Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2024

Cần có lòng trắc ẩn… như Thầy Giê-su.

 “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.”

Chúa Nhật XVII – TN – B
Cần có lòng trắc ẩn… như Thầy Giê-su

tbd 260724a


Theo Tin Mừng thánh Gio-an ghi lại, chúng ta được biết, một ngày nọ, Đức Giê-su đã lớn tiếng tuyên bố với mọi người, rất rõ ràng, rằng: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. (Và rằng) Tôi chính là Mục Tử nhân lành.” (x.Ga 10, 10-11).

Đức Giê-su không tuyên bố xuông. Ngài đã hiện thực hóa lời tuyên bố của mình qua những việc làm cụ thể. Những việc làm cụ thể đó chính là những phép lạ hay dấu lạ mà Đức Giê-su đã thực hiện.

Nói về những phép lạ ư! Vâng, Đức Giê-su đã làm rất nhiều phép lạ. Tin Mừng thánh Mát-thêu cho biết, “Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết mọi kẻ đau ốm, bệnh hoạn tật nguyền trong dân.” Ngài thánh sử nói thêm: “Thiên hạ đem đến cho Người… những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt, và Người đã chữa họ.” (x.Mt 4, 23-24).

Còn dấu lạ thì sao! Thưa, cũng rất… rất nhiều dấu lạ được Đức Giê-su thực hiện. Đầu tiên là dấu lạ “nước hóa thành rượu”. Dấu lạ này được thực hiện trong một bữa tiệc cưới tại Ca-na. Dấu lạ thứ hai cũng ở Ca-na: Đức Giê-su chữa con của một sĩ quan cận vệ của nhà vua. Đặc biệt hơn cả, đó là dấu lạ “hóa bánh ra nhiều”. Vâng, dấu lạ này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an. (Ga 6, 1-15).

**
Theo Tin Mừng thánh Gio-an ghi lại: Hôm ấy “Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a.” Chuyến hải trình của Đức Giê-su, ngoài sự tháp tùng của Nhóm Mười Hai, còn có “đông đảo dân chúng đi theo Người.” Dân chúng đi theo Đức Giê-su “…bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm” (Ga 6, 2).

Đúng vậy. Trước đó không lâu, Đức Giê-su đã làm một dấu lạ khiến cho cư dân sống quanh vùng Biển Hồ phải “kinh ngạc sững sờ”. Đó là dấu lạ “chữa một người bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại.” (x.Mc 5, 21-43).

Trở lại với chuyến hải trình, khi thuyền về neo bến cũ, chuyện kể tiếp rằng: “Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ.”

Lên núi và ngồi đó với Nhóm Mười Hai, đó là điều cũng đã được thánh sử Mát-thêu, nói đến. Theo Tin Mừng thánh Mát-thêu ghi lại: “Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.” (x.Mt 5, 1).

Và rồi, thánh sử Mát-thêu cho biết: “Người mở miệng dạy họ.” Đức Giê-su đã giảng dạy điều gì, chúng ta biết rồi. Người giảng dạy tám mối phúc thật. Điều mà hôm nay chúng ta gọi là “Hiến Chương Nước Trời”.

Còn hôm nay, khi Đức Giê-su “ngước mắt lên… nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình”, thì sao? Thưa, thánh sử Gio-an kể rằng: “Người hỏi ông Phi-líp-phê: Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”

Mua đâu ra bánh ư! Từ trên núi cao, có muốn mua thì cũng phải xuống núi, đi vào làng mạc, may ra mới có bánh mà mua chứ! Thầy ơi! mệt lắm. Cho họ tự túc đi! Nếu là chúng ta, chúng ta có “lẩm bẩm” như thế không?

Các môn đệ xưa, có đấy! Theo lời ba thánh sử Matthêu, Máccô và Luca, chúng ta được biết, các môn đệ đã gợi ý với Thầy Giê-su, rằng: cứ “để họ vào các làng mạc… để họ vào thôn xóm và làng mạc… để họ vào các làng mạc… mua lấy thức ăn.”(Mt 14, 13-21).
Còn thánh sử Gio-an kể rằng: ông Phi-lip-phê đáp lời Đức Giê-su: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”.

Như một nỗ lực “vote” cho ý kiến của Phi-líp-phê, “một trong các môn đệ là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (x.Ga 6, 7-8).
Mặc cho những lời trần tình (có vẻ rất hợp lý) của các môn đệ, Đức Giê-su vẫn truyền lệnh, lệnh rằng: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.”

Lệnh truyền của Thầy Giê-su, đã được các môn đệ truyền xuống dân chúng. Rồi sao nữa! Thưa, nghe lệnh truyền “người ta ngồi xuống” thôi! Thật vậy, đoàn dân đã ngồi xuống. Thống kê sơ bộ cho biết “nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn người”.

Năm-ngàn-đàn-ông, “không kể đàn bà và trẻ em”, thánh sử Mát-thêu, một nhân chứng sống hồi ấy, đã bổ túc thêm số liệu, như thế.

Vâng, tất cả số liệu đã được đưa ra. Và, nếu chúng ta sắp xếp lại thành một bài toán, một bài toán cộng: 5b+2c = 5.000ng. Với bài toán này, có lẽ chúng ta sẽ phải khóc thét lên và nói: Thầy Giê-su ơi! Làm sao giải bài toán này đây!

Thế nhưng, Thầy Giê-su đã giải được. Ngài giải bằng “quyền năng và lòng trắc ẩn”. Đó là những điều Đức Giê-su luôn thể hiện trong những ngày còn tại thế.

Về quyền năng của Đức Giê-su, Tin Mừng thánh Luca có ghi lại rằng: “Cả đoàn dân đều tìm cách chạm vào Ngài, vì quyền năng từ Ngài phát ra và chữa lành mọi người.” (Lc 6, 19).

Còn về lòng trắc ẩn ư! Thì đây! Hôm nay, nhìn đông đảo dân chúng đến với mình, động lòng trắc ẩn, vì họ “như đàn chiên không người chăn dắt”, Đức Giê-su đã “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Ngài cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.” (x.Ga 6, 11).

Với Đức Giê-su, bài toán (nêu trên) chỉ là một “phép thử”, phép thử về lòng tin và sự phó thác. Hôm ấy, khi nói với Phi-líp-phê: “ta mua đâu ra bánh cho họ ăn”, Đức Giê-su “nói thế là để thử ông” bởi vì “Người đã biết mình sắp làm gì rồi.”

Thì đấy, Đức Giê-su đã làm rồi! Chỉ là năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã làm cho mọi người được ăn no nê. No đến độ không còn ai muốn ăn nữa.

Hôm ấy: “Khi họ đã no nê rồi. Đức Giê-su bảo các môn đệ: Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” Vâng, sẽ rất là phí, vì hôm ấy, họ thu lại những miếng bánh thừa “được mười hai thúng.”

***
Hôm ấy, chuyện kể tiếp rằng: “Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói: Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian.”

Đúng. Đức Giê-su đã đến thế gian. Và, như đã nói ở trên, Ngài đến là “để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Đó chính là cách thể hiện lòng trắc ẩn, là “Agape”, là tình yêu thương vô điều kiện, của ông Giê-su người Na-da-rét.

Qua dấu lạ “hóa bánh ra nhiều” Đức Giê-su muốn các môn đệ xưa (và cũng là chúng ta hôm nay), hiểu rằng: phải có lòng trắc ẩn “ngay cả đối với những người có thể chẳng liên quan gì đến mình.”

Điều này cũng đã được Ngài nói, trong dụ ngôn “Người Samari tốt lành”. Chúng ta nên đọc lại dụ ngôn này trong Tin Mừng thánh Luca (Lc 10, 29-37).

Lòng trắc ẩn, “theo khuôn mẫu của Đức Kitô không dựa trên cảm tính; đúng hơn, đó là một hành động kiên quyết của ý chí, một quyết tâm luôn đặt lợi ích của người khác lên trên lợi ích của chúng ta.” Lm Gioakim Nguyễn Quốc Nam đã dựa vào một bài viết tiếng Anh, với tựa đề “What is agape love?” và đã chuyển ngữ ra tiếng Việt, như thế.

Giáo Hội Việt Nam đã ghi khắc lòng trắc ẩn “theo khuôn mẫu của Đức Giê-su”, trong những lời giáo huấn của Giáo Hội. Những lời giáo huấn đó đã được ghi thành một bài kinh, bài kinh: Thương người có mười bốn mối. “Thương xác bảy mối: Thứ nhất, cho kẻ đói ăn. Thứ hai, cho kẻ khát uống. Thứ ba, cho kẻ rách rưới ăn mặc. Thứ bốn, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Thứ năm, cho khách đỗ nhà. Thứ sáu, chuộc kẻ làm tôi. Thứ bảy, chôn xác kẻ chết.”

Chúng ta đừng quên, trong ngày quang lâm, Đức Giê-su không chất vấn chúng ta điều gì, ngoài những điều có liên quan đến những lời giáo huấn nêu trên.

Ngày đó, Đức Giê-su sẽ nói: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù; các người đã hỏi han.”

Ngài tiếp lời rằng: “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”

Chúng ta có xem những lời nói của Đức Giê-su (nêu trên) như là hành trang cho cuộc hành trình về Vương Quốc mà Chúa đã dọn sẵn cho mình, từ tạo thiên lập địa? Câu trả lời, tất nhiên, là của mỗi chúng ta.

Thế nhưng, đừng quên, Lm. Thái Nguyên, qua câu chuyện “Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều”, có lời chia sẻ chân tình, rằng: “Cuộc sống không sợ thiếu lương thực, chỉ sợ thiếu những con người không mở lòng chia sẻ. Thế giới không sợ thiếu hoà bình, chỉ sợ thiếu những người xây dựng hoà bình. Nhân loại không sợ thiếu công lý, chỉ sợ con người không thực thi công lý. Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải là những người tiên phong mở lòng chia sẻ, xây dựng hòa bình, thực thi công lý. Chỉ như thế, chúng ta mới xứng đáng là Kitô hữu.”

Vâng, đúng vậy. Và, chúng ta có thể nói tiếp rằng: đã là Ki-tô hữu, “cần có lòng trắc ẩn như Thầy Giê-su”.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2024

Hãy biết thinh lặng đợi chờ

 “Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng”.

Chúa Nhật XVI – TN – B
Hãy biết thinh lặng đợi chờ

tbd 190724a


Một trong những điều không thể thiếu cho cuộc sống của con người, đó là sự nghỉ ngơi. Thế nào là nghỉ ngơi? Thưa, “nghỉ ngơi là một trạng thái giúp cơ thể cân bằng, lấy lại năng lượng để hoạt động. Theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt, nghỉ ngơi là tạm ngừng công việc hoặc một hoạt động nào đó.” (nguồn: internet). Có người còn cho rằng, nghỉ ngơi là ăn một bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng và ngủ một giấc say nồng.

Tuy nhiên, nếu hiểu một cách sâu xa, thì nghỉ ngơi bao hàm nghĩa rộng hơn, đó là: nghỉ ngơi không chỉ là lo cho thể chất mà còn có cả nghỉ ngơi về tinh thần.

Vâng, đó là điều quan trọng. Quan trọng bởi, “khi bạn cảm thấy mất kết nối với thế giới và trở nên không có hứng thú, mông lung thì nghỉ ngơi tinh thần sẽ khiến bạn cân bằng trở lại.” BS Nguyễn Trọng Nghĩa, phó trưởng khoa điều dưỡng, qua bài viết “Các loại nghỉ ngơi”, đã có lời chia sẻ như thế.

Chưa hết… Còn một loại nghỉ ngơi nữa, đó là “nghỉ ngơi tâm linh”. Nghỉ-ngơi-tâm-linh, Bs. Saundra Dalton-Smith gọi “đó là khả năng kết nối vượt ra ngoài thể chất lẫn tinh thần và cảm nhận sâu sắc một cảm giác thuộc về tình yêu, sự chấp nhận và mục đích. Để nhận được điều này, hãy tham gia vào điều gì đó lớn hơn bản thân bạn và hãy kết hợp với cầu nguyện…” (nguồn: internet).

Nghỉ ngơi tâm linh, qua việc kết-hợp-với-cầu-nguyện. Điều này, Lm.Charles E.Miller nói đó là “một điển hình về sự cân bằng cần thiết cho cuộc sống thiêng liêng.”

Đức Giê-su, thấu hiểu điều này. Chính Đức Giê-su, sau những ngày ra đi loan báo Tin Mừng, Ngài vẫn thường nghỉ ngơi đôi chút bằng cách “đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”.

Theo thánh sử Mác-cô kể lại, cũng chính Đức Giê-su, đã truyền nguồn-cảm-hứng-vô-tận này cho các môn đệ của mình, sau khi các ông, từng hai người một, vừa hoàn tất một cuộc hành trình truyền giáo, theo lệnh truyền của Ngài. (x.Mc 6, 30-34).

**
Vâng, thánh sử Mác-cô đã kể lại rằng: một ngày nọ, sau khi chu toàn sứ vụ ra đi khắp thôn làng rao giảng Tin Mừng “Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu”.

Một vị đại diện cho Nhóm Mười Hai, (chúng ta có thể nói như thế), đã “kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy”. (Mc 6, 30).

Khi những lời tường trình của vị đại diện chấm dứt, Đức Giêsu bảo các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.”

Lời bảo ban của Đức Giê-su thật hợp lý. Hợp lý là bởi, theo lời tường thuật của thánh sử Mác-cô, hôm ấy, (có lẽ vì ngưỡng mộ về những gì các ông đã làm), cả một rừng người “kẻ lui người tới quá đông, nên các ông chẳng có thì giờ ăn uống” (x.Mc 6, 31). Do vậy, chuyện kể tiếp rằng: “Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng”.

Như đã nói ở trên, lánh-riêng-ra là điều hợp lý! Tuy nhiên, thật đáng tiếc khi Đức Giê-su lại truyền cho các môn đệ mình lánh mặt! Sao Ngài không cùng với các ông tổ chức một buổi tiệc “mừng công”, và nhân tiện mời luôn những “kẻ lui người tới” tham dự, rồi công bố thành quả mà các ông đã thực hiện, trong những ngày “rong ruổi đường gió bụi” loan báo Tin Mừng?

Vâng, nếu câu hỏi này được Đức Giê-su trả lời, có phần chắc, Ngài sẽ trả lời, rằng: “Đó là tư tưởng của loài người, không phải tư tưởng của Thiên Chúa”.

Truyền dạy các môn đệ vào nơi thanh vắng, là bởi, theo quan niệm Do Thái giáo, nơi thanh vắng là nơi, “gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa” và “Thiên Chúa tỏ ra gần gũi với dân Người”.

Mà, các môn đệ, trong vai trò là một “nhà truyền giáo”, thế nên, lại càng phải vào nơi thanh vắng để “gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa”, thì đúng quá đi chứ, nhỉ!

Vâng, hôm ấy, khi vào nơi thanh vắng, quả thật các ông đã “gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa” và “Thiên Chúa tỏ ra gần gũi với dân Người”.

Thiên Chúa, hôm ấy chính là Thầy Giê-su. Thầy Giê-su, chính là Thiên Chúa. Hôm ấy, qua Đức Giê-su, các môn đệ đã thấy một Thiên Chúa “chạnh lòng thương xót”, thương xót khi thấy đoàn dân đông đúc đi theo.

Đoàn dân, khi thấy “các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành… họ cùng nhau chạy bộ đến nơi, trước cả các ngài”.
Chạy… chạy bộ! Thấy có xót thương không! Có chứ nhỉ! Vâng, rất xót thương. Vì thế, Đức Giê-su đã thốt lên rằng: “họ như bầy chiên không người chăn dắt”.

Và để thể hiện lòng thương xót của mình, Ngài đã tỏ cho họ thấy một Thiên Chúa “gần gũi với dân Người” qua việc “dạy dỗ họ nhiều điều”. Tuy thánh sử Mác-cô không nói rõ Đức Giê-su đã dạy gì, nhưng chúng ta có thể tin, Ngài đã dạy họ phải biết “vào nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”.

***
“Anh em hãy lánh riêng ra...” Hôm nay, Phải chăng, đó cũng là điều Đức Giê-su mời gọi chúng ta? Thưa, đúng vậy.

Đức Giê-su vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta “hãy lánh riêng ra”, lánh riêng ra khỏi những lời mời mọc đầy quyến rũ của satan, của thế gian. Vâng, satan và thế gian vẫn tiếp tục nói: “Chẳng chết chóc gì đâu!”. Chúng nó vẫn ra rả nói, rằng thì-là-mà: Thiên Chúa chết rồi! Phá thai là quyền tự do. Hôn nhân đồng tính chúng ta có quyền. Thời nay là thời tự do. Tự do luyến ái, tự do là quyền, v.v…

Chớ dại! Chớ dại mà để cho tâm hồn mình “cuốn theo những lời cám dỗ ma mị đó”. Chết chắc! Thánh Phao-lô nói: “Những kẻ làm các điều đó, sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.” (Gl 5, …21).

Thế nên, điều chúng ta cần làm, sau khi đã lánh-riêng-ra, đó là thực hiện nốt lời Đức Giê-su truyền dạy: “đến một nơi thanh vắng”.

Đâu là nơi thanh vắng! Vâng, tất nhiên không phải là sa mạc Sahara hay sa mạc Gobi. Chỉ cần một cử động của tâm hồn, một tâm hồn với tất cả tâm tình: “Bỏ Ngài con biết theo ai! Vì Ngài có lời ban sự sống”, trong thinh lặng. Vậy thôi!

Một câu chuyện cũ, chúng ta cùng đọc nhé! Chuyện kể rằng: Có một người nông dân bị mất một chiếc đồng hồ trong kho thóc. Sau một thời gian dài tìm kiếm vô vọng, ông ta phải nhờ sự trợ giúp của những đứa trẻ đang chơi bên ngoài. Ông hứa, nếu ai tìm được chiếc đồng hồ bị mất sẽ được thưởng.

Nghe vậy, đám trẻ con nhanh chân chạy xung quanh kho thóc tìm kiếm. Chúng đi khắp nơi, lục tìm ở mọi chỗ, từ nơi chứa thóc đến tận cả chỗ cho gia súc ăn, nhưng vẫn không thấy. Chỉ đến khi ông đề nghị bọn trẻ dừng việc tìm kiếm thì có bé trai chạy tới và yêu cầu ông cho nó một cơ hội nữa.

Người nông dân nhìn đứa bé và nghĩ: ‘Tại sao lại không chứ? Sau tất cả thì cậu bé này có vẻ khá chân thành’. Ông dẫn cậu bé trở lại trong kho. Một lúc sau, cậu đã chạy ra và trên tay là chiếc đồng hồ của ông. Người nông dân rất hạnh phúc và ngạc nhiên, ông hỏi cậu bé: ‘Làm cách nào mà cháu có được nó, sau khi tất cả các bạn khác đã từ bỏ?’.

Cậu bé đáp: ‘Cháu không làm gì cả, chỉ ngồi im một chỗ để lắng nghe. Trong tĩnh lặng, cháu thấy tiếng kim đồng hồ chạy và nhờ đó cháu tìm ra nó’. (nguồn: internet).

Chỉ một mình “ta với Chúa – Chúa với ta” trong tĩnh lặng… Ta sẽ gặp gỡ Chúa. Tin đi! Samuel, trường hợp Samuel như điển hình. Trong sự tĩnh lặng của đêm khuya, Samuel đã nghe được tiếng Chúa gọi mình: “Samuel! Samuel”. Và, ông ta đã đáp lời: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe”.

Kinh Thánh có lời chép rằng: “Hãy dừng lại trong thinh lặng và chúng con sẽ nhận biết Ta là Thiên Chúa” (x.Tv 45,11). Cảm nghiệm được lời Kinh Thánh này, linh mục Ronald Rolheiser tiếp lời chia sẻ, rằng: “Không điều gì giống với ngôn ngữ của Thiên Chúa bằng sự thinh lặng. Đó là ngôn ngữ chúng ta cần thực hành”.

Theo lời dạy của linh mục Ronald Rolheiser, nên chăng, chúng ta hãy bắt đầu “thực hành” ngay hôm nay! Đúng vậy. Chúng ta hãy “…tìm cho mình những giây phút nghỉ ngơi cho thân xác, một khoảng không gian yên tĩnh cho tâm hồn, là những cơ hội để cảm nhận, để khám phá, để ngộ ra những điều nhiệm lạ trong đời mình. Cũng từ đó mà Lời Chúa vang lên trong tâm khảm, cho ta được gặp Ngài, nhận ra tình thương của Ngài rất đặc biệt cho đời mình. Nhờ vậy ta lấy lại niềm tin, tìm được an vui và hạnh phúc, đồng thời nhận ra vai trò và sứ mạng của mình trong cuộc sống hôm nay.”

Đó, đó là bài “thực hành” mà Lm. Thái Nguyên gửi đến mọi người trong chúng ta, để đem ra “thực hành”.

Rất, rất dễ thực hành. Chỉ cần chúng ta “lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng”, và để cho tâm hồn mình chìm trong thinh lặng… thinh lặng đợi chờ. Bởi vì, Kinh Thánh có lời chép rằng: “Biết thinh lặng đợi chờ, đợi chờ ơn cứu độ của ĐỨC CHÚA, đó là một điều hay” (Ac 3, 26).

Thế nên, không gì tốt hơn là chúng ta “Hãy biết thinh lặng đợi chờ.”

Petrus.tran

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2024

Hãy đi… hãy là chứng nhân của Thầy

 “Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.”

Chúa Nhật XV – TN – B
Hãy đi… hãy là chứng nhân của Thầy

tbd 120724a


Một trong những điều, mỗi khi được đem ra thảo luận, có không ít người tín hữu Công Giáo không quan tâm đến, đó chính là công việc loan báo Tin Mừng.

Một số người không quan tâm đến do bởi những suy nghĩ thiển cận rằng, đó là công việc của các linh mục, các tu sĩ. Một số khác nại lý do rằng: Tôi không biết phải làm gì… phải ăn nói ra sao, khi ra đi loan báo Tin Mừng?

Đã là một Ki-tô hữu, loan báo Tin Mừng là việc không của riêng ai. Đức Giê-su, trước khi về trời, Ngài đã có lời truyền dạy, rằng: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 18, 20).

Còn phải làm gì, nói gì ư? Thưa, điều đó không quá khó. Nhiều linh mục, qua các bài giảng, đều giảng dạy rằng: Hãy sống như là một chứng nhân của Chúa. Nói rõ hơn, đó là hãy sống một đời sống tuân theo điều răn Chúa Giê-su đã dạy: “hãy yêu thương.”

Thật vậy, Chúa Giê-su đã dạy rằng: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 34-35).

Còn nếu… nếu chúng ta muốn biết “rõ ràng” phải làm gì, phải ăn nói ra sao, khi ra đi loan báo Tin Mừng ư! Thưa, điều này Đức Giê-su cũng đã có lời dạy bảo. Lời dạy bảo này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mác-cô. (Mc 6, 7-13).

**
Vâng, dựa theo bối cảnh Tin Mừng thánh Mác-cô ghi chép, chúng ta được biết: Sau cuộc trở về thăm quê nhà Na-da-rét đầy thất vọng, Đức Giêsu tiếp tục “đi các làng chung quanh mà giảng dạy.”

Giảng dạy, đó là công việc Đức Giê-su làm, không mệt mỏi. Đức Giê-su đã làm và Ngài còn muốn các môn đệ của mình, cũng phải làm. Và, đó là lý do, hôm ấy, “Người gọi Nhóm Mười Hai lại, và bắt đầu sai đi từng hai người một.” (x.Mc 6, 7).

Sai-đi-từng-hai-người-một, đó là điều xưa kia Thiên Chúa đã thực hiện với trường hợp Mô-sê và A-ha-ron. Mô-sê và A-ha-ron đã được Thiên Chúa “sai đến với Pha-ra-ô để đưa dân (Người) là con cái Israel ra khỏi Ai Cập.”

Sai-đi-từng-hai-người-một cũng là điều ngày nay Giáo Hội thực hiện qua việc bổ nhiệm linh mục, cho mỗi giáo xứ. Thông thường, mỗi giáo xứ có một linh mục chánh xứ và một linh mục phó xứ.

Trở lại với Mười Hai môn đệ của Đức Giê-su. Hôm ấy, hành trang các môn đệ mang theo, đó là “quyền trừ quỷ”, một thứ quyền đã được Thầy Giê-su ban cho. Kèm theo là một khẩu lệnh được Đức Giê-su công bố cho các ông, đó là: “Không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.” (Mc 6, 8-9).

Đừng… đừng nghĩ rằng, chỉ thị này “gây khó dễ” cho các môn đệ. Ra chỉ thị này, Đức Giê-su như muốn nói với các môn đệ rằng, công cuộc rao giảng Tin Mừng, trước hết và trên hết, đó là: hãy trao phó mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa.

Đúng vậy! Điều này đã được mặc định qua việc Đức Giê-su bảo với các môn đệ, rằng: “Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi. Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.”

Nhóm Mười Hai, cuối cùng, rồi cũng từng hai người một, ra đi. Chuyện kể rằng: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối.” Kết quả, nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó là: “ thành công tốt đẹp”. Thật vậy: “Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.”

***
Như vậy, một người môn đệ khi ra đi loan báo Tin Mừng phải làm gì, phải ăn nói ra sao, chúng ta đều đã biết.

Tuy nhiên, điều chúng ta cần biết trước tiên, đó là, khi đã là một Ki-tô hữu, loan báo Tin Mừng là việc không của riêng ai. “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho khắp loài thụ tạo”. Vâng, Chúa Giê-su đã truyền dạy như thế.

Chúng ta không chịu trách nhiệm gì về sứ vụ loan báo Tin Mừng, khi mình chưa sinh ra. Nhưng, đã là một Ki-tô hữu, thì đây là một trọng trách. Một trọng trách vì, như lời thánh Phao-lô nói, một Ki-tô hữu chính là “sứ giả thay mặt Đức Ki-tô” (2Cor 5, …20).

Là sứ giả của Chúa, thế nên, chúng ta phải ra đi. Ra đi, vì “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.” Hành trang của chúng ta hôm nay, cũng không cần “mang gì đi đường”, cũng không cần “mang lương thực, bao bị, tiền bạc” nhưng phải cần mang “đức tin, đức cậy và đức mến”.

Đức tin, đức cậy và đức mến, còn hơn cả quyền trừ quỷ. Trừ được quỷ mà không có đức mến, điều gì sẽ xảy ra! Thưa, kiêu ngạo. Từ kiêu ngạo sẽ dẫn đến chia rẽ. Từ chia rẽ sẽ dẫn đến ly khai. Ly khai rồi gì nữa! Thưa là ly giáo. (Nhóm trừ quỷ Bảo Lộc, như điển hình).

Đức tin và đức cậy giúp chúng ta tin tưởng và cậy trông vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận như tấm gương mẫu mực mà chúng ta cần noi theo. Với mười ba năm tù, nhiều năm bị biệt giam, thế nhưng, ngài Phan-xi-cô Xa-vi-ê Thuận vẫn một mực tin tưởng và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Còn đức mến thì sao! Thưa, có đức mến, chúng ta có thể trừ khử được rất… rất nhiều loại quỷ. Vâng, đó là quỷ-vênh-vang, quỷ-tự-đắc, quỷ-nóng-giận, quỷ-tranh-chấp, quỷ-chia-rẽ, quỷ-bè-phái, quỷ-ganh-tỵ, v.v…

Do vậy, dù chúng ta không phải là linh mục, cũng chẳng phải là tu sĩ, mà chỉ là một người tín hữu bình thường, với gói hành trang (nêu trên) chúng ta đừng ngần ngại mà hãy đến xin… “xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”.

Xưa, ngôn sứ Amos có lời tâm tình rằng: “Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính ĐỨC CHÚA đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và ĐỨC CHÚA đã truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Israel dân Ta.” Ông Amos, tuân lệnh Đức Chúa truyền, đã đi. (x.Am 7, 15).

Nay, Chúa cũng sẽ “bắt lấy” chúng ta, khi chúng ta đang chạy xe ôm, đang bán vé số, đang thu mua ve chai, đang là giám đốc công ty, đang là bác sĩ, đang là y tá, đang là công nhân một xí nghiệp may nào đó, v.v… Rồi, Chúa cũng sẽ truyền cho chúng ta, rằng: “Anh em hãy là chứng nhân của Thầy tại công ty, tại xí nghiệp, tại nhà thương, tại chợ búa, tại bất cứ nơi đâu có sự hiện diện của anh em.”

Vâng. Chúa đã “bắt”, đang bắt và tiếp tục bắt chúng ta. Chúa đã truyền, đang truyền và tiếp tục truyền cho chúng ta, mọi-ngày-cho-đến-tận-thế, rằng: “Hãy đi… hãy là chứng nhân của Thầy.”

Petrus.tran

Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2024

Không thành kiến – không vấp ngã...

 “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”

Chúa Nhật XIV – TN – B
Không thành kiến – không vấp ngã...

tbd 060724a

Sau ba mươi năm sống tại quê nhà Na-da-rét, Đức Giê-su rời bỏ quê hương ra đi loan báo Tin Mừng. Nơi đầu tiên Ngài đến, đó là miền Ga-li-lê.

Có gì để nói về Ga-li-lê chăng? Thưa, có đấy! Điều để nói chính là Ca-phác-na-um. Ca-phác-na-um là một ngôi làng chài nằm trên bờ bắc của Biển hồ Ga-li-lê. Và, quan trọng hơn, nơi đây chính là trung tâm truyền giáo của Đức Giê-su.

Đức Giê-su đã đến đây. Lời rao giảng đầu tiên của Ngài chính là lời kêu gọi: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”

Đức Giê-su đã ở đây. Và, lời giảng dạy của Ngài đã làm “Thiên hạ sửng sốt.” Thiên hạ sửng sốt vì “Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.”

Ngoài những lời giảng dạy, Đức Giê-su còn làm nhiều phép lạ. Người dân Ca-phác-na-um không thể nào quên, rằng có một ông Giê-su người Na-da-rét, ông ta đã có thể “ra lệnh cho cả thần ô uế và chúng phải tuân lệnh.”

Chuyện là thế này: hôm ấy, đúng ngày sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường, “trong hội đường, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (x.Mc 1, 24).

Tiếng la… tiếng la hét của thần ô uế làm rúng động cả hội đường. Thế nhưng, Đức Giê-su đã không quan ngại trước tiếng la hét của thần ô uế.

Và, đúng là một-Đấng-có-thẩm-quyền, Ngài đã quát mắng nó, rằng: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Ngay lập tức: “thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta.”

Chứng kiến trước một ông Giê-su người Na-da-rét “chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ”, dân thành Ca-phác-na-um đã phải “kinh ngạc”. Và, ngay lập tức “danh tiếng Ngài đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Ga-li-lê.”

Thế mà, trớ trêu thay! một lần nọ, khi Đức Giê-su về thăm quê nhà Na-da-rét, sự hiện diện của Ngài, lại làm “thốn mắt” những người đồng hương. Đôi mắt họ dính đầy bụi bặm của thành kiến. Và, vì thành kiến, họ… “họ vấp ngã vì Người”.

Sự kiện đáng tiếc này, được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mác-cô. (Mc 6, 1-6).

**
Tin Mừng thánh Mác-cô thuật lại rằng: Sau những ngày đi qua đi lại giữa hai bên bờ Biển Hồ rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su “ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo.” (Mc 6, 1).

Vâng, về-nơi-quê-quán, đó là niềm vui của bất cứ ai xa quê lâu ngày. Điều này, cứ hỏi những bạn trẻ rời bỏ quê mình, lên Hà Nội hay vào Saigon, làm công nhân trong những khu công nghiệp, hẳn sẽ rõ.

Thế nên, chúng ta có thể nghĩ rằng, chắc hẳn Đức Giê-su vui lắm. Và, mẹ Ngài là Đức Maria sẽ còn vui nhiều hơn nữa, khi con mình về thăm gia đình.

Thế nhưng, tiếc thay! khi Ngài về đến quê quán thì lại gặp chuyện buồn. Buồn vì những người đồng hương đã nhìn Ngài với một cặp mắt “hình viên đạn”. Và, vì là “viên đạn” nên họ đã “bắn” không thương tiếc vào thân thế của Đức Giê-su.

Câu chuyện buồn này xảy ra vào một ngày sa-bát. Ngày hôm ấy, theo đúng luật Mô-sê, Đức Giê-su đến hội đường.

Tưởng chúng ta cũng nên biết qua về chương trình một buổi thờ phượng của người Do Thái. Vâng, buổi thờ phượng ở hội đường, ngoài việc cầu kinh còn có việc đọc Kinh Thánh.

Kinh Thánh được đọc bằng tiếng Do Thái và sau đó được dịch và giảng nghĩa bằng tiếng Aram. Kế tiếp là một vài lời khuyên dạy dựa theo bài Kinh Thánh được đọc hôm đó. Khách lạ trong hội đường thường được mời để thực hiện công việc danh dự này.

Hôm đó, người vinh dự được đón nhận công việc này, chính là Đức Giêsu. Khi tất cả cử tọa đã an vị. Ngài bắt đầu giảng dạy.

Đức Giê-su đã “giảng dạy” điều gì? Thưa, thánh sử Mác-cô không nhắc đến. Ngài thánh sử chỉ cho biết, rằng: “Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên.”

Có người nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?” Một người khác thắc mắc hỏi: “Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?”

Lại có người mỉa mai rằng: “Ông ta không phải bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”

Với chừng ấy lý do, và họ cho là chính đáng… rất chính đáng đi chứ! Vì ông Giê-su đâu đã theo học với các thầy ráp-bi nổi tiếng, mà chỉ là “con ông Giu-se làm nghề thợ mộc” thì có gì để mà nói, mà nghe. Nói theo cách nói hôm nay, Đức Giê-su đâu có xuất thân từ “Giáo Hoàng Học Viện Pio X - Đà Lạt, thế nên: “Họ vấp ngã vì Người.”

Đức Giê-su, hôm ấy, đã không tranh biện với những người đồng hương của mình. Ngài từ tốn bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”

Vâng, Đức Giê-su thật sự bị “rẻ rúng”. Những người đồng hương đã coi khinh, coi thường thân thế Ngài. Và thật kinh khủng, khi họ, theo lời kể của thánh sử Luca, đã “lôi Người ra khỏi thành… kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”. Thế nhưng, ác ý của họ không thành. Chuyện kể rằng: “Người băng qua giữa họ mà đi.” (x. Lc 4, 29-30).

Có một ai đó đã nói: Con mắt thành kiến là con mắt mù lòa, trái tim chứa đầy kết luận là một trái tim chết.” (nguồn: internet).

Đức Giê-su, hôm “trở về mái nhà xưa”, Ngài đã được những người đồng hương đón tiếp bằng con-mắt-thành-kiến, với một trái-tim-chết, kết quả là, “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó.”

Vâng, chúng ta có thể tưởng tượng, hôm ấy, Đức Giê-su đã phải… phải ngậm ngùi thốt lên rằng: “Về đây nhé! Cắm xong chiếc thuyền hồn. Ôi! thoáng nghe dây lòng tiếc đờn”. (Come Back To Sorrento).

Đúng vậy, Ngài tiếc! Tiếc và “lấy làm lạ vì họ không tin.” (Mc 6, 6).

***
Hôm nay, nghe lại câu chuyện “Đức Giê-su về thăm Na-da-rét”, chúng ta nhận được sự dạy dỗ gì?

Lm.Charles E.Miller, qua tác phẩm Sunday Preaching, có lời “dạy” rằng: “Sự thật là Chúa Giê-su vẫn ở cùng chúng ta. ‘Người’ nói với cộng đoàn khi lời Kinh Thánh được đọc lên trong phụng vụ, và dạy dỗ ta bằng những giáo huấn khác của Giáo Hội”.

Tiếp đến, ngài Lm. “dỗ” rằng: “Liệu ta đôi lúc không muốn nghe vì sợ phải đổi thay cách suy nghĩ, cũng như cách hành xử của mình? Liệu ta có xu hướng ln tránh các giáo huấn khó hiểu (khó nghe), chống chế rằng đây là vấn đề gây tranh cãi hay quá phức tạp? Hay ta có nhận ra mình đang hậu thuẫn các quan điểm thế tục hơn các giáo huấn của Đức Thánh Cha và các Giám Mục?”

Nói một cách “gần gũi” hơn về những lời dạy dỗ của Lm. Charles, rằng: ngày nay, Đức Giê-su “vẫn” về thăm Na-da-rét. Na-da-rét ngày nay, chính là ngôi nhà thờ. Và, như Lm. Charles đã nói ở trên, Chúa Giê-su, qua các linh mục, vẫn đứng trên tòa giảng, giảng dạy cho chúng ta.

Như Đức Giê-su ngày xưa, các vị linh mục (hay giám mục) ngày nay, thân thế của các ngài cũng rất dễ bị “rẻ rúng”. Có vị, đã một thời là “bác phu cyclo”, hoặc là “chú bán cà-rem” hay xuất thân là con cái trong những gia đình nghèo, v.v…

Đây là điều có thật, sau biến cố 30.04.1975, có không ít các Lm, khi đó chỉ mới là Thầy, đã phải đạp cyclo, hoặc bán cà-rem, để mưu sinh. Chúng ta có cái nhìn về những vị linh mục (hay giám mục) này, như thế nào?

Chớ… chớ có thành kiến, mà cho rằng, mấy ông ấy đi tu chỉ là để “xóa đói giảm nghèo”! Mà, cần biết rằng, để trở thành một linh mục, đó là một quá trình không dễ dàng chút nào. Khoảng năm bảy năm học hành (triết học, thần học). Trước 1975, còn phải học trong tiểu chủng viện bảy năm trung học, đấy! Rồi còn một hoặc hai năm giúp xứ nữa nha! Đó là chưa nói đến, lãnh chức “thầy sáu” rồi, cũng không chắc là sẽ trở thành linh mục.

Nói đến điều này để làm gì? Thưa, để chúng ta, (nói theo cách nói của ngôn sứ Ê-dê-ki-en), rằng, đừng có “mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá” khư khư giữ chặt lòng thành kiến trong tâm hồn mình.

Phải vất bỏ nó. Phải phá vỡ lòng thành kiến trong tâm hồn ta. Bằng cách nào! Thưa, thánh Phao-lô có lời chỉ bảo: “Nhờ đức tin…” – “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô… Không còn chuyên phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (x.2Cor 3, 26…28).

Đúng vậy, tất cả chúng ta chỉ là một trong Đức Ki-tô. Bởi vì, chúng ta “chỉ có một Chúa, một Đức Tin, một phép rửa” Do vậy, chúng ta phải cương quyết không để con quái vật thành kiến chi phối đời sống đức tin của chúng ta.

Không để con quái vật thành kiến chi phối, mảnh đất đức tin của chúng ta mới có thể nảy nở “hoa trái của Thần Khí”, đó là những hoa trái: “bác ái, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, hiền hòa, tiết độ”.

Một khi hoa trái của Thần Khí nảy nở trong tâm hồn chúng ta, hãy tin, con quái vật thành kiến sẽ không thể làm cho chúng ta “vấp ngã” - vấp ngã trước những cám dỗ của một “nền văn hóa sự chết”, một nền văn hóa cổ võ cho quyền thụ thai theo ý muốn phải được coi trọng hơn quyền được sống, cũng như quyền tự do hôn nhân đồng tính, v.v…

Nói tắt một lời: “không thành kiến – không vấp ngã”.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...