tổng trấn Philatô, Đức Giê-su nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.”

Chúng ta cùng nghe lại lời đối đáp giữa Phi-la-tô và Đức Giê-su. “Ông có phải là vua dân Do-thái không?... Nước tôi không thuộc về thế gian này… Vậy ông là vua sao?... Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này…”

Nhằm mục đích là VUA. Bởi vì, Ngài: “đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.”

****
Đức Giê-su là Vua. Chúng ta gọi Ngài là Vua của vũ trụ. Bởi vì, Ngài chính là “Ngôi Lời”, là một trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Gio-an có lời viết, rằng: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,3).

Đức Giê-su là Vua. Chúng ta gọi Ngài là Vua của trần gian, của nhân loại. Bởi vì chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị Vua. Một ngày nọ, chính Đức Giê-su đã tuyên phán rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê…” (Mt 25, 31-34).

Chúng ta cùng nghe thêm một lần nữa lời Vua Giê-su đã tuyên bố: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”.

Thế nên, khi đã là một Ki-tô hữu, chúng ta cần ghi nhớ. Ghi nhớ để hiểu rằng, chúng ta đang sống ở thế gian này, nhưng không thuộc về thế gian.

Không thuộc về thế gian, thế nên hãy tránh xa những vị thần-thuộc-thế-gian, đó là: thần-quyền-lực, thần-tiền-bạc, thần-danh-vọng, thần-dâm-bôn, thần-phóng-đãng, thần-hận-thù, thần-chia-rẽ-bè-phái, thần-say-sưa-chè-chén, v.v

Suy niệm về lời tuyên bố (nêu trên) của Đức Giê-su, Lm Charles E.Miller có lời chia sẻ rằng: “Nước của Người không phải là một vương quốc của thói dối trá và hủy diệt, mà là của sự thánh đức và ơn sủng; không phải là một vương quốc của nạn bóc lột, hận thù và bạo lực, mà của công lý, tình yêu và an bình.”

Chưa hết, ngài Lm Charles còn có lời khuyên rằng: “Là thành viên của Giáo Hội, chúng ta được kêu gọi nên một ‘bí tích’ của vương quốc này, một ‘dấu chỉ’ cho thế giới thấy Nước Thiên Chúa thật như thế nào.” “Dấu chỉ” đó… Đức Giê-su nói rồi: “làm chứng cho sự thật.”

Thì đây! Trước câu hỏi của tổng trấn Phi-la-tô: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này… Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. (Ga 18, 33… 37).

Với Lm. Giuse Nguyễn Hữu An, ngài cũng có lời chia sẻ rằng: “Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hóa với nước Chúa. Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật. Sự thật đó là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu đem đến.”

Khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật chính là “vật liệu” để xây dựng lên một Vương Quốc của Vua Giê-su.

*****
Vua chúa hay lãnh tụ trần gian như thế nào, Vua Giê-su ra sao, chúng ta biết rồi. Vấn đề còn lại, đó là chúng ta chọn ai? Chúng ta sẽ là “thần dân” của ai?

Vâng, đó mới là điều quan trọng. Mỗi chúng ta hãy tự hỏi lòng mình rằng, Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân chúng ta chưa!

Ngài đã “cư ngụ” giữa trái tim của chúng ta chưa! Ngài có ảnh hưởng mãnh liệt đến tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta chưa!

Câu trả lời thuộc mỗi chúng ta. Thế nhưng, dù nhận hay không nhận Đức Giêsu là Vua, chúng ta cũng không thể loại bỏ Ngài. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã có lời rằng: “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ (được) Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”.

Nói cách khác, Đức Giê-su Kitô không bao giờ loại bỏ chúng ta ra khỏi Vương Quốc của Ngài. Chỉ cần một cử động của tâm hồn, như cử động của tên gian phi bị treo trên thập giá bên Đức Giê-su, và nói: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Có phần chắc Ngài sẽ nói với chúng ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. (Lc 23, 39-43).

Một điều chúng ta cần biết, nếu Đức Giê-su chỉ là Vua của thế giới, của vũ trụ, Vua muôn vua, nhưng lại không phải là Vua của cuộc đời chúng ta, thì chẳng ích lợi gì cho chúng ta.

“Tuyên xưng thật mạnh mẽ trên lý thuyết, mà thực tế đời sống của ta lại chứng tỏ trái ngược lại, thì sự tương phản ấy chỉ cho thấy sự giả dối hay giả hình của ta thôi!” Lm Giuse Nguyễn Hữu An đã mạnh mẽ khuyến cáo như thế. Và, ngài Lm. thêm lời rằng: “Tôi rất thích lời của tổng thống Bush: ‘Show, but don’t tell!’: Hãy chứng tỏ (bằng thực tế, bằng hành động) chứ đừng nói suông!”

Vâng, hãy chứng tỏ, không nói suông bằng cách thực hành ý muốn của Đức Giê-su. Ngài rất muốn chúng ta: “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, chôn xác kẻ chết”, v.v… với bất cứ ai, dù người đó chỉ là “những người anh em bé nhỏ nhất”, vì Vua Giê-su đã nói: “là các ngươi làm cho chính Ta vậy.” (x.Mt 25, 40).

Chúa Nhật hôm nay, toàn thể Giáo Hội kính trọng thể “Đức Giê-su Ki-tô là Vua”. Đây là thời điểm thích hợp để chúng ta tái xác nhận rằng: “Chúa Giêsu là Vua. Chúa muôn thuở là Vua. Chúa muôn thuở là Vua… (muôn vua)”.

Vâng, để cho sự tái-xác-nhận đem lại ơn ích cho mỗi chúng ta, hãy ngước lên thánh giá Chúa Ki-tô, một Chúa Ki-tô đã chiến thắng tử thần và đang “ngự bên hữu Chúa Cha” mà cầu xin, xin theo cách tên gian phi năm xưa đã xin, rằng: “Giê-su ơi… xin nhớ đến con”.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2023

Chúa trao yến bạc – ta vui sinh lời

 Dụ ngôn này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mát-thêu với tiêu đề: “Dụ ngôn những yến bạc” (x.Mt 25, 14-30).

Chúa Nhật XXXIII – TN – A
Chúa trao yến bạc – ta vui sinh lời

tbd 171123a


Lòng trung thành nghĩa là gì? Thưa, theo tự điển Tiếng Việt Phổ Thông, lòng trung thành có nghĩa là: “Trước sau một lòng một dạ giữ trọn niềm tin, giữ trọn tình cảm gắn bó, những điều cam kết đối với ai hay cái gì.”

Còn theo Wikipedia định nghĩa, thì: “Lòng trung thành, nói chung, là một sự tận tâm và hết lòng với một quốc gia, chính nghĩa, triết lý, đất nước, nhóm người hoặc một người cụ thể. Triết học không đồng ý về những gì có thể là một đối tượng của lòng trung thành, như một số người cho rằng sự trung thành chỉ có ý nghĩa giữa các cá nhân và chỉ một con người mới có thể là đối tượng của lòng trung thành. Định nghĩa về lòng trung thành trong luật pháp và khoa học chính trị là sự trung thành của một cá nhân với một quốc gia, hoặc với quốc gia mà người đó lớn lên, hoặc với một quốc gia được tuyên bố là tuyên thệ (nhập tịch)”.

Khi nói tới lòng trung thành, người Nhật xem đó như là đức tính quan trọng. Đức tính này, thường được thể hiện rõ nét ở những người võ sĩ đạo.

Còn Ki-tô giáo thì sao? Thưa, cũng vậy. Trong những ngày còn tại thế, một ngày nọ, Đức Giê-su đã gián tiếp nói với các môn đệ mình về lòng trung thành, rằng: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó chủ này mà khinh dể chủ nọ.” (x.Mt 6, 24).

Để cho các môn đệ (và cũng là cho chúng ta) thấy cái kết quả sẽ dành cho những ai không có lòng trung thành, Đức Giê-su đã kể một dụ ngôn. Dụ ngôn này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mát-thêu với tiêu đề: “Dụ ngôn những yến bạc” (x.Mt 25, 14-30).

**
Vâng, dụ ngôn được kể rằng: “Có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ.” Rồi, khi những người đầy tớ đến, “ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tùy khả năng riêng mỗi người.” Sau đó, “ông ra đi”.

Khi ông chủ ra đi. Chuyện kể tiếp rằng: “Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác.” Cũng vậy, “người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác.” Riêng người đã lãnh một yến, thì sao nhỉ! Thưa, anh ta “đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.”

“Rồi… thời gian lặng lẽ trôi…”, trôi theo dòng đời dài lâu, thì ông chủ về. Ông về và ông đến, “đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ.”

Người đầu tiên gặp ông chủ, là người đã lãnh nhận năm yến. Anh ta đến đưa năm yến khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây.”

Tiếp đến, “người đã lãnh hai yến cũng tiến lại và nói: Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây.”

Thưa quý vị, nếu quý vị dự định mở một cửa hàng buôn bán, quý vị có “định” mướn hai người đầy tớ này không? Có, có lẽ… mỗi chúng ta sẽ có những định đoán khác nhau. Thế nhưng, sẽ là tiếc nuối đấy, nếu chúng ta không “định” mướn hai vị này!

Tại sao! Thưa, chúng ta cùng nghe ông chủ nói về hai vị đầy tớ này nhé! Vâng, sau khi nghe hai vị đầy tớ này tường trình “thành quả lao động” của mình, ông chủ cất tiếng khen ngay: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.” (x.Mt 25, 23).

Cuối cùng là người lãnh một yến. Anh này nói gì nhỉ! Thưa, anh ta nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy.”

Của-ông-đây, ông-cầm-lấy. Tất nhiên là vậy. Thế nhưng, có ai bỏ tiền đầu tư lại không mong muốn có lời! Do vậy, với người lãnh một yến, ông chủ đã có lời phê phán một cách gay gắt với anh ta rằng: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác… đáng lý anh phải gửi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ!”

Thật đáng tiếc cho người lãnh một yến, vì đã sai lầm khi nhận định về ông chủ của mình. Sự sai lầm đó đã đem đến cho anh ta nhiều hậu quả nghiệt ngã.

Hậu quả thứ nhất, đó là, ông chủ ra lệnh “lấy yến bạc khỏi tay (anh ta) mà đưa cho người đã có mười yến.” Hậu quả thứ hai, đó là, ông chủ ra lệnh: “Hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”

***
Giải thích dụ ngôn này, một số nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng: Ông chủ chính là Thiên Chúa (cũng có thể hiểu là Đức Giê-su). Những người đầy tớ chính là chúng ta.

Trong dụ ngôn, ông chủ giao cho các đầy tớ người năm yến, người hai yến, người một yến. Trong thực tế, “Thiên Chúa ban cho chúng ta mỗi người các tài năng, khả năng, năng lực v.v… như những ‘yến bạc’ vô giá.” Lm. Nguyễn Xuân Trường đã có lời chia sẻ như thế.

Và, ngài thêm lời rằng: “Nói theo ngôn ngữ kinh tế thời nay thì Chúa cấp vốn, Chúa đầu tư cho chúng ta sức lực, nguồn lực, tài năng và tài nguyên. Nhiệm vụ của chúng ta là phải sinh lời, phải phát triển.”

Suy nghĩ một cách sâu xa và thực tế hơn. “Năng lực” Thiên Chúa ban cho chúng ta, có thể là chức vụ Giám Mục, Linh Mục, Tu sĩ. “Khả năng” Thiên Chúa giao phó cho chúng ta, có thể là thiên chức làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ. “Tài năng” Thiên Chúa ban cho chúng ta, có thể là một bác sĩ, là một lương y, là một nhà giáo, v.v…

Chúng ta sẽ nhận! Vâng, hãy nhận và đừng phân bì rằng thì-là-mà sao Chúa ban cho ông kia chức vụ Giám Mục, ông nọ làm Giám Đốc Công Ty. Còn phần con, thân phận con… điều Chúa ban cho con chỉ là một tên nhân viên “quét thẻ”!

Muốn lãnh năm yến ư! Nói rõ hơn, muốn Chúa ban ơn được làm linh mục ư! Nếu muốn, hãy tự hỏi, ta sẽ sống trung thành với nhiệm vụ được giao, trung tín với những lời đã thề hứa, hứa “tự là hoạn nhân vì Nước Trời”? Hay ta lại “tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau”, ngoái đàng sau chiêm ngắm một mỹ nhân nào đó, để rồi trong một phút yếu lòng, ta rơi vào thảm cảnh “hồn lỡ sa vào đôi mắt em”… đầy hối tiếc!

Chia sẻ về việc người nhận được năm nén, hay hai nén, hoặc một nén, Lm. Charles E. Miller, có lời khuyên, rằng: “Tốt hơn là ta nên làm điều gì đúng, chứ không phải điều mình muốn. Từ (câu chuyện dụ ngôn), có thể rút ra một bài học là ta phải sẵn lòng làm những gì đúng dưới mắt Thiên Chúa, có nghĩa không nhất thiết là những điều to tát cho Ngài, mà bất cứ gì Ngài đòi hỏi nơi chúng ta”.

Do vậy, đừng thoái thác nếu Thiên Chúa ban cho chúng ta thiên chức làm chồng hay làm vợ, làm cha hay làm mẹ. Nhận được “yến bạc” này, mỗi chúng ta sẽ có được những đứa con quý báu như những “cục vàng” của mẹ. Đó là chưa nói đến người vợ đảm đang và đạo đức của mỗi chúng ta, “nàng quý giá vượt xa châu ngọc” (x.Cn 30, 10).

Với “yến bạc” này, Lm. Nguyễn Xuân Trường dí dỏm nói: “Các cha đi tu có suốt đời mơ cũng chẳng được.”

Có thể Thiên Chúa trao cho ta nhiệm vụ là một bác sĩ, là một lương y. Vâng, cũng hãy nhận. Và, đừng quên lời thề Hypocrat: “…Người yếu đau, bệnh tật phải cứu chữa tận tình, không tư lợi cho mình, luôn đề cao y đức.” Nói theo ngôn ngữ ngày nay: “lương y như từ mẫu”.

Còn… còn rất nhiều nhiệm vụ (yến bạc), Thiên Chúa giao phó cho chúng ta. Vấn đề của chúng ta, đó là, khi “ông chủ (Giê-su) đến tính sổ và thanh toán sổ sách”, chúng ta có thể trình diện trước mặt Ngài và nói: “tôi đã gây lời được năm nén, hai nén”! Nói cách khác, tôi có là “đầy tớ tài giỏi và trung thành” của ông chủ Giê-su?

****
Nói đến “lòng trung thành”, nói không sợ sai, các Thánh Tử Đạo Việt Nam chính là mẫu mực để chúng ta noi theo. Các thánh tử đạo Việt Nam, đã không “đem chôn những yến bạc” mà ông chủ Giê-su đã giao phó. Các ngài đã sinh lời, việc sinh lời đó được minh chứng qua sự trung tín và lòng trung thành trong đức tin của các ngài, nó được đóng ấn bằng chính việc tử vì đạo của các ngài.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã tin vào Chúa Giêsu, đã sẵn sàng chịu bắt bớ tù đày, chịu nhiều hình phạt khắc nghiệt, dẫu cho đó là cái chết, chỉ vì trung thành với niềm tin của mình.

Vâng, sẽ là thiếu xót nếu chúng ta không biết đến những hình phạt mà các ngài đã phải lãnh chịu. Những hình phạt đó rất khủng khiếp. Đó là: bị gông cùm, xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói. Nặng hơn thì bị voi dầy, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng. Tàn bạo hơn thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) hoặc bị thiêu sống. Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (một hình thức phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt)… cho tới chết. Án nhẹ nhất, đó là khắc lên trên trán hai chữ “tà đạo”.

Xưa, trong một lần lên Giêrusalem, khi loan báo về cái chết của Người, một cái chết để cứu chuộc nhân loại, Đức Giêsu đã tuyên phán rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24).

Và ngày nay, các thánh tử đạo Việt Nam đã thực hiện lời truyền dạy của Thầy Giê-su. Các ngài đã sẵn sàng “chết đi”. Chết đi để trở thành những ““Martyr”, những Martyr của lòng trung thành và tình yêu thương.

Như Roma vào những thế kỷ đầu, với ba trăm năm bách hại, Việt Nam vào những thế kỷ sau cũng lãnh chịu ba trăm năm bách hại, trải qua sáu triều đại: Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.

Có rất nhiều “Martyr” ở khắp nơi trên thế giới. Riêng những Martyr ở Việt Nam, có vào khoảng hàng trăm ngàn người, trong số đó, có 118 vị chính thức được tôn phong. Xin đơn cử ba vị, đó là: linh mục Gioan Đạt – thừa sai Gagelin Kính và linh Mục Đặng Đỉnh Viên.

Với linh mục Gioan Đạt, khi ngài vừa dâng lễ xong thì quân lính vây bắt. Cha đã chạy thoát, nhưng vì để quên áo lễ, cha thấy quân lính tra tấn gia chủ nên ra nộp mạng và nói: “Vẫn biết tôi có thể thoát, nhưng như thế anh chị em sẽ bị khổ nhiều”.

Với thừa sai Gagelin Kính, ngài đã viết thư xin phép giám mục cho mình ra trình diện để tín hữu Bình Định được bình an.

Còn với linh mục Đặng Đình Viên thì sao? Thưa, cha đã trốn an toàn trong vườn mía dày đặc, nhưng khi thấy quân lính đánh đập tra khảo con của chủ nhà, cha cũng tự động ra thế mạng.

Qua những chứng từ trên, có thể nói rằng, các thánh tử đạo Việt Nam đã để lại cho chúng ta những tấm gương mẫu mực về “lòng trung thành” với niềm tin của mình. Vì thế, thật phải đạo, khi hôm nay toàn thể Giáo Hội “Kính trọng thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam”.

Để, để cho Thánh Lễ “kính trọng thể các ngài” sinh ơn ích, thiết tưởng mỗi chúng ta đừng quên thực hiện những gì người đầy tớ lãnh nhận năm nén và người đầy tớ nhận hai nén, đã làm. Việc hai vị đầy tớ này đã làm, chúng ta biết rồi, đó là: “gây lời”.

Nói theo cách nói của Lm. Nguyễn Xuân Trường: “Chúa trao yến bạc – ta vui sinh lời”.

Petrus.tran

http://gpbanmethuot.com/trang-ban-doc/chua-trao-yen-bac--ta-vui-sinh-loi-73202.html

Thứ Sáu, 10 tháng 11, 2023

Hãy luôn tỉnh thức…

 Đức Giê-su căn dặn (lại) lời Ngài đã căn dặn, rằng: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” (x.Mt 25, 13).

Chúa Nhật XXXII – TN – A
Hãy luôn tỉnh thức…

tbd 111123a


Một trong những điều người Ki-tô hữu cần phải tin và ghi khắc trong con tim mình, đó là: có ngày tận thế, ngày mà Đức Giê-su “sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Đây không phải là niềm tin mơ hồ vin vông, nhưng là do chính Ngài phán truyền.

Thật vậy, trong những ngày còn tại thế, một ngày nọ, Đức Giê-su đã tuyên phán rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê.” (Mt 25, 31-32).

Kèm theo lời tuyên phán nêu trên, Đức Giê-su còn có lời khuyến cáo rằng: “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy.”

Tiếp đến, Ngài căn dặn, rằng: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (x.Mt 24, 37-44).

Vâng, để cho các môn đệ (và cũng là để cho chúng ta hôm nay) nhận ra tầm quan trọng của việc “hãy canh thức và hãy sẵn sàng”, Đức Giê-su đã diễn giải bằng một dụ ngôn. Dụ ngôn này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mát-thêu với tiêu đề: “Dụ ngôn mười trinh nữ” (x.Mt 25, 1-13).

**
“Có mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể”. Mở đầu câu chuyện dụ ngôn, thánh sử Mát-thêu đã tường thuật như thế. Có lẽ, sẽ có không ít người trong chúng ta tự hỏi “cầm đèn ra đón chú rể” nghĩa là sao!

Thưa, một Mục sư, vốn là học giả người Do Thái, đang quản nhiệm một Hội Thánh Tin lành tại Dallas, Texas, có viết một quyển sách nhan đề: “An Israel Love Story”. Trong quyn sách này, ông ta cho biết: “Theo truyền thống là chú rể đến vào ban đêm, đặc biệt là nửa đêm, để cố gắng làm cho cô dâu ngạc nhiên. Nó đã trở thành ‘một vụ bắt cóc’. Cô dâu cần chờ đợi chung với các ‘phù dâu’, là các chị em ruột của mình hoặc bất cứ ai mà cô muốn có mặt trong tiệc cưới của mình. Tất cả họ sẽ ‘có dầu trong đèn của họ’, trong trường hợp chú rể đến vào ban đêm. Thời gian chờ đợi, họ chắc chắn phải ‘sẵn sàng’ vào mỗi đêm.” (nguồn: internet).

Trở lại câu chuyện dụ ngôn. Chuyện kể tiếp rằng: “Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn”.

Vì sao lại có chuyện dại - khôn? Thưa, là bởi: “các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo.” Còn những cô khôn! Vâng, “những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo”.

Trong thời gian chờ đợi, chuyện kể rằng: “Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả.” Các cô đã ngủ… Mười cô trinh nữ, chúng ta có thể tưởng tượng, đã thiếp đi với tâm trạng: “Trăm con chim mộng về bay đầu giường.” (thơ Huy Cận).

Thế rồi,… cuối cùng chú rể cũng đến. Sự kiện này được thánh Mát-thêu kể như sau: “Nửa đêm có tiếng la: Chú rể kia rồi, ra đón đi.”

Có-tiếng-la ư! Đúng vậy. Trong thực tế, tác giả bài viết “An Israel Love Story” cho biết, rằng: “phái đoàn của chú rể ‘hét lên’ khi họ đến gần nhà của cô dâu.”

Ra-đón-đi… Ra đón đi… Vâng, với tiếng la hét như thế, dụ ngôn kể rằng: “…Tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy và sửa soạn đèn.”

Trong lúc các cô dại “soạn đèn”, thì than ôi… hết dầu! Các cô dại bèn năn nỉ ỉ ôi với các cô khôn, rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn chúng em tắt mất rồi!”

Cho-chúng-em… nghe “lịch lãm” nhỉ! Đúng! rất lịch lãm! Tuy nhiên, câu trả lời của các cô khôn còn lịch lãm hơn nữa. Các cô khôn nói: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu. Các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.”

Bị từ chối, các cô dại vội vàng đi mua. Rồi, rồi… “Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới”. Khi chú rể tới thì sao! Đốt pháo ư! Vâng, đó chỉ là một chút tưởng tượng cho vui, của người viết.

Còn trong câu chuyện của dụ ngôn, khi thấy chú-rể-tới “những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới.” Rồi sao nữa! “Rồi người ta đóng cửa lại”. (x.Mt 25, …10).

Thế còn số phận năm cô dại! Thưa, giản dị thôi “log out”!

Vâng, chúng ta cùng nghe lời tường thuật của thánh sử Mát-thêu. Ngài Mát-thêu ghi lại rằng: “Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: ‘Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!” Than ôi! Năm cô dại chỉ nhận được những lời lẽ đầy tủi nhục: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả”.

Kết thúc dụ ngôn, Đức Giê-su căn dặn (lại) lời Ngài đã căn dặn, rằng: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” (x.Mt 25, 13).

***
Sử dụng dụ ngôn, như chúng ta được biết, là cách Đức Giê-su thường dùng để đưa ra một thông điệp nào đó. Thông điệp mà Ngài muốn gửi đến cho chúng ta hôm nay, qua dụ ngôn “Mười trinh nữ” đó là: Đức Giê-su được ví như chàng rể. Mười cô trinh nữ không là một cá nhân nào, nhưng là mỗi chúng ta, là toàn thể dân Chúa, thuộc mọi thời đại.

“Chàng rể đến giữa đêm khuya diễn tả niềm tin vào việc Đức Giê-su Ki-tô sẽ trở lại vào lúc không ai ngờ.” TGM Nguyễn Năng đã có lời giảng giải như thế. Mà, thật là vậy. Đức Giê-su, khi còn tại thế, Ngài đã có lời tuyên phán rằng: “Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.” (Mt 24, 36).

Tông đồ Phaolô, sau này, cũng đã nói với tín hữu ở Thê-xa-lô-ni-ca rằng “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm”. (x.1Tx 5, 1-2).

Không dừng ở đó, ngài Phao-lô còn có lời truyền dạy, truyền dạy rằng: “Tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê… nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ.”

Thế nên, qua lời truyền dạy của thánh Phao-lô, chúng ta cần hiểu rằng, sự sẵn sàng, sự tỉnh thức phải là hành trang cho hành trình đến dự “Bàn Tiệc Thiên Quốc” của chúng ta.

Nói, theo cách nói của TGM Nguyễn Năng, thì: “Người Kitô hữu phải có thái độ như năm cô khôn ngoan. Phải biết chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng. Nghĩa là chu toàn bổn phận đối với Chúa: giữ các giới răn, sống lời Chúa, chu toàn nhiệm vụ đối với tha nhân: sống công bình bác ái, yêu thương mọi người.”

****
Như đã nói ở trên, Đức Giê-su được ví như chàng rể. Mười cô trinh nữ không là một cá nhân nào, nhưng là mỗi chúng ta, là toàn thể dân Chúa, thuộc mọi thời đại.

Do vậy, chúng ta luôn phải sẵn sàng và tỉnh thức. Phải sẵn sàng và tỉnh thức là bởi, “Chàng rể Giê-su” sẽ đến, đến trực tiếp với mỗi người chúng ta.

Chàng rể Giê-su sẽ “chủ động” tìm kiếm mỗi chúng ta và hỏi: Hỡi con, con ở đâu? như xưa Người đã hỏi Adam: “Hỡi Adam, ngươi ở đâu?” (St 3, 9).

Sao! Chúng ta sẽ có câu trả lời như nguyên tổ Adam rằng: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con… trần-như-nhộng” ư! Vâng, đó chỉ là sự tưởng tượng. Nhưng, rất có thể, chúng ta sẽ không có dịp trả lời, vì chúng ta “bận” đi-mua-dầu, bận đi shopping, bận đi vũ trường, bận đi nhậu, bận kiềm tiền, v.v…

Nếu là như vậy thì thật chí nguy. Chí nguy vì khi chúng xong-chuyện-của-mình rồi trở lại gọi chàng rể Giê-su, “xin Ngài mở cửa cho chúng tôi”, có phần chắc chàng rể Giê-su sẽ nói: “Tôi bảo thật các người, tôi không biết các người là ai cả!”

Chưa hết… chàng rể Giê-su sẽ biểu lộ tình yêu thiên thượng cùng chúng ta và nói: “Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương.” (Hs 2, 21).

Vâng, chàng rể Giê-su đã lập “một hôn ước vĩnh cu”, và thánh Phao-lô đã có lời xác thực rằng: “Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: ‘Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy’. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: ‘Ðây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”. (1Cr 11, 23-26).

Tất cả điều nêu trên, chàng rể Giê-su, đã thực hiện và hôm nay vẫn tiếp tục thực hiện.

Xưa kia, mười một tông đồ đã đáp lời chàng rể Giê-su. Các ông đã lập một-hôn-ước-vĩnh-cửu với chàng-rể-Giê-su. Và, có phần chắc, các ngài đã “được đi theo chú rể Giê-su vào dự tiệc cưới”, một bữa tiệc không phải ở trần thế, nhưng là ở “Nước Trời”.

Nay, chúng ta có muốn được như các tông đồ ngày xưa? Nếu muốn, điều trước tiên, đừng quên “mang chai dầu theo”. “Dầu” ngài TGM Nguyễn Năng giải thích rồi. Đó là “chu toàn bổn phận đối với Chúa (và) chu toàn nhiệm vụ đối với tha nhân”. Tiếp theo, và là điều tối quan trọng “Hãy luôn tỉnh thức”.

Petrus.tran

Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...