Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2024

Dấu chỉ Giê-su Phục Sinh là: Thánh Kinh và Thánh Thể

 Chuyện kể tiếp rằng: “Ông đã thấy và đã tin”.

Chúa Nhật Lễ Phục Sinh
Dấu chỉ Giê-su Phục Sinh là: Thánh Kinh và Thánh Thể

 

tbd 300324

“Một ngày bừng lên, niềm vui rộn rã, một ngày bừng sáng, ca khúc hân hoan, ôi tình yêu chứa chan. ĐK: Vì Chúa đã sống lại. Ngài đã ra khỏi mồ, cho nhân loại mừng vui, hát lên Al-lê-lu-ia. Vì Chúa đã sống lại. Ngài đã ra khỏi mồ, cho nhân loại mừng vui. Cùng nhau ca lên Al-lê-lu-ia.”

Vâng, những lời viết trên đây là trích đoạn trong bài thánh ca “Ngày Phục Sinh”, tác giả: LM. Thái Nguyên.

“Chúa đã sống lại.” Đó chính là trung tâm điểm đức tin Công Giáo. Đức tin Công Giáo dạy chúng ta rằng: Đức Giê-su, “Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô, Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh”.

Các thánh tông đồ chính là những nhân chứng sống động về sự kiện này. Các ngài là những người đã được chứng kiến tận mắt, được chạm tận tay, được nghe tiếng nói của chính con người thật của Đức Giê-su, sau khi Ngài sống lại. Nói tắt một lời, các ngài đã được diện đối diện với Đức Giê-su Phục Sinh.

**
“Chúa đã sống lại. Ngài đã ra khỏi mồ.” Vâng, theo Tin Mừng thánh Gio-an thuật lại, sự kiện này xảy ra vào “sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối.”

Sáng sớm hôm ấy, có một người phụ nữ ra mộ, nơi đã chôn cất Đức Giê-su. Người phụ nữ này là bà Maria Mác-đa-la.
Hôm thứ Sáu, ngày Đức Giê-su bị bắt, bà ta có đi theo Người suốt con đường từ dinh Philato đến tận đồi Golgotha. Bà đã chứng kiến cảnh khổ nạn của Đức Giê-su.

Sau khi Đức Giê-su bị treo lên thập giá và chết, bà biết rõ, ông Gio-sép, người Arimathe, được tổng trấn Phi-la-tô cho phép nhận thi hài Đức Giê-su để chôn. Và sau khi mọi nghi thức tẩm liệm xong, ông Gio-sép “lăn tảng đá to lấp cửa mồ rồi ra về. Bà Maria Mác-da-la và một bà khác cũng tên là Maria ở lại đó và quay mặt vào mồ” (x. Mt 27, 60-61).

Vâng, hôm ấy, mọi sự việc là thế. Thế mà hôm nay, khi đi đến mộ, bà Maria Mác-đa-la thấy “tảng đá đã lăn khỏi mộ”.

Trong nỗi kinh ngạc, bà ta “liền chạy về gặp ông Si-môn và người môn đệ Đức Giê-su yêu mến.” Khi đã gặp được hai vị môn đệ, bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” (x.Ga 20, 1-2).

Nghe xong lời kể của bà Maria Mác-đa-la, không một phút chần chờ: “ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy”. Vâng, cả hai cùng chạy, chạy không khác gì những vận động viên chạy nước rút.

Cuối cùng thì “người môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới trước”. Khi tới nơi, người môn đệ kia “cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào” (x.Ga 20, 5).

Còn ông Phê-rô! Vâng, ông Simon Phê-rô (chạy) theo sau, và rồi cũng đến nơi. Đến nơi, “ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải còn ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi”.

Người môn đệ chạy tới trước nhưng-không-vào, sau đó “cũng đi vào”. Xác Thầy Giê-su đâu, các ông không thấy! Và ngôi mộ… chỉ là “ngôi mộ trống”. Chuyện kể tiếp rằng: “Ông đã thấy và đã tin”.

***
Không thấy xác Thầy Giê-su và ngôi mộ chỉ là ngôi mộ trống. Thế mà ông-đã-tin. Tại sao! Thưa, là bởi, đó chính là “dấu chỉ” về sự Phục Sinh của Chúa Giê-su.

Chúa Nhật hôm nay (31/03/2024) toàn thể Giáo Hội MỪNG CHÚA PHỤC SINH. Và, Giáo Hội vẫn luôn tuyên xưng rằng, Đức Giêsu – “Ngày thứ ba Người sống lại thật như lời Thánh Kinh”.

Hôm nay, “dấu chỉ” về sự Phục Sinh của Chúa Giê-su là gì! Thưa, là lịch sử hơn hai ngàn năm Ki-tô giáo. Là niềm tin của các tông đồ, một niềm tin không lay chuyển, một niềm tin dám “thí mạng sống” của mình về điều mình đã tuyên xưng, rằng: “Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10, 39-41). Là sự phát triển của Giáo Hội, một sự phát triển không dựa vào sức mạnh bằng họng súng, bằng búa bằng liềm, bằng giáo bằng mác v.v…

Sự tồn tại của Giáo Hội, hơn hai ngàn năm qua, trong khi có biết bao đế quốc sụp đổ, biết bao quốc gia bị xóa sổ trên bản đồ thế giới, cũng chính là “dấu chỉ một Giê-su Phục Sinh”, Ngài vẫn “ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”.

Thế nên, không có gì khiến chúng ta phải run, phải rét trước những kẻ chống lại niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh. Chuyện này, có thể nói rằng: “xưa rồi diễm”.

Vào thời thánh Phao-lô. Đang khi ngài “rao giảng rằng Đức Ki-tô đã từ cõi chết trỗi dậy, thì… Có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại?” (x.1Cor 15, 12).

Thánh Phao-lô đã nói gì! Thưa, ngài đã có lời truyền dạy rất sâu sắc, rằng: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng… Mà nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em hão huyền… Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người.” (1Cor 15, 14… 19).

“Nhưng không phải thế!”. Vâng, Thánh Phao-lô nói tiếp: “Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu… Quả thế, như mọi người vì liên đới với Adam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống.”

Ngày nay, nếu có một David Strauss, một triết gia người Đức, trong tác phẩm “The life of Jesus critically examined” đã lập luận cho rằng: Các tín hữu đầu tiên của Kitô giáo đã cố tìm mọi cách để gán cho Giê-su đủ thứ huyền thoại về một Đấng Cứu Thế mà mọi người mong đợi. Ông ta cố chứng minh rằng, Đức Giêsu của Kinh Thánh chỉ là một Giê-su của huyền thoại.”

Thì, cũng có một Frank Morris, một luật sư người Anh, trong tác phẩm “Who moved the stone – Ai đã lăn hòn đá”, đã đưa ra nhiều bằng chứng đáng tin cậy để nói rằng Chúa Giê-su thực sự đã Phục Sinh.

Tưởng chúng ta nên biết, có rất nhiều nhà khoa học lừng danh trên thế giới “Tin Chúa”. (*)

Johannes Kepler (1571–1630), một trong những nhà thiên văn vĩ đại nhất. Ông nói: “Thiên Chúa thật vĩ đại. Quyền năng Ngài vĩ đại và sự khôn ngoan thì vô hạn. Hãy ca tụng Ngài bằng ngôn ngữ của mình, hỡi trời và đất, mặt trời và mặt trăng, các tinh tú. Lạy Thiên Chúa và là Đấng Tạo Dựng nên con! Với trí khôn giới hạn của con, con muốn loan báo sự kỳ diệu của các công trình Ngài cho mọi người hiểu được”.

Isaac Newton (1643–1727), nhà sáng lập vật lý lý thuyết cổ điển. Ông nói: “Điều ta biết được chỉ là một giọt nước, điều ta chưa biết là cả một đại dương bao la. Những xếp đặt và hài hòa của vũ trụ chỉ có thể xuất phát từ bản vẽ của một Đấng toàn năng và toàn tri”.

Alessandro Volta (1745–1827), người khám phá ra các ý niệm cơ bản về điện. Ông nói: “Tôi tuyên xưng đức tin Công giáo Roma, thánh thiện và tông truyền. Tôi tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi đức tin này, nhờ đó mà tôi có một ý hướng vững chắc để sống và chết”.

Andre-Marie Ampere (1775–1836), người khám phá ra các định luật cơ bản về điện. Ông nói: “Thiên Chúa vĩ đại biết bao và khoa học của chúng ta chỉ là chuyện vặt vãnh!”

Thomas A. Edison (1847–1931), nhà sáng chế nắm giữ 1200 bằng sáng chế. Ông nói: “Tôi tôn trọng và ngưỡng mộ tất cả các kỹ sư, đặc biệt là người kỹ sư vĩ đại nhất: Thiên Chúa”.

Albert Einstein (1879–1955) người đặt nền cho vật lý hiện đại (Thuyết tương đối), giải Nobel 1921. Ông nói: “Những ai nghiêm túc nghiên cứu khoa học đều chắc một điều là trong tất cả những định luật của vũ trụ đều có bóng dáng của một thần linh siêu vượt lên trên con người và chúng ta phải cảm thấy mình thật thấp kém”.

Wernher von Braun (1912–1977), kỹ sư tên lửa và kiến trúc sư không gian. Ông nói: “Trên hết mọi sự là vinh quang Thiên Chúa, Đấng mà con người và khoa học khám phá và tìm kiếm mỗi ngày với sự tôn kính thẳm sâu”.

Louis Pasteur. Tấm danh thiếp và sự ngạc nhiên: “Một sinh viên trẻ ngồi cùng toa xe lửa với một ông già đang lần hạt. Anh mạnh dạn bắt chuyện với ông: “Thay vì lần hạt, tại sao ông không dành thời gian học hỏi và tự đào luyện bản thân đôi chút nhỉ? Tôi có thể gởi cho ông một cuốn sách hướng dẫn”. Ông già đáp: “Anh làm ơn gởi cuốn sách đến địa chỉ này”, và ông trao cho anh sinh viên tấm danh thiếp. Tấm danh thiếp ghi là: Louis Pasteur, Viện khoa học Paris. Anh sinh viên cảm thấy xấu hổ vô cùng. Anh định khuyên nhủ một học giả lừng danh nhất của thời đại mình, nhà sáng chế ra vaccines, được cả thế giới ca tụng và là một người siêng năng lần hạt.”

(*)trích nguồn: Giáo Xứ Châu Sơn - Giáo Phận Ban Mê Thuột.

****
Người ta đã dựa vào Thánh Kinh và lịch sử để minh chứng cho sự kiện Đức Giê-su Ki-tô đã bị xử tử, bị đóng đinh trên thập giá và ngày thứ ba Ngài đã Phục Sinh.

Tất cả bốn sách Tin Mừng: Mát-thêu, Mác-cô, Luca và Gio-an đu mô tả từng chi tiết cho biến cố này. Khoa khảo cổ học cũng đã tìm ra được Ba-vê (Stone Pavement - nền lát đá), nơi Chúa Giê-su bị đem ra xử trước đám đông người Do Thái, đúng như trong Kinh Thánh đã chép: “Ông Phi-la-tô truyền dẫn Đức Giê-su ra ngoài, Ông đặt Người ngồi trên tòa, nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là Gapbatha” (Ga 19, 13).

Như vậy, khám phá về lâu đài An-tô-ni-ô và Ba-vê, nơi xử án Đức Giê-su, vào năm 1933 của các nhà khảo cổ hc đã minh chứng cho những gì bốn thánh sử đã ghi chép trong bốn sách Tin Mừng, cách đây nhiều thế kỷ, là chính xác.

Thánh Phê-rô và Gio-an đã bị tống ngục chỉ vì “giảng dạy cho dân và dựa vào trường hợp Đức Giê-su mà loan báo kẻ chết sống lại” (Cv 4, 2).

Mà nếu không có sự Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, thì hôm nay không thể tồn tại một Hội Thánh “duy nhất, thánh thiện, Công Giáo và tông truyền”. Nếu không có sự Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, thì không thể từ chỗ chỉ có một nhúm nhỏ “mười hai và vài ba người phụ nữ” trở thành 3.000, 5.000, và bây giờ ngấp nghé 2 tỷ người khắp năm châu, tin Chúa.

Tất cả mọi người đều tin, rằng: “Chúa Giê-su Ki-tô, từ trong cõi chết, Ngài đã Phục Sinh”.

Có rất nhiều bằng chứng về sự Phục Sinh của Chúa Giê-su. Và, bằng chứng sống động nhất và đáng tin cậy nhất, chính là đời sống của mỗi Ki-tô hữu. Mỗi người Ki-tô hữu đều được biến đổi. Và, ngay cả khi không có gì khiến họ biến đổi, thì Thánh Kinh và Thánh Thể sẽ biến đổi đời sống của họ. Điều này chứng tỏ rằng: Đức Giê-su Phục Sinh.

Nói cách khác: Hôm nay, dấu chỉ Giê-su Phục Sinh là: Thánh Kinh và Thánh Thể.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2024

Hãy thờ Chúa hết tâm tình…

 “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa. Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta”.

Chúa Nhật Lễ Lá - B
Hãy thờ Chúa hết tâm tình…

 

tbd 230324a


Để cho cuộc sống được tồn tại, con người cần ăn uống, như chúng ta thường nói: “ăn để sống”. Không chỉ ăn để sống, con người còn cần không khí để thở.

Vâng, cuộc sống về phương diện thể xác là vậy. Tuy nhiên ngoài phương diện thể xác, cuộc sống của con người còn liên quan đến tinh thần. Ở phương diện tinh thần, có những điều còn quan trọng hơn cả ăn và uống, bởi không có nó, con người “chẳng buồn ăn và chẳng thèm uống”. Những điều quan trọng đó, chính là: tình yêu và niềm hy vọng.

Đúng vậy, như sách có câu: “Cuộc sống không có tình yêu khác nào khu vườn không có ánh nắng” và Thomas Fuller thì nói: “Nếu không phải nhờ hy vọng, trái tim sẽ tan vỡ”.

Nói tắt một lời, sống mà không có tình yêu và niềm hy vọng thì sống cũng bằng như chết. Cảm nghiệm được điều này, nhà thơ Xuân Diệu đã thổn thức thốt lên: “Làm sao sống được mà không yêu. Không nhớ, không thương một kẻ nào?” (Bài ca tuổi nhỏ).

Thổn thức rồi, ông Xuân Diệu trải lòng mình, rằng: “Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi. Lúc chưa sinh vơ vẩn giữa luân hồi. Tôi sẽ yêu khi đã hết tuổi rồi. Không xương xóc chỉ huyền hồ bóng dáng.” (Đa tình).

Hơn hai ngàn năm xa trước đó. Có một người “đã yêu từ khi chưa (xuống thế)”. Người “đã yêu”, yêu thế gian đến nỗi, “không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8).

Người đó chính là Đức Giê-su Ki-tô. Sự kiện lịch sử này đã được ghi lại trong các sách Tin Mừng: Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an. Và hôm nay, Giáo Hội không chỉ tuyên xưng, rằng: “Tôi tin kính Đức Giê-su Ki-tô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh: chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đanh trên cây Thánh giá, chết và táng xác; xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại…”, mà còn tưởng niệm cuộc thương khó của Ngài, vào Chúa Nhật Lễ Lá và thứ sáu Tuần Thánh, hằng năm.

**
Theo Tin Mừng thánh Mác-cô, cuộc thương khó của Đức Giê-su xảy ra trong dịp “Lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men”. Đó là những ngày lễ lớn của người Do Thái.

Hôm ấy, Đức Giê-su cùng với các môn đệ lên Giê-ru-sa-lem để dự lễ. Và khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, không ai có thể tưởng tượng được, một rừng người cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo vang: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa. Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta”.

Ngoài hè phố thì dân chúng hoan hô và chúc tụng. Trái lại, tại dinh Thượng Hội Đồng “các thượng tế và kinh sư bàn mưu tính kế bắt Đức Giê-su để giết Người.” (Mc 14, 1).

Vâng, thật may mắn cho quý ông thượng tế và kinh sư. Chuyện là thế này: “Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ.”

Sau khi “Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền.” Về chuyện này, thánh sử Mát-thêu cho biết: “Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc” (Mt 26, …15).

Các môn đệ, không ai biết âm mưu của Giu-đa. Nhưng Đức Giê-su biết. Trong bữa tiệc lễ Vượt Qua. Đang khi dùng bữa, Người nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy.”


Nghe thế, các môn đệ “buồn rầu quá sức”. Các ông, lần lượt hỏi Đức Giê-su: “Chẳng lẽ con sao?” Đức Giê-su đáp rằng: “Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung với Thầy.”

“Nén đau thương, vương ngậm ngùi sẽ kể. Niềm đau đớn vô biên như trời bể.” Huy Thông, thi sĩ Huy Thông đã mô tả nỗi u buồn của Hạng Vũ, khi sắp sửa tự kết liễu đời mình, như thế.

Với Đức Giê-su! Vâng, Ngài cũng đã “buồn hiu hắt buồn”. Ngài cũng đã nén-đau-thương trước nỗi buồn bị phản bội và nói: “Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!” (Mc 14, 21).

Bị phản bội, tất nhiên ai cũng cay đắng. Nhưng, Đức Giê-su thì không. Hôm ấy, Ngài đã lập một giao-ước-mới. “Máu giao ước vĩnh cửu”, để nhiều người được cứu độ.

Vâng, chuyện được ghi lại rằng: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: ‘Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy’. Rồi, Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo: Đây là Máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người,” (Mc 14, 22-24).

Với Giao Ước mới, một ai đó có lời chia sẻ, rằng: “Hai ngàn năm đã qua, chúng ta tiếp tục sống lại tất cả tiến trình của mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm mà từ đó Hội Thánh đã được khai sinh. Thật vậy, trong mọi cử hành Thánh Thể, chúng ta đều trở về với Tam Nhật Vượt Qua một cách thiêng liêng. Chúng ta sống lại cảnh Chúa cùng với các môn đệ rời khỏi phòng Tiệc Ly đến tại Vườn Cây Dầu, để rồi chứng kiến những giọt máu hoà lẫn với mồ hôi rơi xuống.” (x.Lc 22, 14).

***
Vâng, hôm ấy, rời-khỏi-phòng-tiệc-ly, “Đức Giê-su và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni”. Trong thinh lặng của nguyện cầu, Ngài “bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến”. (Mc 14, …33).

Rồi, Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là ba người được Đức Giê-su đem đi theo. Ba vị môn đệ nghe rõ lời Thầy Giê-su nói: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức.”

Nói với các môn đệ xong, “Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được.” Đức Giê-su đã cầu xin rằng: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm theo ý con, mà làm điều Cha muốn.”

Lời cầu xin của Đức Giê-su phảng phất nỗi sầu-vạn-cổ. Còn các vị môn đệ thì buồn, các ông “buồn ngủ”. Ba lần… ba lần Đức Giê-su đã nhắc nhở các ông về chuyện này. Nhưng, “các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người.”

Và rồi… “Giờ đã điểm”. Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!” (x.Mc 14, 42).

****
Kẻ-nộp-Thầy-đã-tới. VIA DOLOROSA - Chặng Đường Khổ Đau của Đức Giê-su cũng tới theo. Chuyện kể rằng: “Ngay lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất hiện.”

“Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến.”

Tên phản bội đã cho đồng bọn một ám hiệu: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận”.


Ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, đây không phải lần đầu tiên Đức Giêsu bị họ truy bắt. Đã nhiều lần họ đe dọa, ném đá và tìm cách giết Ngài. Nhưng một phần họ sợ dư luận và một phần là vì Đức Giêsu tìm cách lánh đi.

Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đứng lặng “lòng xao xuyến bởi địch thù gào thét, bởi ác nhân hà hiếp”. (Tv 55).

Kinh Thánh chép rằng: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người”. (Gr 17, 9). Vâng, quả đúng ở trường hợp Giuđa. Đó là nụ hôn nham hiểm của y. Nụ Hôn Của Thần Chết!

Trở lại câu chuyện: “Vừa tới, Giu-đa tiến lại gần Người và nói: ‘Thưa Thầy!’, rồi hôn Người.” Giu-đa vừa hôn xong. Lập tức, “Họ liền tra tay bắt Người.”

Có một hành động chống cự đơn lẻ của một người môn đệ của Đức Giê-su. Người này “tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai.” Nhưng, Đức Giê-su không hài lòng về hành động của người môn đệ này.

Tin Mừng thánh Mát-thêu cho chúng ta biết, rằng Đức Giê-su bảo người ấy: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm, sẽ chết vì gươm. Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần! Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được? Vì theo đó mọi sự phải xảy ra như vậy.” (x.Mt 26, 52-53).

Hôm ấy, chuyện đã xảy-ra-như-vậy. Đức Giê-su bị bắt. Các môn đệ thì “bỏ Người mà chạy trốn hết.”

*****
Ghết-sê-ma-ni trở về trong thinh lặng. Nhưng tại dinh Thượng Hội Đồng thì rất xôn xao. Người ta đã “điệu Đức Giê-su đến vị thượng tế”. Bá quan văn võ tề tựu đông đủ.

Tại đây, Đức Giêsu đã phải hứng chịu suốt đêm màn tố khổ, đầy bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, tất cả những lời tố cáo “lại không ăn khớp với nhau”. Nhiều... nhiều người tố cáo lắm, nhưng “chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau” (x.Mc 14, 59).

Muốn tên Giê-su phải chết, thì phải làm sao, bây giờ? Vâng, một “cái bẫy” được đặt ra. Một vị thượng tế đã hỏi Đức Giê-su, rằng: “Ông có phải là Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” Không một chút ngần ngại, Đức Giê-su đáp lời: “Phải, chính thế.”

Chính thế! Chính tại sông Gio-đan, nơi “Tôi” được-ông-Gio-an-làm-phép-rửa, chẳng phải là khi “vừa lên khỏi nước… Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống… Lại có tiếng từ trời cao phán: Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”, đó sao!

Vâng, hôm ấy, dù đang trong vai trò là một kẻ bị tố khổ, Đức Giê-su vẫn lớn tiếng cảnh cáo ông thượng tế, cũng như toàn thể Thượng Hội Đồng, lời cảnh cáo rằng: “Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.

Rõ… Nghe rất rõ. Thế nhưng, cái “rõ” mà các vị thượng tế cần “rõ”, rằng Đức Giê-su chính là Ngôi Lời. Và, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”, thì các ông lại “không rõ”.

Cái “rõ” mà các ông cho là “rất rõ” chính là Đức Giê-su “nói phạm đến Thiên Chúa”. Hôm ấy: “Tất cả đều kết án Người.”

******
Vâng, chúng ta sẽ trở lại cuộc thương khó của Đức Giê-su. Chúng ta sẽ tiếp tục đi trên CHẶNG ĐƯỜNG KHỔ ĐAU của Ngài. Chúng ta sẽ cùng Ngài đến dinh quan tổng trấn Phi-la-tô. Chúng ta sẽ cùng vác thập giá với Ngài… vào thứ sáu Tuần Thánh.

Còn hôm nay, ngay bây giờ, hãy để tâm hồn mình chìm vào trong thinh lặng, và hãy tự hỏi lòng mình rằng: Tôi có bán Chúa? Tôi có chối Chúa? Tôi có bỏ Chúa? Vâng, phải “tự hỏi” thôi! Bởi vì, có thể chúng ta không trực tiếp nhưng gián tiếp thực hiện.

Tôi đâu có bán Chúa! Tôi chỉ bán lương tâm của mình. Bởi vì “lương tâm không bằng lương tháng”. Tôi đâu có “bỏ” điều răn thứ năm Chúa truyền dạy: “Chớ giết người”! Tôi chỉ “hút điều hòa kinh nguyệt” thôi mà! Tôi đâu có “chối” Chúa! Tôi chỉ ngại làm chứng về Chúa, qua cách sống của mình trước bàn dân thiên hạ, trong xã hội hôm nay v.v… và v.v…

Ron Rolheiser, OMI, trong bài “Viết lại cuộc xử án của chúng ta” đã nhận xét: “Có vẻ như, chẳng có nhiều thay đổi trong thế giới ngày hôm nay. Vẫn còn không ít người chọn lựa cách hành xử như cách hành xử của những người trong cuộc xử án và kết án Đức Giêsu năm xưa. Vẫn còn không ít người, vì mù quáng, vì lợi lộc thế gian, sẵn sàng ‘bán đứng’ đức tin của mình. Vẫn còn không ít người, vì danh vọng, vì quyền lực do thế gian ban cho, sẵn sàng la to, rằng: Hắn nói phạm đến Thiên Chúa!”

Đúng vậy. Ngày nay, cách này cách khác, đã có không ít người trong chúng ta lớn tiếng chỉ trích, chống đối Giáo Hội Của Chúa, rằng thì-là-mà Giáo Hội Của Chúa “Phạm đến quyền tự do của con người”. Giáo Hội Của Chúa phạm đến quyền tự do phá thai, quyền tự do hôn nhân đồng tính v.v…

Này! Những quyền tự do đó chính là một thứ “Văn hóa Cain - Văn hóa sự chết”. Đừng để mình bị mê hoặc, đừng để mình bị cám dỗ bởi những lời lẽ, bởi những chiêu trò PR của giới truyền thông, cho rằng “chẳng chết chóc gì đâu”, mà hò reo cổ vũ!

Thực tế, những quyền tự do đó, chỉ làm băng hoại sự đạo đức, giết chết tình yêu thương, đỗ vỡ hôn nhân gia đình. Nói tắt một lời, chỉ dẫn con người đến “thung lũng âm u của nghi ngờ và chết chóc”.

Vâng, phải tỉnh thức. Đức Giê-su đã truyền dạy như thế. Ngài dạy rằng: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.”

Chỉ… chỉ khi “canh thức và cầu nguyện”, chỉ khi đó, chúng ta mới có thể có được sức mạnh của Thần Khí, một sức mạnh giúp chúng ta: quyết không bán Chúa, quyết không chối Chúa, quyết không bỏ Chúa. Nói theo cách nói của Lm. Hoài Đức: “Quyết từ nay thờ Chúa hết tâm tình.”

Nói ngắn gọn: Hãy thờ Chúa hết tâm tình.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2024

Dám chết như Chúa, Chúa sẽ quý trọng...

 “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12, 24).

Chúa Nhật V – MC – B
Dám chết như Chúa, Chúa sẽ quý trọng...

tbd 160324a

Như chúng ta được biết, sau ba mươi năm sống ẩn dật tại Na-da-rét, Đức Giê-su bắt đầu ra đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Và, kể từ đây, Ngài bắt đầu sống một cuộc sống mới, một cuộc sống dẫn đến “Giờ chết và Sự Phục Sinh” của mình, ngõ hầu đem đến ơn cứu độ cho mọi người.

Ba lần… đã ba lần Đức Giê-su công bố về “Giờ chết và Sự Phục Sinh” của mình cho các môn đệ.

Với lần công bố thứ nhất, ông Phê-rô “kéo riêng Người ra và trách Người: Xin Thiên Chúa thương đứng để Thầy gặp phải chuyện đó. Nhưng Đức Giê-su (đã) quay lại bảo ông Phê-rô: Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

Với lần công bố thứ hai, thì: “Các môn đệ buồn phiền lắm.” (x.Mt 17, …23) Tới lần thứ ba, thánh sử Luca cho biết: Các ông không hiểu gì cả, đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói.” (Lc 18, 34).

Các-ông-không-hiểu ư! Lời ấy còn bí ẩn, nên các-ông-không-rõ ư! Thưa đúng vậy. Nhớ! Hôm ba người môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an cùng Đức Giê-su “tới một ngọn núi cao”, chẳng phải khi xuống núi các ông đã “bàn hỏi nhau xem câu ‘từ cõi chết sống lại’ nghĩa là gì”, đó sao!

Thế nên, Đức Giê-su, khi biết “Giờ chết và sự Phục Sinh” của mình sắp đến, Ngài đã có lời giải thích rất rõ ràng cho các ông, rằng: tại sao Ngài phải chết và cái chết của Ngài sẽ đem lại cho mọi người điều gì. Vâng, lời giải thích của Ngài đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an với tiêu đề: “Đức Giê-su loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người.” (Ga 12, 20-33).

**
Theo Tin Mừng thánh Gio-an, bấy giờ là “sắp đến lễ Vượt Qua của người Do Thái”. Nhiều người từ khắp làng quê lên Giê-ru-sa-lem “để cử hành các nghi thức thanh tẩy dọn mình mừng lễ.”

Hôm ấy, có một số người tìm Đức Giê-su. Một số người khác đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau, rằng: “Có thể ông ấy (Đức Giê-su) sẽ không lên dự lễ…” Còn các thượng tế và người Pha-ri-sêu thì ra lệnh: “Ai biết được ông ấy (Đức Giê-su) ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt” (Ga 11, 55-57).

Trước đó vài tuần, một người trong Thượng Hội Đồng tên là Cai-pha đã bàn mưu giết Đức Giê-su. Biết được âm mưu này, có lẽ qua sự thông báo của ông Ni-cô-đi-mô, cũng là một thành viên Thượng Hội Đồng, Đức Giê-su rời Giê-ru-sa-lem băng qua Sông Gio-đan, đi về “một thành gọi là Ép-ra-im. Người ở lại đó với các môn đệ.” (Ga 12, …54).

Nhưng rồi, sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Đức Giê-su trở lại ngoại thành Giê-ru-sa-lem. Ngài đến Bê-tha-ni-a, nơi anh La-da-rô ở. “Anh này đã được Ngài cho sống lại từ cõi chết”. Hôm đó, “người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giê-su, cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Ngài.”

Thế còn cô Ma-ri-a! Vâng, cô ta “lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau.”

Thấy vậy, một người môn đệ phản đối. Đức Giê-su đáp: “Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có, còn Thầy, anh em không có đâu.”

Vâng, ngày-mai-táng-Thầy chính là ngày Đức Giê-su “lên Giê-ru-sa-lem”.

***
Rồi, Đức Giê-su đã lên Giê-ru-sa-lem. Hôm ấy, “Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp.”

Mấy người Hy Lạp này đến gặp Phi-líp-phê và xin rằng: “Chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su.” Phi-líp-phê đi hỏi An-rê.

Thế rồi, hai ông đến nói điều này với Đức Giê-su. Thế nhưng, hai ông Phi-líp-phê và An-rê không nhận được câu trả lời của Đức Giê-su. Thế có nghĩa là, Đức Giê-su không gặp nhóm người Hy Lạp.

Không gặp, phải chăng vì Đức Giê-su không muốn phí phạm thời gian để làm thỏa mãn sự tò mò của mấy người Hy Lạp? Phải chăng, vì Ngài không muốn tìm kiếm những lời “Hoan hô! Chúc tụng!”, những lời mà trước đó “dân chúng lũ lượt… cầm nhành lá thiên tuế ra đón Ngài và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel!”

Thưa, đúng vậy. Đức Giê-su, của ngày hôm ấy, rất khác so với ngày Ngài đến dự Lễ Lều Tạm ở Giê-ru-sa-lem. Hôm dự Lễ Lều Tạm, Ngài lên Giê-ru-sa-lem “không công khai và hầu như bí mật” (x.Ga 7, 10). Và, Ngài luôn tìm cách “lánh mặt”, khi tính mạng bị lâm nguy.

Thế sao, hôm nay Đức Giê-su lại công khai đi vào Giê-ru-sa-lem nơi người ta đã từng hạ lệnh bắt Ngài? Thưa, là vì “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”.

Đó… đó là lời Đức Giê-su đã trả lời hai ông Phi-líp-phê và An-rê. Vâng, Ngài biết… “biết giờ của Ngài đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha…”

“Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người… sẽ đánh đòn và giết chết Người”… Các-anh-quên-lời-Thầy-đã-truyền-dạy, sao!

Hôm ấy, nói đến cái chết của mình, Đức Giê-su có một sự so sánh rất xác thực với cuộc sống đời thường. Ngài so sánh, rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12, 24).

Một nhà truyền giáo, khi suy tư về lời so sánh này, đã có lời chia sẻ, rằng: “Một hạt lúa mì dường như không có mấy giá trị. Nhưng nếu được gieo xuống đất và ‘chết đi’ thì nó sẽ nảy mầm và dần mọc lên thành cây lúa có nhiều hạt. Tương tự, Chúa Giê-su là một người hoàn hảo. Qua việc trung thành với Đức Chúa Trời cho đến chết, Ngài sẽ trở thành phương tiện để ban sự sống vĩnh cửu cho những người có cùng tinh thần hy sinh như thế. Vì vậy, Chúa Giê-su nói: Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống vĩnh cửu.” (x.Ga 12, 25).

Cuối cùng, Đức Giê-su có lời nhắn nhủ với các môn đệ (và cũng là cho chúng ta hôm nay), lời nhắn nhủ rằng: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phc vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy.”

Chúng ta có hiểu lời nhắn nhủ này không? Vâng, không có lý do gì để nói rằng: tôi không hiểu! Thế nên, đã theo Chúa, thì đừng theo thế gian.

Đừng quên, Đức Giê-su đã có lời dạy rằng: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ.”

****
Tất cả những lời Đức Giê-su đã tuyên phán “không phải là một (mớ) lý thuyết, mà là một thực tại sâu kín, ta gọi là Mầu Nhiệm Vượt Qua”. Lm. Charles E.Miller có lời chia sẻ như thế.

Ngài Lm. còn tiếp lời, rằng: “Trong cái chết và sự sống lại của Chúa Giê-su, chúng ta thấy có sự quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Kế hoạch của Người là cái chết khơi nguồn sự sống. Cái chết của Con Thiên Chúa dẫn đến sự phục sinh của chính Ngài và cũng sẽ dẫn đến sự sống lại của chúng ta.”

Trở lại cái ngày hôm ấy, khi Đức Giê-su nghĩ đến thảm cảnh của sự bắt bớ, của nỗi đau đớn và cái chết “như chiên con bị dẫn đi làm thịt”, và đã “dâng lời khẩn nguyện nài xin” “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến”… thì ngay lập tức, “Có tiếng từ trời vọng xuống: Ta đã tôn vinh Danh Ta. Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”

Vâng, tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã nhìn biến cố này với một sự xác tín rằng: Đức Giê-su – “Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính…” (x.Dt 5, …7).

Và, điều mà Thiên Chúa sẽ-còn-tôn-vinh-nữa, cũng là lời xác tín của tác giả thư Do Thái, đó là: Đức Giê-su “đã trở nên nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.

Thật đúng là vậy. Hôm ấy, Đức Giê-su đã có lời tuyên phán rằng: “Phần tôi, một khi được giương cao lên, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (x.Ga 12, 32).

*****
Qua trình thuật Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay (17/03/2024), chúng ta được nghe rất nhiều điều Đức Giê-su truyền dạy. Chúng ta được biết cách Đức Giê-su đã “dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng quyền năng” ra sao. Chúng ta được biết Ngài sẽ ban cho “những ai phục tùng Ngài” điều gì.

Vâng, chúng ta “đã biết và đã nghe”. Việc làm tiếp theo là chúng ta hãy thực hành. Tuy nhiên, sẽ không có sự thực hành nào dễ dàng, khi chúng ta chưa xác tín rằng: tôi đang phục vụ Chúa và tôi đã theo Chúa.

Có thể nói, hai điều này như hai mặt của một đồng tiền. Mất đi một điều, nó không còn là đồng tiền nữa. Quan trọng lắm, đúng không, thưa quý vị!

Thế nên, khi đã phục-vụ-Chúa, thì hãy-theo-Chúa. Khi đã dám “như hạt lúa gieo xuống đất và chết đi” thì-hãy-chết “vì tình yêu”, như Chúa Giê-su “chỉ vì tình yêu Chúa chịu nhục thân chết cho trần gian”.

Khi đã dám “như hạt lúa gieo xuống đất và chết đi” thì-hãy-chết “cho sự nhẫn nhục, cho lòng nhân hậu, cho sự từ tâm, cho lòng trung tín, cho tính hiền hòa, cho sự tiết độ.”

Chớ vì “những việc do tính xác thịt gây ra”, đại loại như: ‘dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phiếm, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén”, mà “chịu nhục thân chết trong tội lụy”.

Đừng quên, những ai dám chết cho những-việc-làm-do-tính-xác-thịt-gây-ra, thánh Phao-lô cảnh báo, kẻ đó: “sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa”.

Chúng ta vẫn còn trong mùa chay. Và như chúng ta được biết, mùa chay là mùa “sám hối và trở về”. Thế nên, nếu chúng ta vì một phút yếu đuối, và đã “dám chết” cho một trong những-việc-làm-do-tính-xác-thịt-gây-ra (nêu trên), thì hãy, như “người con thứ”, trong “dụ ngôn người cha nhân hậu”, “đứng lên đi về cùng cha”.

Hãy đứng lên “đi về cùng Chúa”. Hãy đứng lên đi về. Vừa đi vừa cất tiếng nguyện rằng: “Con nay trở về, trở về cùng Chúa, Chúa ơi. Con nay trở về, lòng sầu thống hối khôn nguôi. Muốn khóc cho một niềm tin đã trót bao phen ngả nghiêng. Bước chân hoang đàng, nay bến yêu thương tình đáp tình.” (Con nay trở về - tác giả: Hùng Lân).

Hãy trở về và phục vụ Chúa. Hãy phục vụ Chúa và hãy theo Chúa. Hãy ghi khắc trong con tim mình, lời Đức Giê-su tuyên phán: “Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy.”

Nói cách khác: Dám chết như Chúa, Chúa sẽ quý trọng.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...