Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2024

Đừng ghen tị nhau…

 “Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” (x.Mc 9, 40).

Chúa Nhật XXVI – TN – B
Đừng ghen tị nhau…

tbd 28092024a


Ghen tị là gì? Thưa, theo Wikipedia định nghĩa: “Ghen tị (ganh tị, đố kỵ) là một cảm xúc xảy ra khi một người thiếu đặc điểm tốt đẹp, thành tích, vật sở hữu của người khác và mong muốn điều đó, hoặc mong muốn người khác không có được điều đó.”

Lm. Giuse Đỗ văn Thụy, trong bài viết “Lòng Ghen Tị trong Đời Sống Gia Đình và Xã Hội”, có lời trình bày chi tiết hơn, lời trình bày rằng: “Ghen tị là một cảm xúc phổ biến như tình yêu hay tức giận, và tất nhiên ghen tị cũng là một cảm xúc mạnh mẽ như bất cứ đam mê nào khác trong lòng người.

Sự ghen tị làm chúng ta buồn phiền, bất chấp ý hướng hay những nỗ lực tốt lành mà chúng ta muốn thực hiện để khắc phục sự ghen tị. Trong khi một số người chỉ cảm nhận sự ghen tị như một cảm xúc nhất thời và chóng qua, thì có những kẻ lại bị ‘chế ngự bởi sự ghen tị’, và hậu quả là họ phải đau đớn trầm trọng về mặt tâm thần khi sự ghen tị thống trị cuộc sống và tâm thức của họ.

Thần học và tâm lý học Kitô giáo đều cảnh giác chúng ta đừng coi thường sức hủy hoại của lòng ghen tị. Truyền thống Kitô giáo xem lòng ghen tị như một điều xấu cố hữu, nên đã xếp lòng ghen tị vào danh sách bảy mối tội đầu”. (nguồn: website hdgmvietnam).
Đúng vậy. Với những ai bị-chế-ngự-bởi-sự-ganh-tị, nhẹ thì cô lập cuộc sống của mình, xa lánh mọi người, luẩn quẩn với uất ức. Nặng thì hãm hại đối phương có khi dẫn tới cái chết. Suốt chiều dài lịch sử con người, có không ít người đã gây ra án mạng chỉ vì bị chế ngự bởi sự ganh tị.

Xưa thật là xưa, có câu chuyện Ca-in và A-ben. Chuyện kể rằng: Ca-in tức giận khi Đức Chúa Trời chấp nhận lễ vật của A-ben, nhưng lại không đoái hoài lễ vật của ông. Ca-in có thể khắc phục hoàn cảnh này, thế nhưng, chỉ vì sự ghen tị trong lòng ông quá lớn; lớn đến nỗi ông không thể kiềm chế, thế rồi ông lừa A-ben ra đồng vắng và giết em mình.

Câu chuyện trên đây, được ghi trong Kinh Thánh, sách Sáng thế ký (4, 4-8), gọi nôm na là chuyện “nhà đạo”. Còn chuyện đời! Thưa, đầy dãy.

Chuyện đời, cũng xưa thật là xưa, tiêu biểu là chuyện Chu Du và Khổng Minh ở nước Trung Hoa thời Tam Quốc. Chu Du là tướng của Đông Ngô, vì ghen tị Khổng Minh Gia Cát Lượng, quân sư của nhà Thục, tài trí hơn mình. Bao nhiêu mưu kế của mình đều bị Khổng Minh “bắt thóp”. Chu Du “đau đớn trầm trọng về mặt tinh thần” tìm mọi cách để giết Khổng Minh. Tiếc thay! mưu kế của ông không qua mặt được Khổng Minh. Cuối cùng uất hận, Chu Du thổ huyết mà chết.

William Shakespeare, một nhà viết kịch và cũng là nhà thơ, qua vở bi kịch Othello, có nói rằng: sự ganh tị giống như “con quái vật mắt xanh.” Vâng, đúng là quái vật. Cái “quái” của con quái vật này ở chỗ, nó luôn chọn đúng thời điểm để khơi dậy sự ganh tị, nơi con người.

Nhóm Mười Hai môn đệ của Đức Giê-su cũng hơn một lần là nạn nhân của quái-vật-mắt-xanh. Chuyện là thế này, một ngày nọ, các môn đệ bắt gặp “có người lấy danh Đức Giê-su trừ quỷ”. Các ông ấm ức. Ấm ức vì họ trừ được quỷ, còn các ông tuy đã được Thầy Giê-su ban cho quyền năng trừ quỷ, thế mà một ngày nọ, có một “…Cháu bị quỷ câm ám. Bất cứ ở đâu, hễ quỷ nhập vào là vật cháu xuống. Cháu sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra”, người thân của cháu bé đã “nói với các môn đệ (của Đức Giê-su), để các ông trừ quỷ, nhưng các ông không làm nổi” (x.Mc 9, 17-18).

Chuyện là vậy đó. Cho nên, lòng ghen tị của các ông bùng lên. Các ông đã nhanh chóng tố giác chuyện này với Đức Giê-su. Nghe qua, Ngài không có sự phản đối. Trái lại, Ngài đã dạy các ông một bài giáo huấn về sự ganh tị. Bài giáo huấn này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Mác-cô.

**
Theo Tin Mừng thánh Mác-cô ghi lại: một ngày nọ, ông Gio-an, là một người trong số Nhóm Mười Hai, đến với Đức Giê-su và nói: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.”

Vâng, nghe qua, không khó để chúng ta đoán rằng: thấy có người không thuộc về nhóm mình, không do mình kiểm soát, nay lại “lấy danh Thầy trừ quỷ”, các ông đã ganh tị.

Thế nhưng, với Đức Giê-su, một Giê-su “hiền lành và khiêm nhường” Ngài không tán đồng cung cách phản ứng của các môn đệ. Thế nên, sau khi nghe lời tường trình, rất hòa nhã, Đức Giê-su bảo: “Đừng ngăn cản người ta”.

Không cần biết những người ấy thuộc “giáo phái” nào, và cũng không quan tâm rằng, những người ấy “có theo chúng ta” hay không, Đức Giê-su giải thích cho các môn đệ, rằng: “Không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Cuối cùng, Ngài tuyên bố: “Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” (x.Mc 9, 40).

***
Đức Giê-su đã bảo: “Đừng ngăn cản – ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”

Có thể nói, lời dạy bảo này là một lời dạy bảo tế nhị. Rất, rất tế nhị vì Ngài đã không nói với các ông rằng: “Các anh ganh tị với nhóm người đó sao! Các anh dù đã được ban quyền năng trừ quỷ, thế mà lại “không làm nổi”, nay lại ganh tị khi họ chỉ “lấy danh Thầy” mà lại trừ được quỷ, sao!

Đức Giê-su không trách móc các môn đệ. Trái lại, Ngài còn dạy dỗ các ông cách thức chế ngự sự ganh tị. Đó là chế ngự bằng lòng bác ái. Lòng bác ái quan trọng lắm.

Thánh Phao-lô, sau khi trở thành môn đệ của Đức Giê-su, đã cảm nghiệm được chân lý này, nên đã có lời dạy rằng: “Trong mọi việc, tôi khuyên anh em hãy đặt tình bác ái lên trên hết” (2Cr 2,8).

Nếu các vị môn đệ xưa, đặt tình bác ái lên trên hết, các ngài sẽ không bị con quái vật ganh tị chế ngự. Và đó chính là khởi đầu cho việc các ngài cư xử với nhóm người đã lấy danh Thầy mình trừ quỷ như là “huynh đệ chi binh”. Nói theo cách nói của Đức Giê-su, họ cũng chính là những người “anh em thuộc về Đấng Ki-tô”.

Đúng. Những người lấy danh Đức Giê-su, cũng chính là những người “thuộc về Đấng Ki-tô”. Họ đâu có chống Đức Giê-su. Họ lấy danh Ngài để trừ quỷ cơ mà! Dài dòng như thế để chúng ta có thể hiểu rằng, tại sao Đức Giê-su lại đặt tầm quan trọng lên việc “Bác ái đối với môn đệ”.

Vâng, rất trân trọng. Hôm ấy, Đức Giê-su tiếp lời rằng: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (x.Mc 9, 41).

****
Đức Giê-su đã có lời hứa: người-đó-sẽ-không-mất-phần-thưởng. Bên cạnh đó, Ngài còn công bố một số điều kiện, điều kiện rằng: “Đừng làm cớ cho người khác và cho (chính) mình sa ngã”.

Hôm ấy, Ngài đã lớn tiếng nói rõ ràng, rằng: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn này đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.”

Chưa hết, Ngài còn nói rằng: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi, thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi, thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt ma bị ném vào hỏa ngục.” (x.Mc 9, 21-49).

Nghe rất khủng khiếp, phải không thưa quý vị? Đúng, rất khủng khiếp nếu chúng ta hiểu theo nghĩa của mặt chữ. Và nếu hiểu như thế, lịch sử Giáo Hội với hơn hai ngàn năm, chắc hẳn sẽ có rất nhiều người, (có thể có cả chúng ta) cụt tay, cụt chân hoặc là “hiệp sĩ độc nhãn”.

Tuy nhiên, theo các nhà chú giải Kinh Thánh, những lời Đức Giê-su đã công bố, chỉ là cách nói, nói theo ngôn ngữ “Semit”, lối nói nhấn mạnh.

Tưởng chúng ta cũng nên biết: “Thuật ngữ ngữ tộc Semit được sử dụng đầu tiên bởi các học giả của Trường Lịch sử Göttingen vào thập niên 1780, xuất phát từ cái tên Shem, một trong ba con trai của Noah, trong Sách Sáng Thế” (nguồn: Wikipedia).

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, khi luận bàn về những điều Đức Giê-su nói (nêu trên), ngài đã có lời chia sẻ rằng: “Những lời Đức Giê-su (nói), không mô tả cho chúng ta những hành vi phải thực hiện, nhưng buộc phải tiến tới, nếu cần thiết, thật xa như là những lời của Người gợi ra, nghĩa là đoạn tuyệt với sự dữ dưới mọi hình thức, mà vẫn không khuôn theo một cách vật chất.”

Đúng vậy, buộc-phải-tiến-tới… đoạn-tuyệt-với-sự-dữ-dưới-mọi-hình-thức. Thế nên, nếu tay “trái” anh lỡ sa ngã, phạm tội, hãy dùng tay “phải” của anh đấm ngực ăn năn, hơn là thụ động chặt-nó-đi.

Nếu chân “trái” anh lỡ bước tới những nơi có nguy cơ làm cho anh sa ngã, phạm tội, hãy dùng chân “phải” của anh như bộ phận “cài số de” để lui ra những nơi chốn đó, hơn là chặt-nó-đi.

Cũng vậy với đôi mắt của mình. Nếu đôi mắt của mình lỡ sa vào những trang web đen, thay vì lấy bàn tay móc đôi mắt, thì hãy lấy chính bàn tay đó “delete” ngay những trang web đen đó.

Có thể nói, những lời dạy (nêu trên) của Đức Giê-su rất là sâu sắc. Sâu sắc ở chỗ, chúng ta vẫn có thể thực thi lời dạy bảo của Ngài “đúng theo mặt chữ”.

Đúng-theo-mặt-chữ, chúng ta đừng ngại… Đừng ngại “cắt đi” những tật xấu, đại loại như: nóng giận, tranh chấp, bè phái, v.v… là những tật xấu có hại cho cộng đoàn. Đừng ngại gì mà không “chặt đi” những thói xấu, đại loại như: đố kỵ, ganh tị v.v… là những thói xấu dễ làm tổn thương kẻ khác, và kết quả là chúng ta sẽ mất-phần-thưởng mà Chúa hứa ban, đó là được vào Nước Thiên Chúa”.

*****
Như vậy, đã là một Ki-tô hữu, lòng ganh tị không có chỗ đứng trong con người chúng ta. Vâng, không thể có chỗ đứng. “Vì ở đâu có sự ghen tị và tham vọng ích kỷ, ở đó sẽ có sự hỗn loạn và mọi hành vi xấu xa." Đó là lời khuyến cáo, một lời khuyến cáo cần ghi nhớ, của thánh Gia-cô-bê.

“Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc”. Đó là lời khuyên của thánh Phao-lô, một lời khuyên giúp chúng ta chiến thắng cảm giác ghen tị.


Vâng theo lời khuyến cáo và ghi khắc lời khuyên của hai vị tông đồ (nêu trên), nó sẽ tạo cho chúng ta nguồn cảm hứng, một nguồn cảm hứng để chúng ta “chấp nhận, hài lòng, tin tưởng vào kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta.” Chính nguồn cảm hứng này, giúp chúng ta “tập trung vào lòng biết ơn hơn là so sánh.”

Một nhà truyền giáo đã có sự cảm nghiệm này. Nhà truyền giáo này, tiếp lời chia sẻ rằng: “Là Kitô hữu, chúng ta được kêu gọi nâng đỡ lẫn nhau và ăn mừng những thành công của nhau, thay vì để cho sự ghen tị mưng mủ trong lòng.”

Nói theo cách nói của William Shakespeare, đừng để “quái vật mắt xanh” tạm trú trong tâm hồn chúng ta. Nói tắt một lời: “Đừng ghen tị nhau”.

Petrus.tran

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

Hãy phục vụ mọi người.

 “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. (Mc 9, 37).

Chúa Nhật XXV – TN – B
Hãy phục vụ mọi người

tbd 210924a

 

Sống trên đời này, cứ sự thường, không ai lại không muốn mình có chức vụ cao, có quyền hành lớn. Có chức, có quyền, đó là xu hướng thời đại. Và, chúng ta có thể nói, nó như một căn bệnh trầm kha, ăn sâu vào tận huyết quản của bất cứ ai.

Vì, ăn sâu vào tận huyết quản, thế nên, không ít người, tìm đủ mọi cách, dùng mọi thủ đoạn, đại loại như: mua quan bán chức, hoặc gian lận bầu cử v.v… để có được chức vị cao, quyền hành lớn. “Một người làm quan, cả họ được nhờ”, kia mà!

Xưa, Nhóm Mười Hai, là các người môn đệ của Đức Giê-su, cũng không thoát khỏi căn bệnh thời đại này. Không ít lần các ông đã “ngấm ngầm” cãi nhau xem ai là người có quyền cao chức trọng nhất, trong nhóm. Đức Giê-su biết chuyện này. Đó là điều Ngài không hoan nghênh. Đức Giê-su đã không hoan nghênh và Ngài đã dạy cho các ông một bài học, một bài học dành cho những ai “muốn làm người lớn hơn cả”.

Bài học này đã được ghi lại chi tiết trong Tin Mừng thánh Mác-cô. (Mc 9, 30-37).

**
Theo trình thuật Tin Mừng thánh Mác-cô, chúng ta được biết: Sau sự kiện Đức Giêsu biến đổi hình dạng trên một ngọn núi với sự chứng kiến của ba người môn đệ tên là Phêrô, Giacôbê và Gioan, và sau khi chữa lành một người bị quỷ ám mắc bệnh động kinh, “Đức Giê-su và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê.” (x. Mc 9, 30).

Cuộc hành trình này, “Đức Giê-su không muốn cho ai biết.” Không muốn cho ai biết, vì Ngài muốn giữa Thầy và trò có một sự yên tĩnh nhất định. Một sự yên tĩnh ngõ hầu Ngài có thể truyền đạt đến các ông những điều sẽ phải xảy ra cho “người tôi tớ khiêm cung của Thiên Chúa”, là chính Ngài. 

Hôm ấy, trên con đường đi về Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đã truyền đạt đến các môn đệ những chân lý quan trọng, đó là… là sự chết và sự phục sinh, là khổ giá và sự sống lại, là cái cách mà Ngài sẽ phải trải qua.

Vâng, cái cách mà Ngài sẽ phải trải qua, đó là: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.” (Mc 9, 31).

Lời truyền đạt của Đức Giê-su rõ ràng như thế, thế mà “các ông không hiểu lời đó…” Vâng, các ông đã không hiểu… các ông lại còn “sợ không dám hỏi lại Người.”

Tại sao không hiểu! Thưa, không thấy thánh sử Mác-cô nói đến. Tuy nhiên, chúng ta có thể nghĩ rằng: Đúng là các ông không hiểu. Các ông “không thể hiểu” trước một Thầy Giê-su đầy quyền uy, vừa mới “biến đổi hình dạng” trên núi cao, một Thầy Giêsu đầy quyền năng, vừa mới “quát mắng tên quỷ…” khiến cho quỷ thét lên trước quyền phép của Ngài, thế mà sẽ phải “đi chết”… như vậy nghĩa là sao!

Tại sao sợ không dám hỏi lại Người! Thưa, chúng ta có thể nghĩ rằng: các ông không-dám-hỏi là vì sợ “ông Thầy” mắng cho vài câu, như đã mắng anh cả Phê-rô, hôm trước.

Hôm trước, hôm Thầy và trò ở Xê-da-rê Phi-lip-phê, Đức Giê-su cũng đã loan báo cho các ông biết về sứ vụ của Ngài, rằng Ngài “phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”.

Nghe thế, ông Phê-rô đã “trách Người”. Thế là, ngay lập tức, niên trưởng Phê-rô đã bị ông Thầy khiển trách: “Sa-tan, lui lại đàng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

Không chỉ ông Phê-rô có tư tưởng của loài người, mà những đồng môn của ông cũng có những tư tưởng rất ư là thế tục.

Thật vậy, thánh sử Mác-cô đã ghi lại tư tưởng hướng về thế tục của các môn đệ được bộc lộ qua một cuộc “cãi nhau” rất kịch liệt. Chuyện kể rằng: Khi “Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. (Rồi) khi về đến nhà, Đức Giê-su hỏi các ông: Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” Mười Hai người môn đệ, tất cả đều “làm thinh”.

Tại sao lại làm thinh? Thưa, vì các ông đã nhìn về Thầy mình theo nhãn giới thế gian. Vì các ông cho rằng, Giê-su người Na-da-rét “là con vua David”, thế thì cớ gì Ngài không thiết lập một vương quốc ở trần thế! Cớ gì Ngài không thiết lập một vương quốc thịnh vượng, giàu có, hùng mạnh như thời vua David, xưa kia! Cớ gì Thầy Giê-su không lập một nội các mới, một nội các mà các ông sẽ là những người được tuyển dụng, ngay khi Thầy mình “bước vào Giê-ru-sa-lem”!

Chúng ta có thể nói ngắn gọn rằng, “các ông làm thinh”, vì các ông đã ngại ngùng về những ý nghĩ thiên về thế tục của mình. Vâng, rất thế tục khi… “khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả.” (Mc 9, 34).

Xã hội loài người, từ khi nguyên tổ Adam và Eva phạm tội, con người (không loại trừ chúng ta) đã luôn luôn phân hóa bởi sự cạnh tranh, ai lớn hơn ai, ai sẽ làm đầu. Thế đấy!

***
Một ngày nọ, Đức Giê-su có lời mời gọi rằng: “Hãy đến cùng tôi… Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (x.Mt 11, 28-29). Các môn đệ, chúng ta có thể nghĩ rằng, cũng đã được Thầy mình mời gọi hãy học với Ngài.

Thế mà hôm nay, có vẻ như các ông phớt lờ bài học mà Thầy Giê-su đã dạy mình. Vâng, các ông đã quên bài học Thầy Giê-su dạy. Các ông đã bộc lộ tính hung hăng, sự ích kỷ. Các ông cãi vã lẫn nhau, chỉ vì ai cũng muốn chiếc ghế cao trọng nhất. Cãi nhau thì còn gì để mà nhớ đến lời của Thầy Giê-su đã mời gọi “Hãy học với tôi…”! Thầy Giê-su, có phần chắc, không khỏi cất lên tiếng thở dài!

Phải dạy lại thôi! Hôm ấy, “Đức Giê-su ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại…” Đối với văn hóa Do Thái, khi thầy rabbi muốn truyền dạy một điều gì đó quan trọng, ông ta ngồi xuống và truyền dạy những điều ông ấy muốn truyền dạy.

Vâng, Đức Giê-su đã-ngồi-xuống. Ngài có lời truyền dạy các môn đệ rằng: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. (Mc 9, 37).

Đức Giê-su “không cấm” các môn đệ muốn làm người đứng đầu. Ai cũng có thể trở thành người đứng đầu. Nhưng, vấn đề là muốn trở thành người đứng đầu, thì việc đầu tiên phải là “người phục vụ mọi người.”

Qua lời truyền dạy này, có thể nói, Đức Giê-su đã làm một cuộc cách mạng, cách mạng về vai trò của một người lãnh đạo. Người-lãnh-đạo, qua lời truyền dạy của Ngài, phải là người dùng đôi tay để phục vụ, có nghĩa không phải là người đứng đó “chỉ tay năm ngón”. Người-lãnh-đạo, qua lời truyền dạy của Ngài, phải là người dùng con tim để hành động, có nghĩa là phải có tình yêu thương.

Lời truyền dạy của Đức Giê-su, có thể nói, rất khó để mà thực hiện, trong đạo lẫn ngoài đời. Thế nhưng, là một Ki-tô hữu, là môn đệ của Đức Giê-su, khó cũng phải thực hiện. Đừng quên lời Ngài đã truyền dạy: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ”.

Tiêu chuẩn cho sự hiện diện trong Vương Quốc của Thiên Chúa, không phải là kiến thức học vấn, không phải là chức vụ cao trọng. Nhưng là phục vụ, phục vụ mọi người.

Khi nói đến phục vụ mọi người, một nhà truyền giáo, có nickname là Hoang David, qua bài viết “CON ĐƯỜNG TRỞ THÀNH NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU” có lời chia sẻ, rằng: “Đây không hẳn là một quan điểm lý tưởng về cuộc sống, mà là một cách sống đúng. Lịch sử luôn ghi nhớ những con người đã hy sinh mình để phục vụ xã hội, phục vụ người khác. Sự hy sinh quên mình là một tính cách hiếm có mà nơi nào nó được thể hiện, người ta luôn nhớ đến nó. Nếu như tất cả đều sống theo nguyên tắc: tôi có thể làm gì cho người khác, chứ không phải tôi có thể nhận được gì từ người khác, thì xã hội chúng ta sẽ không còn nan đề, không có đói nghèo, chiến tranh.”

****
Hôm ấy, sau khi dạy các môn đệ (và cũng là dạy cho chúng ta hôm nay) cách thức “trở thành người đứng đầu”, Đức Giê-su “đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm nó và nói: Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy, và ai tiếp đón Thầy, thì không phải tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.” 

Có bao giờ chúng ta tự hỏi, tại sao lại là “một em nhỏ!” Thưa, đó là một ngụ ý. Hoang David đã “mổ xẻ” ngụ ý này như sau: “Trong ngữ cảnh này, rõ ràng đứa trẻ là người không thể đem đến lợi lộc gì cả, ngược lại phải phục vụ hầu hạ nó, phải chu cấp chăm sóc cho nó, phải làm mọi thứ cho nó. Đứa trẻ không biết nói ‘cám ơn’, luôn đòi hỏi, luôn ca thán, luôn bày bừa ra…

Đứa trẻ tượng trưng cho tất cả những ai cần sự giúp đỡ và cần chu cấp vật chất, đó là những người mà theo Chúa Giê-su, chúng ta cần phải thông công và chăm sóc. Chúa Giê-su dường như muốn nói: Nếu ai có thể tiếp nhận một người tầm thường, nghèo khổ, không có địa vị gì trong xã hội, cần sự giúp đỡ chu cấp, thì người đó là khách quý của Ta, hơn thế, cũng là khách quý của Thiên Chúa”.

Lm. Charles thêm lời chia sẻ rằng: “Trẻ nhỏ là điển hình sống động về tính đơn sơ và khiêm nhường mà chúng ta được kêu gọi bắt chước và thực hành.”

Đúng vậy. Và, như đã nói ở trên, chính Đức Giê-su cũng đã mời gọi chúng ta hãy học với Ngài. Học sự hiền lành và khiêm nhường của Ngài. Tông đồ Gia-cô-bê đã “bắt chước và thực hành” lời Thầy Giê-su mời gọi. Ngài tông đồ đã gửi một lời Kinh Thánh như để khuyến khích chúng ta hãy-bắt-chước-và-thực-hành, lời Kinh Thánh rằng: “Thiên Chúa ban ơn cho kẻ khiêm nhường.” (Gc 4, …6).

Thế nên, nếu chúng ta “phải làm người rốt hết”, để trở thành “người đứng đầu” thì cũng đừng xem đó như là một nỗi nhục nhã.

Lm. Charles cảm nghiệm được nỗi khổ này và ngài có lời khuyên rằng: “Chúng ta phải nhận ra được các chuẩn mực giá trị của Thiên Chúa, bất luận ở hoàn cảnh nào trong cái thế giới ‘bon chen gay gắt’ này, có thể nói như vậy”.

Vâng. Có-thể-nói-như-vậy. Có thể nói rằng: Các chuẩn mực giá trị của Thiên Chúa chính là dám làm người rốt hết. Thế nên, ngay hôm nay, bây giờ, chúng ta hãy thực hành lời Đức Giê-su truyền dạy: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.

Nói ngắn gọn, đã là một Ki-tô hữu: Hãy phục vụ mọi người.

Petrus.tran

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2024

Giê-su là thập giá và tình yêu..

 Chúa Nhật XXIV – TN – B

Giê-su là thập giá và tình yêu
 

tbd 13092024a


Theo ước tính của một cuộc khảo sát vào năm 2011 do tổ chức điều tra dân số nhân khẩu học Pew Research Center thực hiện, thì tổng số người tin Chúa trên khắp thế giới có khoảng 2,2 tỉ người. (nguồn: internet).

Vâng, khoảng 2,2 tỉ người, với những diễn giải đa dạng về Giáo lý mà đôi khi xung đột với nhau, và đó là lý do cộng đồng những người tin Chúa chia thành ba nhánh chính: Giáo hội Công giáo Rôma, Chính Thống giáo, và Kháng Cách (còn gọi là Tin Lành).

Tuy nhiên, dù mang nhiều tên gọi khác nhau, nhưng tựu trung tất cả những Giáo hội nêu trên, đều chung một lời tuyên xưng, lời tuyên xưng rằng: “Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-tô, là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi. Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh, chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây Thánh giá, chết và táng xác. Xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng.”

Tin vào Đức Giê-su và gọi Ngài là “Giê-su Ki-tô” đó là niềm tin “tông truyền”. Có nghĩa là do các tông đồ truyền dạy. Các ngài, đại diện là tông đồ Phê-rô, chính là người đã tuyên xưng niềm tin này. Hồi ấy, trong một lần Đức Giê-su và các môn đệ quy tụ bên nhau, Ngài đã hỏi các ông, rằng: “Anh em bảo Thầy là ai?” Tông đồ Phê-rô trả lời rằng: “Thầy là Đấng Ki-tô”.

Sự kiện này đươc ghi lại chi tiết trong Tin Mừng Thánh Mác-cô. (Mc 8, 27-35).

**
Tin Mừng thánh Mác-cô thuật lại rằng: “Đức Giê-su cùng các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-lip-phê.” Hôm ấy, trong bầu không khí riêng tư chỉ có Thầy và trò, Đức Giê-su (đã) hỏi các môn đệ, rằng: “Người ta nói Thầy là ai?”

Người ta nói Thầy là ai ư! Đó, đó là một câu hỏi không khó trả lời. Thật vậy, rất nhiều người, đặc biệt là cư dân làng Na-da-rét, tất cả họ đều biết rằng, Ngài là “bác thợ, con bà Maria”.

Tuy nhiên, đó chỉ là lời nhận định đầy sự kỳ thị. Còn hôm nay, các môn đệ của Đức Giê-su đã cung cấp cho Ngài rất nhiều lời nhận định hoàn toàn mới mẻ và đáng được gọi là chính đáng. Các môn đệ đã nói rằng: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.”

Nhận định của dân chúng đối với Đức Giê-su chính đáng đấy chứ! Này nhé! họ đã thấy Đức Giê-su làm phép rửa và kêu gọi người ta sám hối, đem so sánh với ông Gio-an Tẩy giả, có gì khác nào! Ông Gio-an Tẩy giả cũng đã làm phép rửa và kêu gọi người ta sám hối, đúng không?

Bảo Đức Giê-su như Ê-li-a thì sao! Thưa, vì Ngài đã làm phép lạ cho con trai bà góa thành Nain đã chết và được sống lại. Còn Ê-li-a… Ê-li-a cũng đã làm cho con trai bà goá thành Sarepta, đã chết và được sống lại.

Cho là một ngôn sứ nào đó thì cũng chẳng có gì sai. Không sai vì Đức Giê-su cũng nói lời của Thiên Chúa, nói nhân danh Gia-vê Thiên Chúa, như các ngôn sứ xưa kia, từng nói.

Vâng, rất thú vị khi chúng ta nghe thêm lời chia sẻ của Noel Quession về những gì “người ta” đã nói về Đức Giê-su. Ngài Quession chia sẻ rằng: “Vậy thì dư luận cũng khá nhất quán: Người ta cho rằng Đức Giêsu là một vĩ nhân, là Gioan Tẩy giả đã sống lại thì cũng không phải là việc thường, là ngôn sứ Êlia, kẻ phải đến liền trước Đấng Mêsia. Do đó Đức Giêsu được coi như là phát ngôn viên của Thiên Chúa”.

Trở lại cuộc thăm dò dư luận “bỏ túi” của Đức Giê-su. Hôm ấy, sau khi các môn đệ công bố những lời nhận định của thiên hạ về mình, Đức Giê-su không xác nhận hay phủ nhận.

Vâng, không nhất thiết phải xác nhận hay phủ nhận. Điều cần thiết, đó là Đức Giê-su muốn các ông có một lời nhận định cho riêng mình. Do vậy, Ngài đã thẳng thắn hỏi các ông, rằng: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Kinh Thánh có lời chép rằng: “Hãy mau nghe và chậm nói.” Thế nhưng, ông Phêrô lại là người “mau nói… chậm nghe”. Thực tế đúng vậy, hôm ấy, mau mắn hơn các đồng môn, ông đã trả lời rằng: “Thầy là Đấng Ki-tô” (Mc 8, 30).

***
“Thầy là Đấng Ki-tô”. Ông Phê-rô đã trả lời như thế. Và, Đức Giê-su đã không tiếc lời tán dương ông. Theo thánh sử Mát-thêu, Đức Giê-su đã nói với ông Phê-rô, rằng: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”.

Tuy nhiên, “diễm phúc” mà ông Phê-rô nhận được, đã không đem đến cho ông một cái nhìn đích thực về Thầy Giê-su của mình.

Thật vậy, khi Đức Giê-su hé mở sứ vụ của Ngài, rằng: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại.” Ông Phê-rô liền “giãy nảy” lên. Chuyện kể rằng: “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người.”

Ông Phê-rô trách Thầy! Và, tại sao ông ta lại làm như vậy! Thưa, thánh sử Mác-cô không nói gì cả. Tuy nhiên, ngày nay một số nhà chú giải Kinh Thánh, tiêu biểu là Noel Quession, có lời giải thích rằng: “Mặc dù vừa gán cho Thầy mình tước vị đẹp đẽ, nhưng Phêrô đã không hiểu gì cả. Ông vẫn đợi một Đấng Mêsia vinh quang, chiến thắng theo kiểu loài người, một Đấng Mêsia hoạt động chính trị, một nhà giải phóng trần gian.”

Nếu đúng là vậy… và nếu chắc chắn là vậy… thì chúng ta không ngạc nhiên khi người “bị trách” lại chính là ông Phê-rô. Vâng, hôm ấy, Đức Giê-su trách ông Phê-rô rằng: “Sa-tan! Lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8, 33).

Thầy là Đấng Ki-tô! Đúng. Là Đấng Ki-tô. “Là Đấng được Thiên Chúa xức dầu. Là Đấng được mọi người mong đợi để đến ‘hoàn tất lịch sử cứu độ’. Là Đấng các Ngôn sứ đã báo trước, Đấng sẽ cho cuộc sống con người có ý nghĩa.” (chú giải của Noel Quession).

Chính Đức Giê-su, trong một lần đàm luận với ông Ni-cô-đê-mô, đã nói rất rõ ràng, rằng: Đấng đó “phải được giương cao… như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc… để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. (Ga 3, 14).

Đức Giê-su ba lần loan báo cuộc thương khó của mình. Và, Đức Giê-su cũng đã không quên loan báo rằng, cuộc thương khó đó cũng là cuộc thương khó dành cho những ai muốn trở thành môn đệ của Ngài.

Thế nên, Đức Giêsu không ngại “gọi đám đông cùng với các môn đệ lại”. Và, Người đã nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc 8, 34-35).

Có thể nói, đây là một lời công bố rất cương quyết. Vì thế, chúng ta hãy ghi khắc trong con tim mình lời công bố này. Và hãy nhớ rằng “có đau khổ mới vào vinh quang.”

****
Trở lại với câu hỏi của Đức Giê-su: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Vâng, tông đồ Phê-rô đã có câu trả lời. Các vị tông đồ khác, cũng đã trả lời. Lịch sử Giáo Hội, qua hơn hai mươi thế kỷ, cũng đã có hàng tỷ tỷ người trả lời.

Thế còn chúng ta… chúng ta sẽ trả lời ra sao! Phải chăng, câu trả lời của chúng ta sẽ phong phú hơn nhiều? Thưa, có thể là vậy!

Vâng, chúng ta có thể trả lời rằng: Đức Giê-su là người đã: “Chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Mọi kẻ đau ốm, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt, Ngài đã chữa họ.” (Mt 4, 23-24).

Chúng ta cũng có thể nói: Ngài là người đã làm cho kẻ chết sống lại. Đứa con trai bà góa thành Nain, hay anh chàng Lazaro, như những điển hình.

Nhiều… nhiều lắm. Có một sự kiện, chúng ta sẽ xử dụng như một câu trả lời không chê vào đâu được, đó là chúng ta hãy lớn tiếng nói: Đức Giê-su là người: “(đã) chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Ðức Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng.”

Vâng! Đó là những câu trả lời rất phong phú, phải không thưa quý vị? Tuy vậy, Noel Quession vẫn đưa ra lời cảnh báo, lời cảnh báo rằng: “Không phải chỉ đọc kinh ‘Tin Kính’ thật đúng là đã đủ. Những từ đúng nhất cũng có thể hàm chứa sai lầm, và những từ không đúng lắm cũng có thể diễn tả chân lý.”

Linh mục Jude Siciliano, OP, cũng đã góp thêm một lời chia sẻ đầy ý nghĩa, lời chia sẻ rằng “Vào những giai đoạn khác nhau trong đời, chúng ta cũng bị chất vấn những câu như thế và chúng ta phải trả lời chứ không chỉ dừng lại công thức tuyên xưng đức tin hay câu trả lời mà chúng ta học được từ các lớp giáo lý khi còn là trẻ con, nhưng phải là câu trả lời từ một đức tin trưởng thành được nuôi dưỡng bởi các bí tích, bài đọc, các cơ hội học hỏi trong giáo xứ, qua cầu nguyện, suy tư Lời Chúa – cũng như những gì chúng ta học được từ nỗ lực nhằm trả lời cho những thiếu thốn của con người và thế giới quanh ta”.

Đúng vậy, nếu câu trả lời của chúng ta chỉ là những câu tuyên xưng ngoài môi miệng, thì chẳng khác nào, như lời tông đồ Giacôbê nói: “mình có đức tin mà không hành động theo đức tin”.

Hãy tưởng tượng, mỗi Chúa Nhật, chúng ta sốt sắng tham dự thánh lễ, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng đã “chịu nạn chịu chết để chuộc tội” cho chúng ta. Thế nhưng, chúng ta lại phớt lờ lời Chúa dạy dỗ “anh em hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em”, chúng ta thờ ơ, trước biết bao con người “… Đang ngồi quanh đây trán in vết nhăn. Đêm nằm nghe lòng quặn sôi lên giữa cơn mộng lành”, thì việc tham dự thánh lễ, cũng như lời tuyên xưng của chúng ta, thánh Giacôbê nói, “nào có ích lợi gì”. (Gc 2, …14).

Vâng, chẳng có ích lợi gì “cho những thiếu thốn của con người và thế giới quanh ta” và điều đó tố cáo chúng ta là những kẻ, tuy có “đức tin”, nhưng chỉ là thứ “đức tin không có hành động”. Mà, đức tin không có hành động thì sao nhỉ! Thưa, tông đồ Gia-cô-bê nói: “là đức tin chết”. Nói cách khác, lời tuyên xưng về Đức Giê-su của chúng ta “rỗng tuếch”.

Để cho lời tuyên xưng sống động, chúng ta phải hành động, một hành động dám “hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu”, dám “từ-bỏ-chính-mình, vác thập giá mình hằng ngày”, thập giá của tình yêu thương “không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù” (1Cor 13, 4-5). Bởi vì, muốn nói về Đức Giê-su, phải nói về thập giá và tình yêu thương.

Nói cách khác, nếu có ai hỏi: Đức Giê-su là ai? Vâng, chúng ta hãynói với họ rằng: Giê-su là thập giá và tình yêu.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 8 tháng 9, 2024

Mọi điều tốt lành… Chúa làm được cả.

 “Hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng”.

Chúa Nhật XXIII – TN – B
Mọi điều tốt lành… Chúa làm được cả

tbd 06092024a

 

Như chúng ta được biết, trong Tin Mừng nhất lãm, (Tin Mừng theo Thánh Matthêu, Maccô và Luca), cả ba thánh sử đều có ghi lại sự kiện Đức Giê-su về thăm Na-da-rét.

Đức Giê-su đã đến Na-da-rét, là nơi Ngài sinh trưởng. Đó là một ngày đáng buồn và thất vọng. Buồn và thất vọng vì những gì Đức Giê-su công bố đều không được những người đồng hương đón nhận.

Theo thánh sử Luca cho biết: Hôm đó là ngày sa-bát. Đức Giê-su vào hội đường như “Ngài vẫn làm trong ngày sabát”. Và thật vinh dự khi Ngài được đọc Sách Thánh. Người quản nhiệm hội đường trao cho Đức Giê-su cuốn sách ngôn sứ Isaia. Ngài mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4, 18-19).

Có thể nói, lời ngôn sứ Isaia là một “tin vui”. Rất vui, vì sau khi đọc xong, Đức Giê-su đã nói với mọi người, rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”

Vâng, mọi người vừa nghe và “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài.” Than ôi! lời tán thành và thán phục ngay lập tức bị thay thế bằng sự hoài nghi.

Cả hội đường, đại đa số là người đồng hương của Đức Giê-su, hoài nghi về thân thế của Ngài: “Ông ấy không phải là con ông Giu-se đó sao?” Và họ đã “vấp ngã về Ngài”. Đức Giê-su đã “không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.”

Cư dân Na-da-rét, nói theo cách nói ngày nay, toàn là “đạo gốc”, vậy mà họ đã không tin. Ngược lại, tại địa hạt Tia, “có một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, bà này là người Hy Lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri” là người ngoại giáo, khi biết Đức Giê-su “vào một nhà nọ” liền tìm đến Người. Bà tin rằng, Đức Giê-su sẽ trừ quỷ cho con gái bà.

Hôm ấy, sau một vài lời đối thoại, Đức Giê-su nhận thấy bà có một niềm tin mãnh liệt, Ngài nói với bà: “Vì bà nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà.” Quả thật, khi bà về đến nhà “bà thấy đứa trẻ nằm trên giường và quỷ đã xuất.” (x.Mc 7, 24-30).

**
Chữa con gái một bà gốc Phê-ni-xi xứ Xy-ri xong “Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh.”

Vừa đến nơi, tin tức về sự hiện diện của Ngài liền được loan truyền rộng rãi đến toàn dân. Thế là “Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su.” Rồi, không một chút chần chừ, họ xin… “xin Ngài đặt tay trên anh.” (Mc 7, …32).

Không có cuộc đối thoại giữa bệnh nhân và người xin chữa bệnh, như trường hợp bà gốc Phê-ni-xi xứ Xy-ri. Tại sao? Thưa, bệnh nhân bị điếc.

Nói tới bệnh điếc, Jacques Hervieux, một nhà chú giải Kinh Thánh, rất tâm lý khi nói: “Theo một vài phương diện thì điếc còn khó chịu hơn đui. Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho người ấy nghe, người ấy càng cảm thấy thất vọng hơn.”

Đức Giê-su, có phần chắc, thấu hiểu điều này. Và, đó là lý do “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông.”

Ra khỏi đám đông rồi, Người “đặt ngón tay vào lỗ tai anh.” Kế đến, “nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.” Cuối cùng, “Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: Ép-pha-ta, nghĩa là hãy mở ra!” (x.Mc 7, 33-35).

Có bao giờ chúng ta thắc mắc, rằng: sao phép lạ này Chúa Giê-su không “phán một lời” như Ngài đã từng phán với một số phép lạ khác, và bệnh nhân đã khỏi bệnh!

Vâng, Jacques Hervieux đã giải đáp thắc mắc này như sau: “Chúa Giê-su đã hành động như sắp diễn một vở ‘kịch câm’, Ngài đặt tay lên lỗ tai người điếc, thấm nước miếng xức lưỡi anh ta, sau đó Chúa Giê-su ngước mặt lên trời để chứng tỏ rằng chỉ có Thiên Chúa mới giúp được cho loài người, rồi Ngài nói một tiếng và người điếc được chữa lành.

Câu chuyện này cho thấy cách hết sức sống động, Chúa Giê-su xem người này là một nhân vị có nhu cầu, một vấn đề đặc biệt, và bằng những cử chỉ dịu dàng, quan tâm, Chúa Giê-su giúp người ấy không cảm thấy khó chịu ngỡ ngàng và khiến anh có thể hiểu được.”

Còn với Noel Quesson! Vâng, chúng ta sẽ được nghe những lời chia sẻ rất sâu sắc của ông ta, lời chia sẻ rằng: “Thiên Chúa đã có thể ban hồng ân của Người cho chúng ta ‘từ xa’ một cách thiêng liêng, nhưng thực sự Người đã quyết định ‘tiếp xúc’ với chúng ta nhờ nhân tính Con của Người (là Đức Giê-su Ki-tô), đã nhập thể.”

Trở lại với “vở kịch câm”. (lời Jacques Hervieux). Vâng, tới lúc này, người câm, cứ tạm gọi là như thế, hết câm. Chuyện kể rằng: Sau khi Đức Giê-su nói: “Hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng”.

Có thể nói, đó là một phép lạ tỏ tường. Phép lạ này khiến cho mọi người “hết sức kinh ngạc” Mọi người đã kinh ngạc và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”

Tuy, Đức Giê-su đã “truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả” Nhưng “càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra.” (Mc 7, 36).

***
Đức Giê-su “truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả”. Nhưng “càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra.” Thánh sử Mác-cô cũng đã “đồn ra” sự kiện này. Suốt hơn hai ngàn năm lịch sử Giáo Hội, câu chuyện này vẫn tiếp tục được đồn ra.

Chúng ta đã được nghe. Nghe rất nhiều lần. Nghe xong thì sao! Thì tiếp tục “đồn ra” chứ sao! Hãy, hãy tiếp tục đồn ra. Tất nhiên là, không chỉ đồn ra câu chuyện Chúa Giê-su đã chữa khỏi một người vừa điếc vừa ngọng, mà còn phải đồn ra “những thực tại cao cả” mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.

Thiên Chúa ban cho chúng ta nhiều thứ lắm. Kể không xiết đâu! Thế nên, chúng ta không thể không đồn ra. Còn nếu… nếu chúng ta không đồn ra ư! Chúng ta sẽ bị gọi là những kẻ “điếc đặc về phương diện tâm linh”. Lm. Charles E.Miller có lời cảnh báo như thế.


Do vậy, đừng để mình mắc căn bệnh hiểm nghèo này. Bởi vì khi mắc phải, nó chính là dấu hiệu chúng ta “thiếu ơn đức tin”. Mà, thiếu ơn đức tin thì sao? Thưa, ngài Charles tiếp lời rằng: “Hậu quả là ta không thể ‘nghe’ Chúa nói với mình, cũng không thể ‘nói’ với Chúa như được trông đợi.”

Thực tế những gì xảy ra ở Na-da-rét năm xưa đã minh chứng cho nhận định của Lm. Charles. Cư dân Na-da-rét, vì thiếu niềm tin, nên đã không thể nghe được gì từ những lời công bố của Đức Giê-su. Và họ cũng chẳng nói được gì với Ngài ngoài những lời xầm xì bàn tán “ông không phải con bác thợ sao?”

Một bài thuốc, Lm. Charles đã kê một bài thuốc đặc trị để chữa trị căn bệnh “điếc đặc” này. Vâng, đó là bài thuốc mang nhãn hiệu “Lời Chúa”. Ngài Lm. nói: “Anh chị em phải nhận ra ‘Lời Chúa’ là nguồn mạch đức tin của mình.”

Như vậy, không có gì phải lo lắng nếu chúng ta chẳng may mắc căn bệnh vừa-điếc-vừa ngọng về phương diện tâm linh. Bài thuốc mang nhãn hiệu “Lời Chúa” sẽ giúp chúng ta thoát khỏi căn bệnh chết chóc này.

Nhưng, trước hết và trên hết, niềm tin vào Chúa phải là điểm mạnh của chúng ta. Mạnh như người phụ nữ gốc Phê-ni-xi xứ Xy-ri. Bởi vì, có như thế và chỉ như thế, Chúa Giê-su mới có thể nói với chúng ta, rằng: Ép-pha-tha – Hãy mở ra.

Vâng, hãy tin… chúng ta hãy tin rằng: “Mọi điều tốt lành… Chúa làm được cả.”

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...