Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2025

Hãy để Chúa hoạt động trong ta

 Chúa Nhật XVI – TN – C

Hãy để Chúa hoạt động trong ta

tbd 190725b


Chọn lựa là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Ngay từ lúc thức giấc cho đến buổi chiều tàn, từ khi khôn lớn cho đến tuổi xế chiều, có biết bao điều ta phải chọn lựa. Hôm nay, ta sẽ ăn gì, uống gì, mặc gì. Ngày cuối tuần, ta sẽ đi picnic ở đâu.

Với những người nhìn xa trông rộng, người ta còn tính đến chuyện tương lai, chuyện chọn lựa cho mình một công việc phù hợp năng lực, một căn nhà xinh xinh, một chiếc xe hợp nhãn v.v…

Thế nhưng, không phải lúc nào chúng ta cũng có sự lựa chọn hoàn hảo. Có người chọn sai nghề nghiệp. Thế nên, họ luôn thất bại trong công việc của mình. Có người chọn sai ý trung nhân. Thế nên, cuộc sống hôn nhân của họ nửa đường gãy gánh.

Tuy nhiên, vì là những chọn lựa thiên về thể xác (vật chất), nên nó không ảnh hưởng lắm trong cuộc sống của mình, nếu biết sửa sai.

Cũng là chọn lựa, nhưng những chọn lựa này sẽ rất tai hại cho cuộc sống của mình, nếu chọn sai, đó là chọn sai cung cách sống, chọn sai cung cách biểu lộ niềm tin của mình đối với Chúa.

Kinh Thánh có ghi chép lại nhiều tấm gương về sự chọn lựa cách biểu lộ niềm tin của mình đối với Chúa. Một trong những tấm gương đó, được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca, đó là tấm gương của cô Maria, em gái của cô Mác-ta.

**
Theo Tin Mừng thánh Luca ghi lại: Một ngày nọ, trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà”. Sự hiện diện của Đức Giê-su cứ tưởng rằng sẽ đem lại cho gia đình cô Mác-ta niềm vui vì có Chúa ở cùng.

Vâng, chỉ là “cứ tưởng” thôi! Chứ thực ra thì nó đã biến gia đình cô Mác-ta căng thẳng như một sợi dây đàn sắp đứt.

Chuyện là thế này. Cô Mác-ta “Có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy.” Ngược lại, “Cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ.”

Một sự khó chịu ngấm ngầm trong lòng cô ta. Thế là, cô ta tiến lại gần Đức Giê-su và nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”

Lời thỉnh cầu của cô Mác-ta hợp lý đấy chứ! Vâng! Rất hợp lý. Hôm đó, nào có phải chỉ một Thầy Giêsu đến, còn cả những người môn đệ của Ngài nữa, kia mà!

Thế nhưng, Đức Giê-su vẫn coi lời thỉnh cầu của cô Mác-ta là không cần thiết. Ngài đã trả lời rằng: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc 10, 41).

***
Đức Giê-su nói: “Maria đã chọn phần tốt nhất.” Vậy, việc làm của cô Mác-ta không tốt sao! Thưa, không hẳn thế.

Đừng nghĩ rằng Đức Giê-su coi thường sự phục vụ. Chính Ngài đã nói “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 43).

Nếu cô Mác-ta, nói theo cách nói của tông đồ Phê-rô, “tiếp đón nhau mà không lẩm bẩm kêu ca” (1Pr 4, 9), thì có phần chắc, cô ta sẽ nhận được huy chương “người phục vụ tốt nhất”.

Vâng, xã hội hôm nay vẫn cần rất nhiều Mác-ta. Nói rõ hơn, cần rất nhiều người phục vụ. Nếu người viết không lầm, cô Mác-ta đã được đặt làm quan thầy của các người hầu hạ và đầu bếp.

Điều quan trọng là, khi phục vụ, đừng để mình bị quá tải. Bởi nếu bị quá tải, thánh Bênêđictô, (không phải ĐTC Bênêđictô XVI nha!), có lời chia sẻ rằng: “bị quá tải thường dẫn đến sự chai đá của con tim, tinh thần bị thương tổn, trí khôn bị mất và ơn Chúa bị phân tán.” (nguồn: internet).

Quý bà, quý chị em và những ai xung phong làm người phục vụ, nhớ kỹ lời khuyên này nhé! Ơn-Chúa-bị-phân-tán sẽ dẫn đến nổi cáu, bực tức, càm ràm, v.v… và như thế sẽ làm cho sự phục vụ của mình mất đi ý nghĩa, phải không, thưa quý vị!

Cuối cùng, đó là hãy học lấy kinh nghiệm của thánh Phaolô. Trước những khó khăn và vất vả cho việc phục vụ dân ngoại, ngài tông đồ chia sẻ, rằng: “Tôi vui mừng chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (x.Cl 1, 24).

Đẹp thay! khi phục vụ, chúng ta hãy phục vụ vì “lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh”.

****
Cô Mác-ta và cô Maria, mỗi người có một sự chọn lựa. Một người chọn lựa việc phục vụ. Một người chọn lựa việc ngồi bên chân Chúa.

Với chúng ta hôm nay, chúng ta chọn việc gì? Vâng, câu trả lời là của mỗi chúng ta. Tuy nhiên, sẽ là đáng tiếc, nếu chúng ta không chọn ngồi-bên-chân-Chúa.

Ngồi-bên-chân-Chúa, Cha Charles E. Miller chia sẻ rằng: “Theo một ý nghĩa thẳm sâu, anh chị em phải hiểu rằng, trong thánh lễ, chúng ta cũng ngồi bên chân Chúa Giêsu ở phần phụng vụ Lời Chúa. Công Đồng Vatican II đã dạy rằng: Chúa Kitô hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong nhà thờ” (Hiến chế về Phụng vụ Thánh, số 7).

Ngài Lm. nói tiếp: “Đó là sự khác biệt về việc ‘ngồi bên chân Chúa’ giữa cô Maria xưa và chúng ta hôm nay. Một sự khác biệt nữa, của hôm nay, đó là Chúa Giê-su là người phục vụ chúng ta, chứ không phải chúng ta là người phục vụ Chúa. Nơi bàn tiệc Thánh Thể, Chúa Giêsu phục vụ chúng ta ‘Mình và Máu Đức Kitô’, không phải do Macta dọn ra mà do chính Người dọn ra”.

Ngồi bên chân Chúa nơi Bàn Tiệc Thánh Thể và Chúa Giêsu là người phục vụ chúng ta… rồi sao nữa! Rồi chúng ta phải là người phục vụ tha nhân, chứ sao!

Và đó là lý do chúng ta phải chọn cả hai công việc. Phải quân bình giữa sự phục vụ cũng như việc ngồi bên chân Chúa.

Về việc chọn cả hai, một nhà truyền giáo có lời chia sẻ, rằng: “Đức Giê-su dạy chúng ta cần quân bình giữa thời gian phục vụ và thời gian thờ phượng (đi nhà thờ, lắng nghe tiếng Chúa - học Lời Chúa, và cầu nguyện).

Nếu không thờ phượng, sự phục vụ của chúng ta sẽ trở nên khô cứng, vô quyền. Nếu chỉ thờ phượng mà không phục vụ Đức Chúa Trời và đi ra để phục vụ người khác, đức tin chúng ta trở thành đức tin chết” (x.Gc 2, 17).

Cuối cùng, nhà truyền giáo kết luận: “Tuy nhiên, cần nhớ rằng ‘Lời Chúa’ phải luôn là nền tảng của chúng ta trong sự thờ phượng và phục vụ.”

Nói, theo cách nói của anh Giu-se Vũ Đình Bình, đó là: “Phần-tốt-nhất không phải là bỏ hết mọi sự để chỉ cầu nguyện, mà là biết ưu tư với Chúa, ngay trong khi làm việc. Đó là biết dừng lại một chút, để lắng nghe, để nhìn sâu vào tâm hồn mình, và để Thiên Chúa hoạt động trong chúng ta.”

Nói ngắn gọn, chọn-phần-tốt-nhất, đó là: Hãy để Chúa hoạt động trong ta.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2025

Hãy làm như người Samari...

 Chúa Nhật XV – TN – C

Hãy làm như người Samari

tbd 120725a


Sau ba mươi năm sống ẩn dật tại Na-da-rét, thánh sử Mát-thêu cho biết “Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân… Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt v.v… Người đã chữa họ.”
Thế là, danh tiếng của Đức Giê-su được đồn ra mọi nơi, khắp cả “vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan.”

Tại Ca-phác-na-um, khi thấy Đức Giê-su chữa lành “một người bị thần ô uế nhập… mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: Thế nghĩa là gì?” Và khi nghe Đức Giê-su giảng dạy, mọi người đã “sửng sốt… vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư.”

Kể từ đó, Đức Giê-su như là cái gai trước mắt các ông kinh sư, các thầy thông luật. Và họ đã tìm mọi cách để hạ bệ Ngài.

Theo các sách Tin Mừng ghi lại, có rất nhiều nhóm đã tìm gặp Đức Giê-su để chất vấn Ngài. Khi thì họ chất vấn Đức Giê-su, rằng: “trong các điều răn, điều nào là trọng nhất?” Khi thì họ lịch lãm “xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không ?” v.v…

Nhiều… nhiều lắm. Tuy vậy, tất cả những lần chất vấn, dù có gài bẫy cỡ nào, đều được Đức Giê-su hóa giải. Đã có lần họ phải “tâm phục khẩu phục”. Câu chuyện một thầy thông luật hỏi Đức Giê-su về việc “Ai là người thân cận của tôi?”, được ghi trong Tin Mừng thánh Luca, như điển hình. (x.Lc 10, 25-37).

**
Theo Tin Mừng thánh Lu-ca ghi lại: Một hôm, có người thông luật kia hỏi Đức Giêsu một câu hỏi, rằng: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”

Vâng, một câu hỏi tưởng là dễ nhưng lại là khó, để trả lời. Khó là bởi: “Do Thái giáo là một tôn giáo lâu đời và có nhiều trường phái tư tưởng khác nhau. Niềm tin về sự sống đời đời không phải là một niềm tin thống nhất trong tất cả các nhánh của Do Thái giáo. Có nhóm như nhóm Sadducee, chủ yếu là các tư tế cấp cao, chỉ tin vào Ngũ Thư (Torah) và không tin vào sự sống lại hoặc cuộc sống vĩnh hằng. Ngược lại, nhóm Pharisees tin vào sự sống lại của thân xác vào ngày tận thế và sự phán xét sau khi chết. Đối với nhiều người Do Thái, trọng tâm là sống một cuộc đời ý nghĩa và tuân theo các giới luật của Torah trên thế giới này, thay vì tập trung vào một cuộc sống sau khi chết.” (nguồn: internet).

Sống-một-cuộc-đời-ý-nghĩa-và-tuân-theo-giới-luật, cũng là người Do Thái, Đức Giê-su thấu hiểu điều cơ bản này. Thế nên, để trả lời ông thông luật, Ngài đã có lời đáp, rằng: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”

Ông-đọc-thế-nào? Vâng, thầy thông luật chính là người am hiểu rành rẽ luật. Những điều luật, được ghi trong ngũ thư là những cuốn sách nói rất rõ về Mười Điều Răn, về lề luật, về lễ nghi thờ phượng Đức Chúa Trời, ông ta rành “sáu câu”. Do vậy, sau khi nghe Đức Giê-su nói, vị thông luật đã trả lời “ngọt sớt”, rằng: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”.

Cuộc… cuộc chất vấn tưởng chừng chấm dứt khi Đức Giê-su nói với ông ta rằng: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.

Thế nhưng, ông thầy thông luật này không chịu dừng ở đó. Không dừng ở đó vì thánh sử Luca cho biết việc ông ta hỏi Đức Giê-su là “để thử Người”. Và đây, ông thông luật đã hỏi, một câu hỏi mà ông ta cho là “mình có lý”, câu hỏi rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”

Ai! “Ai là người thân cận của tôi?” Có phần chắc, ông ta thừa biết! Là thầy thông luật chẳng lẽ ông ta không biết “người thân cận là người ở gần mình, là người anh em cùng tin vào Thiên Chúa!” Chẳng lẽ ông ta không biết, còn là những người “ngoại kiều” như luật Lê-vi (11, 19) đã dạy!

Mặc cho ông thông luật “đắc ý” về câu hỏi của mình, Đức Giê-su kể một dụ ngôn. Dụ ngôn được Đức Giê-su kể như sau: “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-cô…”

Tưởng chúng ta nên biết, đây là một cung đường dài khoảng 27km, với sự chênh lệch về độ cao vào khoảng 1000m. Giêrusalem nằm ở độ cao 750m trên mặt biển, còn Giêrikhô thấp hơn mặt biển 250m. (nguồn: internet).

Chính vì thế, cung đường này tạo thành một đoạn đường dốc. Với địa hình như thế, nó rất tốt để những toán cướp phục kích tấn công khách bộ hành để cướp bóc.

Mà đúng là vậy. Chuyện kể rằng: “dọc đường (người kia) bị rơi vào tay kẻ cướp”. Rất dã man “Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, mặc người ấy nửa sống nửa chết.”

Nếu câu chuyện này, hôm nay, được đăng trên “phây búc”… có lẽ, sẽ có không ít người bình luận, rằng: “Người kia, đáng thương quá đi!” Đúng không, thưa quý vị!

Ấy thế mà… thế mà có hai người, đi qua thấy… thấy rõ nạn nhân, nhưng lại ca bài “gặp nhau làm ngơ.”

Vâng, hôm ấy, chuyện kể rằng: “Tình cờ có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi”.

Ông tư tế vừa tránh-qua-bên-kia-mà-đi, thì có “một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy…” Ông Lê-vi có thấy nạn nhân không? Thưa, thánh sử Luca cho biết: ông Lê-vi “cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi”.

Buồn nhỉ! Vâng, rất buồn và chắc hẳn chúng ta sẽ tự hỏi: “Tại sao họ lại tránh qua một bên mà đi khi thấy nạn nhân nằm bên vệ đường?”

Tại sao ư! Thưa! Hai người này đều thuộc về những nhóm có chức vụ tại Đền Thờ. Đụng vào người nạn nhân là vi phạm sự thanh sạch theo nghi tiết.

Sách Dân số có lời dạy rằng: “Ai đụng vào người chết, bất cứ người chết là ai, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày.” (Ds 19, 11). Mà, khi đã bị nhiễm uế, “người đó làm cho Nhà Tạm của ĐỨC CHÚA, bị nhiễm uế, người như thế phải bị diệt trừ khỏi Israel” (Ds 19, 13). Còn sách Lê-vi ư! Sách Lê-vi dạy rằng: “Một tư tế không được làm cho mình ra ô uế vì một người chết trong dòng họ nó…” (Lv 21, 1).

Luật là thế! Thế nên, hai vị tư tế lẫn Lê-vi hôm ấy ca rằng: “nếu tình cờ gặp xin cứ làm ngơ”, thì cũng đừng “ném đá” họ nhé!

Trở lại câu chuyện. Hai vị tư tế và Lê-vi đi rồi, thì có “một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy (nạn nhân), cũng thấy…”

Vâng, ông ta không-chỉ-cũng-thấy, mà trong con tim ông ta như văng vẳng tiếng nạn nhân nằm bên vệ đường rên rỉ: “Đừng bỏ (tôi) một mình. Đừng bỏ (tôi) một mình. Đường về nghĩa trang lênh đênh đừng bỏ (tôi)…”

Nghe bốn chữ đường-về-nghĩa-trang đã khiến ông ta “chạnh lòng thương xót” chăng! . Có thể là vậy! Và ông ta đã nhanh chóng “Lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc.”

Chưa hết, hôm sau, chàng Samari còn “lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, khi trở về, chính tôi sẽ hoàn trả lại bác” (x.Lc 10, 35).

Chính-tôi-sẽ-hoàn-trả! Ông thầy thông luật nghe rất rõ từng chi tiết trong dụ ngôn. Và, đó là lý do, sau khi Đức Giê-su hỏi ông thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” Thầy thông luật đã không ngần ngại trả lời rằng “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”.

“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Vâng, đó là câu Đức Giê-su trả lời cho ông thông luật. Thánh Luca không nói gì thêm ngoài câu trả lời của Đức Giê-su. Nhưng, chúng ta có thể nghĩ rằng, trên đường về nhà, ông thông luật, biết đâu lại chẳng vừa đi vừa gật gù nói: Ông Giê-su “có lý”.

***
Qua “dụ ngôn người Samari nhân hậu”, Đức Giê-su không chỉ gửi đến thầy thông luật một “đáp án” cho câu hỏi “ai là người thân cận của tôi” mà còn để lại nơi ông ta một quan niệm mới về “tình người”.

Đối với thầy thông luật cũng như toàn thể người Do Thái, họ quan niệm rằng “người thân cận” chính là người đồng đạo, đồng hương và đồng chủng tộc. Nhưng với Đức Giê-su, người thân cận (của nạn nhân), chính là người Samari. Và, ngược lại, người thân cận, (của người Samari), chính là nạn nhân. Không ai quen ai cả, nhưng cả hai đều có thể là người-thân-cận của nhau.

Là một Ki-tô hữu, chúng ta cũng được dạy rằng: “trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.

“Yêu người” - người đó là ai? Thưa, “Bẩt cứ ai cần sự trợ giúp của chúng ta đều là người thân cận. Nếu có lòng cảm thương trong con tim, bạn có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai đang cần sự trợ giúp.”

Cố ĐTC Phanxicô đã nói (như thế) với hơn 80.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần. Sau đó, Ngài nói tiếp, rằng: “Sự cảm thương, tình yêu, không phải là một tâm tình mông lung, nhưng có nghĩa là lo lắng cho tha nhân cho tới độ chính mình phải trả giá. Nó có nghĩa là để cho mình bị liên lụy bằng cách làm mọi sự cần thiết để tới gần người khác cho tới độ tự đồng hóa với họ: ‘Hãy yêu tha nhân như chính mình’. Đó là giới răn của Chúa” (nguồn: đài Vatican).

Với lời giáo huấn nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng, người thân cận của chúng ta không ở đâu xa, không phải ở tận cung đường “từ Giê-ru-sa-lem lên Giê-ri-cô”, nhưng là ở ngay bên cạnh chúng ta.

Đúng, ở ngay bên cạnh chúng ta. Tạ ơn Chúa, anh Giu-se Vũ Đình Bình, một người anh em trong Chúa, đã tiết lộ cho chúng ta danh sách những người-thân-cận, mà chúng ta cần quan tâm đến. Đó là… “Là ông cụ bán vé số đi ngang trong cơn nắng cháy. Là chị công nhân cặm cụi nuôi con trong xóm trọ nghèo. Là đứa bé hay nghỉ học vì không đủ tiền đóng phí đầu năm. Là người bạn vừa mất việc, đang sống trong lo âu. (Họ) đôi khi không lên tiếng. Họ chỉ lặng lẽ hiện diện bên cạnh cuộc đời ta, với ánh mắt, với vết thương, với những tiếng thở dài mà ta vô tình không để ý.”

Nói cách khác, họ là: “Những người ngồi quanh đây, trán in vết nhăn”. Họ ngồi quanh đây rất nhiều và đó là lý do để chúng ta tự hỏi, hỏi lòng chúng ta có “quặn sôi lên lòng thương xót!”

Có phần chắc, tôi (người viết) nghĩ rằng, chẳng ai trong chúng ta lại không quặn-sôi-lên-lòng-thương-xót, như người Samari tốt lành, đã “chạnh lòng thương xót”.

Thế nên, đừng ngần ngại thể hiện mình là người Samari tốt lành. Chỉ cần: “mỗi chúng ta can đảm bước ra khỏi cái tôi khép kín, vô cảm để thấy nơi mỗi con người, dù lạ hay quen, tất cả đều là anh em.” Vâng, anh Giu-se Vũ Đình Bình, có lời chia sẻ (nên gọi đây là lời khuyên), như thế.

Anh Bình không quên mời gọi chúng ta cùng cầu nguyện, lời nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin cho con có trái tim rộng mở, biết rung động để trở nên anh em của những người đang sống chung quanh và là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa giữa thế giới hôm nay.”

Cầu nguyện xong, chúng ta sẽ làm gì, nhỉ! Phải chăng, hãy thực thi lời Chúa Giê-su truyền dạy: “Con hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”!?

Thưa, đúng là vậy. Hãy làm như người Samari.

Petrus.tran    

Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2025

Tôi là thợ gặt của Chúa..l.

 Tôi là thợ gặt của Chúa

snCN 050725a


“Lạy Chúa xưa Chúa đã phán: Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt. Chúa hãy ban nhiều thợ biết nhiệt thành. Để nước Chúa rộng lan khắp nơi. Xin Chúa ban cho đoàn chúng con nên Tông Đồ thiện toàn mở Nước Chúa Trời.”

Những dòng chữ trên đây là nội dung một bài thánh ca có tên: “Lời nguyện truyền giáo”. Bài thánh ca này được sáng tác bởi nhạc sĩ Hoài Chiên.

Đúng! “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt.” đúng là lời Chúa Giê-su đã phán truyền, năm xưa. Lời phán truyền này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca. (Lc 10, 1-12, 17-20).

**
Theo lời thánh sử Luca ghi lại: Một ngày nọ, Đức Giê-su đã “chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.”

Chỉ định bảy-mươi-hai-người-khác, trong khi còn đó Nhóm Mười Hai, phải chăng là do nhu cầu nhân sự!

Có… có thể là vậy! Có thể là vậy, bởi sau khi đã chỉ định bảy-mươi-hai-người-khác, Đức Giê-su có lời tiếp rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”

Vâng, thợ-gặt-lại-ít chẳng phải là nhu-cầu-nhân-sự đang rất khẩn thiết, đó sao!

Thật ra thì, trước đó Đức Giê-su cũng đã “tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật.” Sau đó, Ngài sai các ông đi “rao giảng Nước Thiên Chúa”. (Lc 9, 1-2).

Trở lại với nhóm bảy mươi hai. Các ông đã ra đi. Ra đi với nhiệm vụ Đức Giê-su trao phó, đó là loan báo cho mọi người biết: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”.

Các ông đã đi, và rồi các ông trở về, trở về hớn hở nói với Đức Giê-su, rằng: “Thưa Thầy, nghe danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” (Lc 10. 17).

Nghe thế, phản ứng của Đức Giê-su thế nào! Thưa, chúng ta có thể nghĩ rằng, Đức Giê-su không ngạc nhiên cho lắm. Không ngạc nhiên là bởi, Ngài biết mình-là-ai.

Và, đó chính là lý do Đức Giê-su đã bảo các ông: “Thầy đã thấy Sa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em.”

Cuối cùng, Đức Giê-su nhấn mạnh: “Anh em chớ mừng vì quỷ thần khuất phục anh em, nhưng hãy vui mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.” (Lc 10, 20).

Dù vậy, sự kiện “ma quỷ cũng phải khuất phục” như một minh định cho lời ngôn sứ Isaia đã nói, năm xưa: “Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ đầy hoan lạc, thân mình được tươi tốt như cỏ xanh.” (Is 66, 14).

***
Như đã nói ở trên, Đức Giê-su cũng đã “tập họp Nhóm Mười Hai lại…”. Nhóm Mười Hai gồm có các ông: “Đó là An-rê và Simon Phêrô, kế tiếp là Giacôbê và Gioan, sau đó là Philipphê, Nathanael, Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông An-phê, Tađêô, Simon thuộc nhóm quá khích và Giuda Itcariot.”

Còn với quý ông ở nhóm Bảy Mươi Hai! Thưa, thánh sử Luca không nói gì đến tên tuổi, quê quán của những vị này.

Điều này có làm cho chúng ta ngạc nhiên! Vâng, đừng ngạc nhiên. Đừng ngạc nhiên vì theo một số nhà thuyết giảng suy luận, không đặt tên một số nhân vật trong một số câu chuyện, là do tác giả có hàm ý muốn nói, rằng có thể nhân vật đó là chúng ta.

Lấy ví dụ, nhân vật ông nhà giàu (không có tên) trong “dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô”. Biết đâu, một lúc nào đó, coi chừng tên của chúng ta được gắn sau danh xưng ông nhà giàu.

Thêm một ví dụ, đó là nhân vật người-con-thứ trong “dụ ngôn người cha nhân hậu”. Tên của anh ta cũng để trống. Ai biết được, một ngày nắng ấm nào đó, tên của chúng ta sẽ được “điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa”, chăng!

Trở lại nhóm Bảy Mươi Hai. Tên của họ để trống. Để trống chẳng phải là để mỗi chúng ta điền tên mình vào, đó sao!

Vâng, hãy điền tên mình vào! Vì đó là điều chính đáng, chính đáng bởi: “Theo con số thống kê (năm 2010) thì thế giới hiện có 7 tỷ người; nhưng chỉ có 1,5 tỷ (?) người biết Chúa. Như vậy có 100 đồng lúa chín, chỉ có hơn 2,6 cánh đồng có thợ gặt, còn 97,4 cánh đồng không có thợ. Riêng tại Việt Nam 86 triệu người, chỉ có 6 triệu người Công giáo, được 7% biết Chúa, còn 93 % thì chưa theo Chúa.” (nguồn: vietcatholic.news).

Con số 7%, nếu tôi (người viết) không lầm, có vẻ như là một con số “chết” suốt khoảng năm mươi năm qua, thì phải!

Phó tế GB. Maria Nguyễn văn Định, qua bài viết “thợ gặt lại ít”, nói lên nguyên nhân “còn 93 % thì chưa theo Chúa”, là do: “ít (người) đáp lại tiếng Chúa mời gọi trong Hội Thánh; hay có chức vụ nhưng ít nhiệt tâm, ít có tư cách đạo đức, ít có tấm lòng, ít xứng đáng để phục vụ con người và ít làm chứng nhân cho Chúa.”

Thật đáng trân trọng khi ngài phó tế có thêm lời thú nhận: “Bạn và tôi có thể còn vương vấn tiền bạc, của cải… và nhất là ít có một tấm lòng nhiệt huyết mà Chúa đã ban cho, để đem ra chia sẻ cho người khác. Tôi vẫn còn dùng những phương tiện Chúa cho để hưởng thụ, làm mất tác phong và nhân cách, thoái hoá, tham mê trần tục, làm gương xấu gương mù cho mọi thành phần trong Giáo hội và những người lương dân và các tôn giáo bạn.” (nguồn: vietcatholic.news).

Thông tin do ngài phó tế cung cấp, có làm chúng ta ray rứt? Nếu có, chúng ta hãy cất tiếng hỏi Chúa: “Con phải làm gì ôi Lạy Chúa? Khi quê hương Tin Mừng chưa lớn. Con phải làm gì ôi Lạy Chúa? Khi bao người còn yếu niềm tin. Con phải làm gì, con phải làm gì, con phải làm gì thì Lạy Chúa xin Ngài phán đi.”

****
Vâng, để con số 7%, không-dậm-chân-tại-chỗ, chúng ta hãy tuân theo lời Đức Giê-su truyền dạy, đó là: “Xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”

Nhớ! Khi đến với chủ mùa gặt, hãy đến với một “con tim”, một con tim: bác ái, nhân hậu, hiền hòa, khiêm nhường. Nói cách khác, đó là một con tim “biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”.

Lịch sử truyền giáo của Giáo Hội đã cho chúng ta biết rằng, tất cả những sứ giả loan báo Tin Mừng, động lực thúc đẩy các vị đó ra đi đều phát xuất bởi “con tim”. Đức Cha Jean Cassaigne được gọi là “Giám mục của người cùi”, như điển hình.

Đức Giê-su, khi chỉ định “bảy mươi hai người khác”, Ngài đã nói: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị giày dép”. Trái lại, Ngài đã khuyên những vị sứ giả của mình “vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này”. Chúc Bình An, đó chẳng phải là một cử động của con tim, một con tim tràn đầy lòng nhân ái, sao!

Về chuyện “tiền bạc”, tưởng chúng ta nên nhìn tấm gương hai vị sứ giả tiên khởi là tông đồ Phê-rô và Gioan. Ra đi không tiền bạc, nhưng hai vị vẫn được xem là những vị sứ giả đem đến sự bình an và hạnh phúc cho tha nhân.

Sách Công Vụ Tông Đồ kể rằng: Một hôm, ông Phê-rô và ông Gioan lên Đền Thờ. Cùng lúc đó, người ta khiêng đến một người què từ khi lọt lòng mẹ. Ngày ngày người ta đặt anh ta bên cửa Đền Thờ, để xin kẻ ra vào Đền Thờ bố thí.

Vừa thấy hai vị tông đồ đi đến, anh ta liền xin bố thí. Hai vị tông đồ nhìn thẳng vào anh ta, và niên trưởng Phê-rô nói: “Anh nhìn chúng tôi đây”. Ôi! trời ạ! Tưởng rằng ngư phủ Phê-rô cho anh ta vài ký lô cá, cá khô Biển Hồ, thế nhưng, ai ngờ ông Phê-rô nói: “Vàng bạc thì tôi không có, nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây”.

Tông đồ Phê-rô có cái gì? Thưa, “lòng thương xót của Đức Giê-su người Nazareth”.

Hôm đó, ngài Phê-rô lớn tiếng nói với anh ta rằng: “Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Nazareth, anh đứng dậy mà đi”. Đẹp thay dấu chân người sứ giả loan báo Tin Mừng. Hôm đó, anh què “đứng phắt dậy, đi lại được” (x.Cv 3, 1-10).

Như… như anh què, “đứng phắt dậy, đi lại được”, hôm nay, chúng ta cũng hãy… “Hãy chỗi dậy mà đi… (đi) gieo Tin Mừng bình an. Hãy chỗi dậy mà đi… (đi) truyền tin vui, Chúa yêu gian trần.” (CON PHẢI LÀM GÌ? – Lm. Paul Xuân Đường).

Có như thế, con số 7%, sẽ trở thành con số lũy tiến, tăng dần theo năm tháng. Và, hơn thế nữa, nó còn bảo đảm “tên chúng ta sẽ được ghi trên trời.”

Trong khi chờ đợi ngày Đức Giê-su xướng danh tên mình, nhớ: truyền giáo phải thật sự là công việc của chúng ta. Nói theo cách nói của Đức Giê-su, hãy nhớ: Tôi là thợ gặt của Chúa.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2025

Kính trọng thể thánh Phê-rô và Phao-lô

 Kính trọng thể thánh Phê-rô và Phao-lô

tbd 290625a


Vào lúc 6g10, ngày 8/5/2025, giờ Rô-ma, tức là 23g10 giờ Việt Nam, làn khói trắng đã xuất hiện từ ống khói Nhà nguyện Sistine, báo hiệu các Đức Hồng Y cử tri đã bầu chọn được vị Giáo hoàng mới.

Các chuông của Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô ngân vang báo tin vui Giáo hội Công giáo đã có tân Giáo hoàng. Đám đông ở quảng trường không ngừng vỗ tay và hò reo khi khói trắng bắt đầu xuất hiện. Mọi thành phần dân Chúa cùng vui mừng dâng lời tạ ơn Chúa sau hai ngày chờ đợi và mong mỏi.

Đức Hồng Y Robert Francis Prevost, người Mỹ, đã được các Hồng Y cử tri bầu chọn làm Giáo hoàng thứ 267 với tông hiệu của triều đại giáo hoàng là Lê-ô XIV. Đức Hồng Y Robert Francis Prevost sinh ngày 14 tháng 9 năm 1955 tại Chicago, Illois, Hoa Kỳ. Ngài được thụ phong linh mục vào ngày 19 tháng 6 năm 1982, và vào tháng 9 năm 2023 được Đức cố Giáo hoàng Phan-xi-cô phong làm Hồng Y.

Sau ít phút chuẩn bị y phục tại “Phòng Nước Mắt”, Đức Tân Giáo hoàng đã xuất hiện trước ban công chính của Đền thờ Thánh Phê-rô để chào các tín hữu. Theo truyền thống, Đức Hồng y Trưởng đẳng Phó tế sẽ tuyên bố “Habemus papam”, có nghĩa là “Chúng ta đã có Giáo hoàng”. Kế đó, Đức Tân Giáo hoàng ngỏ lời chào và ban phép lành “Urbi et Orbi” đầu tiên.” (nguồn: Truyền Thông TGP Hà Nội).

Habemus Papam - Chúng ta đã có Giáo hoàng. Giáo hội Công giáo đã có hai trăm sáu mươi bảy vị Giáo hoàng. Quý ngài là những người kế vị thánh Phêrô. Gọi là người kế vị thánh Phêrô, vì thánh Phêrô là tông đồ trưởng của Đức Giê-su, với vai trò là người giữ chìa khóa thiên đàng, là “tảng đá” để xây dựng nên giáo hội.

Tại Xê-da-rê Phi-líp-phê, Đức Giê-su đã công bố vai trò (nêu trên) của thánh Phêrô, trước Nhóm Mười Hai. Và, thật chính đáng khi chúng ta nghe lại sự kiện trọng đại này qua Tin Mừng Mát-thêu. (Mt 16, 13-19).

**
Theo Tin Mừng thánh Mát-thêu ghi lại, chuyện được kể rằng: “Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Philipphe. Người hỏi các môn đệ rằng: Người ta nói Con Người là ai?”

Hôm đó, sau một vài phút trầm ngâm, một vài tiếng nói, trong nhóm các ông, đã thốt lên rằng: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.”

Nghe xong, hướng ánh mắt về các môn đệ, Đức Giê-su hỏi tiếp, câu hỏi rằng: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Người môn đệ tên là Phê-rô, như là đại diện cho nhóm mười hai, thưa với Đức Giêsu rằng, “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (Mt 16,16).

Câu trả lời của ông Phê-rô đã được Đức Giêsu khen là “có phúc”. Vâng, Ngài đã nói với ông, rằng: “Này anh Si-môn con ông Gio-na, anh thật là người có phúc vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.”

Không để thời gian lãng phí, Đức Giêsu nói tiếp: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.”

Và rồi, giây phút trọng đại đến. Không “khói đen... khói trắng”, chỉ nghe thấy tiếng Đức Giêsu dõng dạc tuyên bố: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” (Mt 16,19).

***
Chúa Nhật hôm nay (29/06/ 2025), toàn thể Giáo Hội mừng kính trọng thể hai thánh Phê-rô và Phao-lô tông đồ.

Khi nói tới tông đồ Phao-lô, đa phần người ta đều nghĩ đến cú ngã ngựa của ngài tại Damas. Còn nói tới tông đồ Phê-rô ư! Vâng, chúng ta luôn nghĩ tới ngài như là một kẻ ba lần chối Chúa.

Thật ra, khi nói về các ngài, điều đầu tiên chúng ta phải nói, rằng các ngài là những con người can đảm, nhiệt thành, đã dám “bỏ hết mọi sự” và đi theo Thầy Giê-su.

Với Phê-rô, Kinh Thánh thuật lại rằng, khi Đức Giê-su gọi “Các anh hãy theo tôi”, Phê-rô và người anh là An-rê, lập tức “bỏ thuyền, bỏ cha lại mà đi theo Người”.

Chưa hết! Tại Ca-phác-na-um, khi Đức Giê-su tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống.” (x.Ga 6, 54-55).

Ngay lập tức, nhiều môn đệ của Đức Giê-su nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” Thế là… “nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa.”

Thế rồi, Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Si-môn Phê-rô, chính ông, chứ không là ai khác, liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.”

Vâng, Phê-rô ba lần chối Chúa. Nhưng, khi nhớ lại lời của Đức Giê-su đã phán cùng mình rằng: “Trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần.” Ông đã “ra ngoài, khóc lóc thảm thiết” (Mt 26, 75).

Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, có ai dám nói nước mắt của ông Phê-rô là nước mắt cá sấu! Không! nước mắt của ông là “Giọt lệ ăn năn sám hối. Là giọt lệ xin ơn tha thứ. Những lầm lỗi qua, bao ngày tháng xa ân tình…”

Thế nên, đừng bao giờ nhớ chuyện Phê-rô ba lần chối Chúa, nữa. Có nhớ, hãy nhớ chuyện Phê-rô “ba lần” tuyên bố tình yêu của mình với Đức Giê-su.

Chuyện thuật lại rằng: Sau khi từ cõi chết trỗi dậy, Đức Giê-su “lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a”. Hôm ấy, Đức Giê-su hỏi ông Phê-rô: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?” Ba lần hỏi, cùng một nội dung, và ông Phê-rô cũng đã ba lần đáp lời cùng một nội dung, rằng: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.”

Và đây… đây là điều đáng phải nhớ nhất. Hôm ấy, Đức Giê-su trao cho ông Phê-rô nhiệm vụ, nhiệm vụ: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy.” Đức Giê-su nói tới ba lần, như muốn khẳng định, chỉ là Phê-rô.

Còn với Phao-lô ư! Thưa, cũng vậy. Sau biến cố ngã ngựa tại Damas, ông đã bỏ mọi thứ vinh hoa phú quý của một Phariseu, để trở thành tông đồ của Đức Giê-su.

Chưa hết, là một công dân Roma, thánh Phaolô có một thứ quyền “phải tốn bao nhiêu tiền của mới mua được”, đó là quyền công dân Roma. Oai phong lắm chứ! Thế mà ngài Phaolô dám “từ bỏ” cái quyền công dân ấy, với niềm tin rằng: “Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng cho (ông) trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho (ông) nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.” (2Tm 4, 8).

****
Hôm nay, chúng ta được nhìn lại hành trình theo Đức Giê-su của hai tông đồ Phê-rô và Phao-lô.

Nhìn lại để tự hỏi mình rằng, hành trình theo Chúa của hai vị, có là nguồn cảm hứng cho đời sống đức tin của mỗi chúng ta! Nhìn lại để tự hỏi mình rằng, chúng ta có để cho Chúa sử dụng mình như đã sử dụng hai tông đồ Phê-rô và Phao-lô!

Nói rõ hơn, chúng ta có để cho Chúa sử dụng mình như một cánh tay nối dài của Ngài, cho một thế giới, cho một xã hội, hôm nay!

Mà, tại sao lại không, nhỉ! Hãy nhìn xem, chẳng phải xã hội hôm nay, vẫn còn không ít người “như chiên lạc không người chăn dắt”, đó sao! Chẳng phải là nó ở ngay trong gia đình mỗi chúng ta , đó sao! Chẳng phải là con em chúng ta, không ít cháu, đã và đang “lạc lối giữa dòng đời”, đó sao!

Thế nên, thật phải đạo khi chúng ta hãy tiếp nối sứ vụ của thánh Phê-rô: “chăm sóc những con chiên của Chúa, đang lạc lối giữa dòng đời”. Chúng ta hãy tiếp nối sứ vụ của thánh Phê-rô: “chăn dắt những con chiên của Chúa, đang lạc lối giữa dòng đời”.

Làm như thế, đó là chúng ta làm cho ngôi nhà Hội Thánh có thêm nhiều “tảng đá” ngõ hầu vững mạnh trước “quyền lực tử thần”.

Thời đại thánh Phê-rô qua rồi. Bây giờ là thời Đức Giáo Hoàng Le-o. Thế nên, chúng ta cũng đừng quên: “Cầu xin cho Đức Giáo Hoàng Lê-ô. Chúa gìn giữ Người, tăng gấp sinh lực và ban cho Người đời này hạnh phúc. Đừng trao Người cho ác tâm quân thù, đừng trao Người cho ác tâm quân thù.”

Petrus.tran

Thứ Bảy, 21 tháng 6, 2025

Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô

 Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô

tbd 210625a


Như chúng ta đã biết, giáo lý Công Giáo dạy rằng: Có bảy phép Bí Tích: Thứ nhất là bí tích Rửa tội. Thứ hai là bí tích Thêm sức. Thứ ba là bí tích Thánh Thể. Thứ bốn là bí tích Giải tội. Thứ năm là bí tích Xức dầu thánh. Thứ sáu là bí tích Truyền chức thánh. Thứ bảy là bí tích Hôn phối.

Trong bảy bí tích, có ba bí tích mà bất cứ ai đã là một Ki-tô hữu đều phải lãnh nhận. Đó là: bí tích Rửa tội, bí tích Thêm sức và bí tích Thánh Thể. Hai bí tích Rửa tội và bí tích Thêm sức chỉ lãnh một lần trong đời. Còn bí tích Thánh Thể thì được phép lãnh nhận nhiều lần trong đời… lãnh suốt đời, cho tới chết.

Khi nói đến Bí tích Thánh Thể hay còn được gọi là Bí Tích Mình Thánh Chúa, có thể nói đó là Bí Tích quan trọng nhất, quan trọng là bởi bí tích này “ban chính Chúa Giêsu là nguồn mạch mọi ơn Thánh cho ta.” Chính Chúa Giê-su “thực sự hiện diện dưới hình bánh rượu, làm của nuôi linh hồn ta, làm cho ta nên giống Chúa và kết hợp chúng ta trong tình yêu Chúa.”

Chất thể của bí tích Thánh Thể “là rượu, bánh và nước.” Mô thể của bí tích Thánh Thể là lời truyền phép: “Này là Mình Ta sẽ bị nộp vì các con… Này là chén Máu Ta, máu sẽ đổ ra vì các con…”

Trong bữa tiệc Lễ Vượt Qua, trước khi chịu chết, Đức Giêsu lập bí tích này. Hôm ấy, Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán: “Hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Ta. Hãy cầm lấy mà uống, này là Máu Ta.”

Đức Giê-su đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Đồng thời, Ngài còn có lời truyền dạy, rằng: “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.”

Hơn hai ngàn năm trôi qua, Giáo hội vẫn-làm-việc-này, mỗi ngày… mỗi tuần… cho đến tận thế. Và vẫn nhớ-đến-Chúa, nhớ rằng Ngài từng nói: “Tôi đến là để chiên được sống và sống dồi dào.”

Vâng, trong ba năm ra đi rao giảng Tin Mừng, đã có lần, khi nhìn thấy đoàn dân đông đúc đi theo, Đức Giêsu không khỏi “chạnh lòng thương xót” và Ngài đã thốt lên với các môn đệ rằng: “họ như bầy chiên không người chăn dắt”...

Để rồi, một ngày nọ tại Bét-xai-đa, Ngài đã hiện thực hóa những ưu tư của mình, qua một phép lạ vô tiền khoáng hậu, đó là “hóa bánh ra nhiều” cho một đoàn dân đông đúc theo mình, ăn no nê.

Sự kiện này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Lu-ca.

**
Theo Tin Mừng thánh Lu-ca ghi lại, chuyện được kể rằng: Hôm đó, khi biết Đức Giê-su và các môn đệ đến Bét-xai-đa, không rõ vì cớ gì mà nhiều người biết, thế là người này rỉ tai người kia, và kết quả là có rất đông người “liền đi theo Người”.

Nhìn đoàn dân đông đúc vây quanh, Đức Giê-su không khỏi chạnh lòng thương xót, thế nên, “Người tiếp đón họ”. Tiếp đón họ với tâm tình của một người mục tử đầy lòng thương xót. Và cũng như bao lần khác, Ngài “nói với họ về Nước Thiên Chúa”, đồng thời “chữa lành những ai cần được chữa” (x.Lc 9, 11).

Rồi khi ngày “bắt đầu tàn…” Chuyện kể tiếp rằng: “Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giê-su thưa Người rằng: “Xin Thầy cho đám đông về để họ vào các làng mạc và nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta ở đây là nơi hoang vắng.”
Các môn đệ vừa dứt lời thì Đức Giêsu nói một cách quyết liệt rằng: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Lc 9, 13).

Nhóm Mười Hai nhìn nhau. Và họ đồng thanh lên tiếng: “Chúng con chỉ có vọn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này” (x.Lc 9, 13).

Vâng, hôm đó, trong khi các môn đệ đang lúng túng vì số lương thực quá ít ỏi. Còn số lượng người hiện diện, theo thống kê, khoảng năm ngàn người. Thế nhưng, Đức Giê-su vẫn bình thản nói với các ông rằng: “Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một”. Nghe theo lệnh truyền của Thầy mình, “các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi xuống”.

Đang khi mọi người ngồi thành từng nhóm năm mươi, Đức Giê-su, rất trang trọng, Ngài: “cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông” (Lc 9, 16).

Vâng lời Thầy, các ông dọn ra… và rồi mọi người đều ăn. Ăn nhiều, ăn ít tùy thích. Tin Mừng thánh Luca ghi lại: “Ai nấy được no nê”.

Chưa hết, chuyện kể tiếp rằng: “Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng”. (Lc 9,17).

***
Chúng ta vừa nghe lại câu chuyện Đức Giê-su “hóa bánh ra nhiều”. Câu chuyện này được ghi trong cả bốn sách Tin Mừng: Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an. Riêng Tin Mừng thánh Gio-an, ngài thánh sử có ghi thêm một chi tiết, đó là: dân chúng muốn tôn Đức Giê-su “làm vua”. Đức Giê-su biết và “Người (đã) lánh mặt… đi lên núi một mình” (x.Ga 6, 15).

Vâng, không quá khó để hiểu sự lánh mặt của Đức Giê-su. Ngài đến thế gian không phải để “làm vua”, nhưng là để thế gian “nhờ (Ngài) mà được cứu độ”.

“Hóa bánh ra nhiều” cho ai-nấy-được-no-nê chỉ là để giải quyết cơn đói “thuộc thể” nhất thời, mà thôi. “Hóa bánh ra nhiều” chính là bài học "khai tâm", khai sáng tâm hồn mọi người hướng tới một thứ “lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh”.

Tại Ca-phac-na-um Đức Giê-su có lời khuyến cáo đến những người tìm gặp Người rằng: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.”

Đức Giê-su, qua việc “hóa bánh ra nhiều”, Ngài muốn chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ, để sau này ngay tại bàn tiệc trong lễ Vượt Qua, các ông hiểu được ý nghĩa của việc “Hóa Bánh” - một tấm bánh “để ai ăn thì khỏi phải chết (và) sẽ được sống đời đời”.

Thật vậy, tại bữa tiệc Vượt Qua. Cũng vẫn là những cử chỉ quen thuộc. Đức Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói; Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy…” (Mt 26, 26).

Giờ đây, bánh không còn là bánh nữa. Nhưng là “Mình Thầy, hiến tế vì anh em”. Cũng vậy, rượu không còn là rượu. Nhưng là “Máu Thầy, máu Giao Ước đổ ra cho muôn người được tha tội”. Một Giao Ước mới được lập ra. “Cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến” (x.Lc 22,18).

Đó… đó là lý do, hôm nay, toàn thể Giáo Hội long trọng cử hành Lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô. Và, thật chính đáng để nghe lại lời Đức Giêsu đã nói năm xưa: “Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống đời đời” (Ga 6,54-55).

****
Trở lại với câu chuyện Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều. Dù câu chuyện đã xảy ra hơn hai ngàn năm, thiết tưởng, nó vẫn còn tính thời sự đối với chúng ta, hôm nay. Nói rõ hơn, lời Đức Giê-su nói với các môn đệ xưa: “Chính anh em hãy cho họ ăn”, cũng là lời Ngài nói với chúng ta, hôm nay.

Vâng, chính chúng ta. Chính chúng ta “hãy cho họ ăn”. Vẫn còn… vẫn còn đó, rất nhiều người “ngồi quanh đây trán in vết nhăn”, cần chúng ta cho-họ-ăn.

Họ đang nhăn nhó vì vẫn chưa được chúng ta bảo ngồi lại “thành từng nhóm năm mươi người”. Họ đói khát sự công bằng và bác ái. Họ đói khát chân lý và sự thật. Họ đói khát sự sống đời đời. Họ đói khát lời Đức Chúa Trời. Họ đói khát “Tình Yêu Thương của Thiên Chúa”.

Ai sẽ cho họ ăn? Thưa, có phần chắc, nếu Đức Giê-su hiện đến, Ngài sẽ nói: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Đúng vậy, chính chúng ta.

Chúng ta phải là những nhà sản xuất, sản xuất ra những loại lương thực “bác ái, nhân hậu, từ tâm, hiền hòa, trung tín, tiết độ” để cung cấp cho họ, ngõ hầu họ có thể thỏa mãn những cơn đói, nêu trên.

Chúng ta sẽ đủ sức sản xuất ra những loại lương thực này “nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí (và) nhờ Thần Khí mà tiến bước”.

Chúng ta cũng đừng quên, con cháu của chúng ta. Con cháu của chúng ta cũng là những người cần những loại lương thực “bác ái, nhân hậu, từ tâm, hiền hòa, trung tín, tiết độ”.

Có thể nói rằng, chưa bao giờ chúng ta phải chứng kiến một thế hệ con cháu chúng ta, tăng trưởng chiều cao thể xác một cách bất thường, nhưng lại “lùn tâm linh – thiểu năng tâm hồn”, một cách tệ hại.

Vì sao? Phải chăng, vì con cháu chúng ta quá dư thừa một thứ “man-na ăn vào rồi cũng chết”, nhưng lại thiếu một thứ “lương thực thường tồn” đem lại sự sống đời đời”?

Thưa, đúng vậy. Chúng ta quá quan tâm đến thể xác con em mình. Chúng ta không tiếc rẻ tiền bạc, thời gian lo cho con em mình phát triển tài năng, học thức. Đó là điều tốt. Thế nhưng, một con người thiểu năng tâm hồn cũng như lùn tâm linh, có phần chắc, xã hội cũng như Giáo Hội, chỉ rặt những con người, sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi.

Trách nhiệm thuộc về ai, nếu không phải là chính chúng ta! Thế nên, việc của chúng ta hôm nay, là hãy đưa con em mình đến nơi chúng có thể nhận lãnh lương thực thường tồn.

Nói rõ ra, đó là hãy đưa con em mình đến nhà thờ. Nơi đây, qua thánh lễ, con em mình sẽ có hai “món ăn” để nuôi dưỡng phần thuộc linh. Đó là món ăn “Lời Chúa” qua phần phụng vụ Lời Chúa, và món ăn “Mình Máu Thánh Chúa” nơi bàn Tiệc Thánh Thể.
Hãy làm tròn trách nhiệm của mình với những người “ngồi quanh đây trán in vết nhăn”. Hãy làm tròn trách nhiệm của mình với con cháu của chúng ta.

Vâng, Kinh Thánh có lời dạy: “Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh”. Thế nên, đã là một Ki-tô hữu, chúng ta hãy vâng-lệnh-Chúa-và-theo-lời-Người-dạy: “Anh em hãy cho họ ăn.”

Petrus.tran

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

Vinh quang Chúa Ba Ngôi.

 Lễ Chúa Ba Ngôi

Vinh quang Chúa Ba Ngôi

snTM 140625a


Theo truyền thống hằng năm, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội long trọng cử hành lễ Chúa Ba Ngôi.

Chúa Ba Ngôi nghĩa là gì! Thưa, nghĩa là, chỉ có một Thiên Chúa nhưng có Ba Ngôi: ngôi thứ nhất là Chúa Cha, ngôi thứ hai là Chúa Con và ngôi thứ ba là Chúa Thánh thần. Ba Ngôi tuy riêng biệt, nhưng cùng một bản thể duy nhất và một uy quyền ngang nhau.

Khi nói đến Chúa Ba Ngôi, vào thời Cựu Ước, khái niệm này chưa được thể hiện rõ ràng. Theo lời chia sẻ của Cha Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn thì: “Mầu Nhiệm này đã không được mặc khải trong Kinh Thánh Cựu Ước, có lẽ để tránh bối rối cho Dân Do Thái vốn quen với não trạng ‘độc thần = monotheism’, theo đó họ chỉ biết tôn thờ một Thiên Chúa Yaweb là Cha của các Tổ Phụ Abraham, Isaac và Jacob và cũng là Thiên Chúa đã giải phóng họ, qua bàn tay ông Môisen, khỏi ách thống khổ bên Ai Cập, được an toàn trở về quê hương.

Nghĩa là họ không biết gì về Chúa Kitô, Đấng đã xuống trần gian làm Con Người để cứu chuộc cho nhân loại khỏi chết vì tội. Cũng như không biết Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý, là Đấng ban sự sống, đã khai sinh Chúa Giêsu trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã phục sinh Chúa Giêsu-Kitô từ cõi chết sau ba ngày nằm trong mồ đá.” (nguồn: internet).

Tuy nhiên, Kinh Thánh Cựu Ước vẫn có những đoạn văn hé lộ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Chúng ta có thể bắt đầu với đoạn mở đầu sách Sáng Thế.

Với đoạn mở đầu, trình thuật đã mô tả, rằng “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” (x.St 1, 1-2) Hoặc đoạn “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta…”.

Dựa vào chữ “thần khí Thiên Chúa bay lượn” cùng với chữ “chúng ta”, một số nhà chú giải Kinh Thánh đã xem những lời lẽ đó như là sự hé lộ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Và họ đã có lời chia sẻ rằng: “Trong Cựu Ước, Chúa Cha được mô tả là Đấng Tạo Hóa, còn Chúa Con được thể hiện qua các hình ảnh về sự khôn ngoan của Thiên Chúa, sự hiện diện của Ngôi Lời, và các lời hứa về Đấng Cứu Thế. Việc khám phá về Ba Ngôi Thiên Chúa được hoàn thiện hơn trong Tân Ước.” (nguồn: internet).

Đúng vậy. Tân Ước, qua trình thuật Chúa Giêsu nhận phép rửa của thánh Gioan Tẩy Giả trong sông Gio-dan, chúng ta được biết “Chúa Thánh Thần – ngôi thứ ba” đã ngự xuống trên Ngài, dưới hình dáng chim bồ câu, và tiếng nói của “Chúa Cha – ngôi thứ nhất” lần đầu được nghe từ trời cao phán: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.” (Lc 3, 22). “Con là Con của Cha” – chẳng phải là Chúa Giê-su, ngôi thứ hai, sao!

Cuối cùng, đó là lời huấn từ của Chúa Giêsu nói với các môn đệ, trước giờ phút sinh ly tử biệt, như một cách mặc khải mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.

Vâng, lời huấn từ rằng: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.” (Ga 16, 12-15).

Chỉ có tám mươi tám chữ… Vâng, với tám-mươi-tám-chữ, Đức Giê-su cho chúng ta nhìn thấy rõ nét về Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Ngôi thứ nhất là Chúa Cha: mọi-sự-Chúa-Cha-có… Ngôi thứ hai là Ngài: đều-là-của-Thầy. Ngôi thứ ba là Thánh Thần: Khi nào Thần Khí sự thật đến… Người-lấy-những-gì-là-của-Thầy.

***
Một Chúa Ba Ngôi: “Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Vâng, Giáo Hội đã gọi đây là MẦU NHIỆM TRUNG TÂM CỦA ĐỨC TIN KI-TÔ GIÁO.

Gọi đây là MẦU NHIỆM TRUNG TÂM CỦA ĐỨC TIN, bởi vì Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi còn được gọi là “Mầu Nhiệm Tình Yêu và Hiệp Nhất”.

Đúng thế. Kinh Thánh nói: “Thiên Chúa là tình yêu”. Và Chúa Cha, chẳng phải Người “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”, đó sao!

Với Chúa Con ư! Thưa, Ngài “đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ (Ngài) mà được cứu độ”,

Với Chúa Thánh Thần? Vâng, nói đến Người, đó là nói đến tuyệt tác của sự-hiệp-nhất.

Thật vậy, trong ngày lễ ngũ tuần, khi Thánh Thần Chúa hiện xuống, người ta đã thấy rõ nét về một sự hiệp nhất vô tiền khoáng hậu, đó là: hiệp nhất mọi người ở khắp mọi nơi, từ “Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam,Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Pon-tô, và A-xi-a v.v…”, tất cả họ đều có thể nghe “tiếng mẹ đẻ” của mình, dù người nói với họ chỉ là một chàng Phê-rô chài lưới quê mùa, với giọng Do Thái nặng nề của miền Galile.

Hơn thế nữa, chính nhờ Chúa Thánh Thần, mọi người mới có thể trở nên “con cái Thiên Chúa”, nhờ đó mọi người có thể gọi Người là “Áp-ba! Cha ơi”.

Chúa Cha yêu thế gian. Chúa Con cứu chuộc thế gian, Chúa Thánh Thần hiệp nhất thế gian. Vậy! có gì không phải, khi chúng ta gọi mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là “Mầu Nhiệm Tình Yêu và Hiệp Nhất”.  

****
Khi đã xem, đã gọi mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là “Mầu Nhiệm Tình Yêu và Hiệp Nhất” và là mầu-nhiệm-trung-tâm-của-đức-tin, chúng ta phải làm gì? Phải chăng là noi gương ngôi-hai-Thiên-Chúa “sống cho tình yêu chết cho tình yêu”!?

Câu trả lời… câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, nếu chúng ta không sống-cho-tình-yêu-chết-cho-tình-yêu, chúng ta không được gọi là môn đệ Chúa Giê-su.

Không được gọi là môn đệ Chúa Giê-su, bởi vì, Chúa Giê-su có nói: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 34-35).

Thế nên, hãy-sống-cho-tình-yêu-chết-cho-tình-yêu. Bởi, có sống như thế, chúng ta mới có thể trở thành “khí cụ bình an của Chúa”.

Và, một khi trở thành “khí cụ bình an của Chúa”, chúng ta mới có thể “Đem yêu thương vào nơi oán thù. Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục. Ðem an hòa vào nơi tranh chấp. Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm.”

Chưa hết đâu! Chúng ta sẽ có thể: “Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng… Ðem niềm vui đến chốn u sầu.” Còn nữa, chúng ta còn có thể “Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu”.

Đem yêu thương - Đem thứ tha - Ðem chân lý… Tìm yêu mến người… nói không sợ sai... đó là chúng ta đã làm “Sáng Danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”.

Nói ngắn gọn, chúng ta đã làm Vinh quang Chúa - Vinh quang Chúa Ba Ngôi.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2025

Ngài ơi! Xin Ngài hãy đến!

 Ngài ơi! Xin Ngài hãy đến!

snTM 070625a


“Thánh Thần, khấn xin ngự đến! Hồn con đang mong chờ Ngài. Suối nguồn thánh ân hiện xuống! Này dương gian, xin Ngài đổi mới. Ngài ơi, xin Ngài hãy đến!  Chiếu sáng thế gian u mê tối tăm. Ngài ơi, xin Ngài hãy đến! Hiển linh Ngài ơi!”

Những dòng chữ trên đây, là trích đoạn của bài thánh ca mang tên “Thánh Thần Hãy Đến”. Tác giả: Lm. Thành Tâm.

Thánh Thần là ai? Thưa, giáo lý Công Giáo dạy rằng: “Chúa Thánh Thần là ngôi thứ ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy.”

Khi nói tới Chúa Thánh Thần, cố Giáo hoàng Phanxico  đã có bài huấn từ gửi đến 100.000 tín hữu và du khách hành hương hiện diện ở quảng trường thánh Phêrô, trong buổi triều yết chung thường lệ, sau đây: “Chúa Thánh Thần là ‘nước hằng sống’. Người làm cho tín hữu được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa Tình Yêu và khiến cho cuộc sống của họ được Thiên Chúa soi sáng, canh tân, biến đổi, hướng dẫn, linh hoạt và dưỡng nuôi”. (nguồn: internet)

Thế nên, có thể nói, Chúa Thánh Thần là một hồng ân, một hồng ân mà xưa kia Đức Giê-su đã “xin Chúa Cha ban cho” các môn đệ,  (và tất nhiên là có cả chúng ta, hôm nay). 

Thánh Gio-an, một  người môn đệ trong Nhóm Mười Hai, cho biết rằng: Hôm ấy, trước giờ phút sinh ly tử biệt, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ, rằng: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.” (x.Ga 14, 16-17).

Và, quả thật, Nhóm Mười Hai, trừ Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đã “nhận lấy Thánh Thần”, sau khi Đức Giê-su phục sinh và hiện ra với các ông. 

Vâng, biến cố đó được kể lại như sau: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”.

Lý do gì các ông sợ người Do Thái! Thưa, là bởi, sau khi nhóm thượng tế và các kỳ mục được “mấy người lính trong đội canh mồ” báo cho biết sự việc Đức Giê-su đã trỗi dậy, họ cho lính một số tiền lớn và bảo họ tung tin đồn rằng, “ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác” Mà…thời đó, trộm xác là một tội rất nặng. Do vậy, trước những tin đồn ác ý đó, tình trạng của các môn đệ chẳng khác nào những “con chim ẩn mình chờ chết”. Thế nên,  các ông sợ là điều tất yếu.

Đang lúc tâm hồn các ông chết dần chết mòn trong nỗi sợ, thì… “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em”. Nói xong… chuyện kể tiếp rằng: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Các môn đệ  “vui mừng vì được thấy Chúa”.

Rồi, phút linh thiêng, đến. Nhìn các môn đệ vui mừng, Đức Giêsu nói: “Như Chúa Cha sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.

**

Tất cả các môn đệ đều được nhận lấy Thánh Thần, ngoại trừ tông đồ Tô-ma, vì ông không có mặt, hôm đó. 

Tám ngày sau, Đức Giê-su lại đến. Lần này, “có cả ông Tô-ma ở đó”. Đức Giê-su gọi Tô-ma và đã có một cuộc nói chuyện riêng với ông. Vâng , chỉ là một cuộc nói chuyện về sự yếu tin của ông.

Có người thắc mắc. Vậy, ông Tô-ma có được nhận lấy Thánh Thần? Thưa  có. Ông Tô-ma được nhận lấy Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần.

Ngày thứ 50, tính từ lễ Vượt Qua, theo quy định trong sách Lê-vi, người Do Thái có một ngày lễ, đó là Lễ Ngũ Tuần.

Hôm ấy, vào ngày lễ này, Chúa Thánh Thần đã xuống trên các môn đệ cách long trọng. Biến cố này đã được tường thuật trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 2,1-11).

Sách Công Vụ Tông Đồ thuật rằng: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho.” (Cv 2, 4).

Các môn đệ đã nói-các-thứ-tiếng-khác. Nhiều người hiện diện nơi đó đã phải “kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình” (Cv 2,6). Một số người khác đã “sửng sốt thán phục và nói: Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê sao? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?”

Nói tóm lại, các dân thiên hạ, dù là dân “Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a, Pon-tô, A-xi-a”, hoặc là dân “Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a, Ai-cập, Roma hay Do Thái, người đảo Cơrêta hay người Ảrập”, v.v… tất cả mọi sắc dân đó đều nghe các môn đệ “dùng tiếng nói của (họ) mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2, 11).

Vậy, những ai thắc mắc rằng, ông Tô-ma có được nhận lấy Thánh Thần không, thì giờ đây hết thắc mắc rồi nhé !

Tất cả các môn đệ đều được “nhận lấy Thánh Thần”.

***    

Thời đại Thiên Chúa sáng tạo đã qua. Thời kỳ Thiên Chúa cứu chuộc đã hoàn tất qua biến cố “chết, sống lại và lên trời” của Đức Giê-su Ki-tô. Và hôm nay, chúng ta đang sống trong thời kỳ cuối cùng – thời kỳ “Ân điển Chúa Thánh Thần”.

Thế nên, thật phải đạo khi chúng ta tự hỏi mình, rằng: Là một Ki-tô hữu, tôi đã nhận lấy Chúa Thánh Thần? Tôi đã có ân điển của Chúa Thánh Thần?

Nếu chưa? Quả là một sự nguy hiểm cho đời sống Ki-tô hữu của chúng ta.

Nguy hiểm ở chỗ, không có Chúa Thánh Thần, làm sao chúng ta có được “Ơn khôn ngoan”, để mà phân biệt đâu là lẽ phải, đâu là điều gian ác!

Không có Chúa Thánh Thần, làm sao chúng ta có được “Ơn hiểu biết”, để mà nhận biết đâu là lẽ thật để được hưởng sự sống đời đời!

Không có Chúa Thánh Thần,  làm sao chúng ta có được “Ơn sức mạnh – Ơn thông minh” để mà vượt qua những cám dỗ, những cạm bẫy tràn lan trong một xã hội duy vật vô thần như hôm nay!

Không có Chúa Thánh Thần, làm sao chúng ta có được “Ơn đạo đức – Ơn kính sợ Thiên Chúa” để mà tôn kính sự công bằng và quyền phép của Người?

Thế nên, chúng ta phải có ơn của Chúa Thánh Thần. Mà, có ai trong chúng ta lại chưa có… khi chúng ta đã lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức!

Do vậy, điều chúng ta cần phải làm, đó là: tuân thủ lời thánh Phao-lô khuyên dạy: “đừng dập tắt Thần Khí” (1Tx 5, 19). Nói cách khác, phải có ngọn lửa của Thần Khí” cháy bùng trong ta.

Cố Giáo hoàng Phanxico, có lời khuyến cáo: “Không có ngọn lửa của Thần Khí, những lời tiên tri sẽ bị dập tắt, nỗi buồn thay cho niềm vui, thói quen thay thế tình yêu, việc phục vụ trở thành nô lệ.”

Charles Spurgeon, một nhà truyền giáo Hoa Kỳ, nói quyết liệt hơn: “Nếu chúng ta không có Thánh Thần, chúng ta nên đóng cửa các nhà thờ. Nếu các giáo sĩ không có Thánh Thần, tốt hơn họ đừng rao giảng Lời Chúa và giáo dân nên ở nhà mà ngủ” (nguồn: 5/phút cho Lời Chúa).

Vì thế, ước gì lời khuyến cáo của ngài cố Giáo hoàng Phanxico, như một nguồn cảm hứng…  nguồn cảm hứng thúc giục chúng ta  khẩn-khoản-nài-xin… “Xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống. Sửa lại mọi sự trong ngoài (chúng ta)… An ủi dạy dỗ (chúng ta) làm những việc lành”.

****  

Chúa Nhật hôm nay (08/06/230235), toàn thể Giáo Hội long trọng  cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Chúng ta, chắc chắn chúng ta, cũng sẽ đến nhà thờ “tề tựu ở đây”. Vâng, chúng ta sẽ tề tựu và chúng ta sẽ nghe lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, qua phần Phụng Vụ Lời Chúa.

Riêng phần nhập lễ, chúng ta sẽ được nghe lời nguyện của Cha chủ tế, nguyện rằng: “Lạy Chúa, Chúa đã cử Thánh Thần đến thánh hoá Giáo Hội ngay từ buổi sơ khai, và sai đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Hôm nay khi mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng con nài xin Chúa tiếp tục công trình Chúa đã thực hiện và tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần cho mọi tín hữu trên khắp cùng thế giới. Chúng con cầu xin...”

“Tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần cho mọi tín hữu trên khắp cùng thế giới” chẳng phải là có cả chúng ta, sao!

Vâng, có chúng ta. Thế nên, thật là chính đáng  để chúng ta lớn tiếng nguyện rằng: “Ngài ơi! Xin Ngài hãy đến…”

Petrus.tran

 

Hãy để Chúa hoạt động trong ta

  Chúa Nhật XVI – TN – C Hãy để Chúa hoạt động trong ta Chọn lựa là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Ngay từ lúc thức...