Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2025

Chúa Giê-su… Đấng giàu lòng thương xót

 Chúa Nhật II Phục Sinh – C

Chúa Giê-su… Đấng giàu lòng thương xót

tbd 260425a


Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái có lời dạy rằng: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (x.Dt 11, 1).

Lời dạy nêu trên, theo một số nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng “chưa xác định được chính xác ai là tác giả”. Ai… ai là tác giả, không ai biết! Nhưng có phần chắc rằng, tác giả phải là một người trong Nhóm Mười Một, là những môn đệ đã được Đức Giê-su tuyển chọn.

Vâng, một người trong Nhóm Mười Một đã có lời truyền dạy như thế. Thế nhưng, ngày xưa, khi đối diện với sự kiện Đức Giê-su Phục Sinh, các vị tông đồ đã không dễ dàng nói “tôi tin”, đúng như tinh thần của lời dạy nêu trên. Đã có một vị tuyên bố, rằng: “Nếu tôi không thấy… tôi chẳng có tin”. Người đó chính là tông đồ Tô-ma.

Câu chuyện của tông đồ Tô-ma được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an. (Ga 20, 19-31).

**
Theo Tin Mừng thánh Gio-an ghi lại: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái”.

Phải nói rằng, các ông rất sợ hãi. Bởi vì, sau khi nhóm thượng tế và các kỳ mục được “mấy người lính trong đội canh mồ” báo cho biết sự việc Đức Giê-su đã trỗi dậy, họ cho lính một số tiền lớn và bảo họ tung tin đồn rằng, “ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác” (Mt 28, 13).

Tưởng chúng ta nên biết, vào thời đó, trộm xác là một tội rất nặng. Do vậy, trước những tin đồn ác ý đó, chuyện các môn đệ “tránh voi” cũng chẳng có gì “xấu mặt”.

Ngoài chuyện “tránh voi”, các môn đệ còn rất âu lo. Vâng, nếu tính từ hôm “thứ sáu”, là ngày Đức Giêsu bị đóng đinh trên cây thập tự tại núi Sọ, và hôm nay đã là “chiều ngày thứ nhất trong tuần”, nay đã quá bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Sắp hết ba ngày rồi! Thế mà, lời phán hứa của Thầy rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9, 31)… Ôi! Sao vẫn chưa thấy ứng nghiệm! Không âu lo sao được!

Đang lúc tâm hồn các môn đệ “…như lá úa trong cơn mê chiều, nhiều cơn gió cuốn xoáy xoay trong hồn và cơn đau này vẫn còn đây”, thì… không ai có thể tin được, “Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em”.

“Nói xong…” chuyện kể tiếp rằng: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”. Vâng, các môn đệ đã xem. Chúng ta có thể nghĩ rằng: các ông đã thấy rất rõ bàn tay và cạnh sườn in đậm dấu tích của vết đinh và mũi đòng, chứng tích của cuộc khổ nạn mà Ngài đã phải trải qua.

Kể từ đó, những giờ phút của âu lo, nơi các môn đệ, không còn nữa. Thánh sử Gio-an mô tả ngắn gọn, rằng: “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa”.

Các môn đệ đã thấy Chúa, một Chúa Giê-su Phục Sinh, một Chúa Giê-su “chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi” về những điều tồi tệ mà các ông đã thể hiện hôm Ngài bị bắt tại núi Oliu.

Hôm ấy, nhìn các môn đệ với ánh mắt thứ tha, Chúa Giê-su Phục Sinh đã ban cho các ông ơn tái sinh và quyền năng tha tội. Ngài nói: “Như Chúa Cha sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.

Tất cả các môn đệ đều được nhận lấy Thánh Thần, ngoại trừ tông đồ Tô-ma. Theo lời thánh sử Gio-an ghi lại: “Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-dy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến.”

Và, đó là lý do khi các môn đệ nói với ông: “chúng tôi đã được thấy Chúa”, ông Tô-ma đã không tin. Ông ta quan niệm rằng: “Bách văn bất như nhất kiến - Trăm nghe không bằng một thấy”.

Thế nên, rất lạnh lùng, ông Tô-ma đáp lời rằng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).

Tám ngày sau, “các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà”. Lần này, “có cả ông Tô-ma ở đó với các ông.” Vẫn mang tâm trạng “sợ người Do Thái”, nên các ông đóng kín các cửa ra vào ngôi nhà của mình.

Thế rồi, cũng như lần trước “Đức Giê-su đến đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em.” Nói xong, Đức Giê-su nhìn lần lượt từng người môn đệ, thấy không thiếu một ai, Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”

Ngước nhìn Đức Giêsu, ông Tô-ma nghẹn ngào thưa với Ngài: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28). Đáp lại, Đức Giêsu phán rằng “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,…29).

***
Thật ra, không chỉ có ông Tô-ma “cứng lòng tin”, các môn đệ khác cũng “cứng lòng tin” không kém gì ông Tô-ma.

Bằng chứng thứ nhất, đó là các môn đệ, những người được thánh sử Mác-cô mô tả “từng sống với Đức Giê-su”, dù đã nghe bà Maria Mác-đa-la nói “Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin” (x.Mc 16, 11).

Rồi tiếp đến là “(Chúa) tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường về quê. Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này” (Mc 16, 12-13).

Cuối cùng, Đức Giê-su, trong một lần tỏ mình ra cho “chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người trỗi dậy” (x.Mc 16, 14).

Dẫu sao, sự cứng lòng tin của Tô-ma, cũng như của những môn đệ khác, đã chứng minh rằng: các ông không hề là những người có một đức tin “mù quáng”. Chưa hết, sự cứng lòng tin của các môn đệ giúp chúng ta (hôm nay) có thêm được một mối phúc nữa, đó là: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.

Thế nên, hôm nay, điều chúng ta cần quan tâm đến, không phải là quan tâm đến lòng tin của các môn đệ xưa, nhưng là quan tâm đến lòng tin của chính mỗi chúng ta. Hãy tự hỏi mình rằng: Tôi có tuân theo lời Chúa Giê-su truyền dạy: không-thấy-mà-tin!

Trước khi về trời, Đức Giê-su đã có lời phán truyền rằng: “Và đây, Thầy ở lại cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, …20) Ở-lại-cùng-anh-em-mọi-ngày (trong đó có chúng ta), rất rõ ràng nhé! Vậy, dù không thấy Chúa-ở-cùng, chúng ta có tin không?

Câu trả lời là của mỗi chúng ta. Thế nhưng, nếu có lòng tin, chúng ta sẽ thấy Chúa đang ở cùng chúng ta. Ngài vẫn đang ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế nơi Bàn Tiệc Thánh Thể.

Nơi Bàn Tiệc Thánh Thể, chúng ta không chỉ nhận được lời chúc “Bình an cho anh em” qua vị linh mục chủ tế, mà còn được “đưa tay ra đặt vào Thân Thể Đức Ki-tô Phục Sinh”.

Chỉ cần một cử động, cử động của đôi chân bước lên “Bàn Tiệc Thánh Thể”, đón nhận “Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô”, là chúng ta có thể “thấy Chúa – gặp Chúa”.

Chúa Giê-su Phục Sinh là một vị Chúa giàu lòng tha thứ. Ngay hôm ấy, hôm chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giê-su còn ban cho các môn đệ (và hôm nay Giáo Hội được thừa hưởng) một món quà Phục Sinh đó là “quyền tha tội”, “một dấu chỉ tình yêu độc nhất của Thiên Chúa mà ta gọi là lòng thương xót của Ngài”.

Cha Charles E.Miller, kèm theo lời chia sẻ nêu trên, ngài còn thêm lời khuyên rằng: “Hôm nay, tốt hơn hết là anh chị em nên nhớ lại những phương tiện Chúa đã dùng để bày tỏ tình yêu đối với chúng ta, nhất là qua lòng thương xót và khoan dung của Ngài.”

Nên… nên-nhớ-lại. Và, cũng nên-tự-hỏi, rằng tôi có muốn có được “lòng thương xót và khoan dung của Chúa!” Vâng, tại sao lại không nhỉ!

Có ai trong chúng ta lại không là “tội nhân” trước mặt Thiên Chúa! Có ai trong chúng ta lại không có lúc “khích bác kẻ khác”! Có ai trong chúng ta lại không có lúc “đối xử với nhau lạnh nhạt”! Có ai trong chúng ta lại không có lúc “gây bất hòa, chia rẽ”!

Còn gì nữa không! Còn… còn đó là những điều khi “mắc phải” khiến chúng ta “không còn kính trọng Thiên Chúa – Cha Trên Trời của chúng ta”.

Thế nên, Chúa Nhật hôm nay (27/04/2025) Chúa Nhật “KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT (của) CHÚA”, thật phải đạo khi chúng ta cùng nhau cất tiếng cầu xin Chúa Giê-su Phục Sinh rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những Linh Hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.”

Vâng, chúng ta rất cần đến lòng-Chúa-thương-xót. Do vậy, hãy cầu xin và hãy tin, tin rằng: Chúa Giê-su là Đấng giàu lòng thương xót.

Petrus.tran

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2025

Đức Ki-tô đã sống lại...

 

Đức Ki-tô đã sống lại.

“Chúa hóa nên người vì thương chúng ta, sống kiếp con người lam lũ hy sinh. Chiến thắng khải hoàn quyền uy cõi chết Thiên Chúa chúng ta Phục sinh.” Những dòng chữ trên đây là trích đoạn của một bài thánh ca mang tên “Chúa sống lại rồi”, tác giả là Lm. Thành Tâm.

Đức Ki-tô đã sống lại.

Vâng, Chúa chúng ta đã Phục Sinh. Và, Chúa Nhật hôm nay (20/04/2025), toàn thể Giáo Hội long trọng cử hành Thánh Lễ Mừng Chúa Giêsu Phục Sinh.

Quý vị có vui không? Cha Thành Tâm vui lắm. Cha rất vui nên đã mời chúng ta “Cùng nhau ta hát khúc hát Chúa đã sống lại vui thay! Người ơi reo lên tiếng ca Phục sinh Allêluia. Ðồng thanh ta hát khúc hát Chúa đã Phục sinh quang vinh, Chúa ta thương ta Người đã hiển vinh.”

Niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh, không do tự Giáo Hội đặt ra, nhưng là do các thánh tông đồ truyền dạy, điều mà hôm nay chúng ta gọi là niềm tin tông truyền.

Các thánh tông đồ đã tin Chúa Giê-su Phục Sinh. Tuy nhiên, không như chúng ta hôm nay, rất… rất thanh thản tuyên xưng niềm tin Chúa sống lại, qua kinh tin kính, vào mỗi thánh lễ Chúa Nhật, rằng “Ngày thứ ba, Người sống lại thật như lời Thánh Kinh”.

Xưa, để có được niềm tin Đức Giêsu Phục Sinh, các tông đồ đã phải trải qua những thách thức, những giây phút chờ đợi, trong tâm trạng lo lắng và sợ hãi. Có thể nói rằng, sau khi Thầy Giê-su bị bắt và bị treo trên thập giá tại Golgotha, các ông chỉ có một việc ngồi đó âm thầm thở than: “Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”.

Với ông Phê-rô, có lẽ… có lẽ nửa hồn của ông đã “dại khờ” thật! Vâng, có dại khờ không khi ông đã “thề độc” trước một người tớ gái rằng: “Tôi thề là không có biết người các ông nói đó”. Người-các-ông-nói-đó chẳng phải là Thầy mình sao!

Còn ông Gio-an ư! Có lẽ ông đã để cho nửa hồn của mình trở lại đồi Gôn-gô-tha, nơi Thầy Giê-su bị đóng đinh. Làm sao ông có thể quên được hình ảnh “một tên lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn” Người! Làm sao ông quên được hình ảnh kẻ qua người lại nhục mạ Thầy Giêsu! Làm sao Gioan quên được trọng trách Thầy Giêsu đã giao phó Mẹ Maria cho mình “Đây là mẹ của anh”! Và cuối cùng, làm sao ông quên được tiếng nói nghẹn ngào của Thầy Giêsu “Thế là đã hoàn tất”!

Một đêm… rồi hai đêm… các vị tông đồ đã có tới hai đêm đợi chờ. Các thánh sử không nói tới, nhưng chúng ta có thể nghĩ rằng, có lẽ các ông đã lẩm bẩm với nhau: Chẳng lẽ lời phán hứa của Thầy Giê-su, rằng: “ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”… là lời phán hứa hão huyền sao đây!

Không! lời phán hứa của Thầy Giê-su, không hão huyền. Nó đã xảy ra. Chúa Giê-su đã sống lại, đúng vào “sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần”. Sự kiện vô tiền khoáng hậu này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an.

**
Tin Mừng thánh Gio-an ghi lại sự kiện này như sau: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mác-đa-la đi đến mộ”. Và, khi đã đến mộ, bà ta thấy “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”.

Trước sự việc kỳ lạ này, chuyện kể rằng: “bà ta liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và một người môn đệ Đức Giê-su thương mến.” Đứng trước mặt hai ông, bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”(Ga 20, 2).

Sau khi nghe những lời kể của Maria Mác-đa-la, không một chút chần chờ, “ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ.” Để rút ngắn thời gian “cả hai người cùng chạy”.

Hai người chạy như những vận đông viên chạy nước rút. Kết quả, tại nơi họ muốn đến, “người môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước”. Người môn đệ này “cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.”

Ông Si-môn Phê-rô (chạy) theo sau (và rồi) “cũng đến nơi”. Trong thinh lặng và hy vọng, ông Phê-rô “vào thẳng trong mộ”. Chuyện kể tiếp rằng: “ông thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại xếp riêng ra một nơi” (Ga 20,…7).

Người-môn-đệ-kia… “Kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin”. Vâng, ông đã tin dù không thấy Đức Giê-su mà chỉ thấy một “ngôi mộ trống”.

Chỉ thấy một ngôi-mộ-trống, thế nhưng, nó lại là chiếc chìa khóa, mở đôi mắt tâm hồn hai ông, để hai ông hiểu điều “trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết”.

***
Câu chuyện ngôi-mộ-trống đã xảy ra cách nay hơn hai ngàn năm. Và, câu chuyện này luôn được Giáo Hội nhắc đến một cách đặc biệt trong phần Phụng Vụ Lời Chúa vào Chúa Nhật Mừng Chúa Phục Sinh.

Vâng, phải luôn nhắc đến, bởi vì câu chuyện ngôi mộ trống không chỉ được xem như là câu chuyên nói lên “dấu chỉ Phục Sinh” của Đức Giê-su, nhưng còn “mang lại niềm hy vọng”, cũng như “có khả năng soi sáng thậm chí ngay cả những trải nghiệm tồi tệ nhất về sự sống và sự chết chóc mà ngày nay chúng ta có thể thấy mình đắm chìm trong đó”.

Cha Francesco Patton, Bề trên Dòng Phanxicô Quản thủ Thánh địa, trong một thông điệp Phục Sinh gửi các tín hữu, đã có lời chia sẻ như thế.

Mà, đúng là vậy. Bà Maria Mác-đa-la, đã ra ngôi mộ, và nếu không được thiên thần Chúa lên tiếng “soi sáng” rằng: “Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không còn ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay”, thì làm sao bà ta có thể “vui mừng chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su”, được! (x.Mt 28, 6-8).

Ngôi-mộ-trống còn nói với chúng ta điều gì? Thưa, Tổng Giám mục Giu-se Vũ-Văn-Thiên, trong một bài viết có tựa đề “ngôi mộ trống, có lời chia sẻ rằng: “Ngôi mộ trống nói với chúng ta: con người không chỉ có phần xác mà còn là phần linh hồn; không chỉ có hôm nay mà còn có ngày mai. Thật lạ lùng, từ 20 thế kỷ nay, ngôi mộ trống bình thường là thế mà lại thu hút biết bao khách hành hương tiến về Giêrusalem. Khá nhiều người đến cầu nguyện nơi đây đã được thay đổi cuộc đời. Họ đã nhận ra Thiên Chúa từ một ngôi mộ trống. Họ nhìn thấy tương lai từ một tấm huyệt mở. Họ đã gặp gỡ chính bản thân mình qua không gian đơn sơ mà linh thiêng này.”

Và, ngài TGM không quên cho chúng ta một lời khuyên dạy, lời khuyên dạy, rằng: “Dù chúng ta không thể hành hương đến Giêrusalem, ngôi mộ trống vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Lễ Phục sinh chuyển tải đến chúng ta một thông điệp: người tín hữu được sống lại cùng Đức Kitô, hãy cùng nắm tay nhau để giới thiệu một Thiên Chúa đang hiện diện, để cùng xây dựng tương lai từ ngày hôm nay”.

****
Làm thế nào để thực hiện lời khuyên dạy của ngài TGM Giu-se Vũ-Văn-Thiên? Thưa, điều thứ nhất và quan trọng nhất đó là chúng ta cần xác tín rằng: sự sống lại của Chúa Giê-su thật sự đã xảy ra.

Chúng ta xác tín bằng cách nào? Thưa, đó là sự liên hệ cá nhân của ta với Chúa Phục Sinh, trong đời sống hằng ngày của mình. Khi nối kết mối liên hệ cá nhân của ta với Chúa, chúng ta sẽ nhận thấy Chúa đang sống trong ta. Đang sống trong ta chẳng phải là Ngài đã sống lại từ kẻ chết, sao!

Muốn có mối liên hệ với Đức Giê-su một cách mật thiết, gần gũi ư! Vâng, hãy để cho mình có những giờ phút “biệt riêng”, biệt riêng nhất định mỗi ngày, với Chúa. Nói theo cách nói của cụ Nguyễn Công Trứ, đó là: chỉ là “ta với Ta”.

Nói đến ma túy, người ta thường nói “đừng nên thử, dù chỉ một lần”. Nhưng với chuyện muốn có được một mối liên hệ với Đức Giê-su một cách mật thiết, chúng ta nên thử, không chỉ một lần mà là nhiều lần. Hãy có nhiều lần có những giờ phút “biệt riêng”, biệt riêng nhất định mỗi ngày, với Chúa.

Khi chúng ta tin rằng Chúa Giê-su đã phục sinh về phương diện lịch sử, đồng thời chúng ta có mối tương giao mật thiết với Ngài, hằng ngày, chẳng chóng thì chày, chúng ta sẽ không ngần ngại bày tỏ đức tin trong sự phục sinh của Ngài bằng cách chia sẻ với người khác.

Nói cách khác, đó là lúc chúng ta, theo gương bà Ma-ri-a Mác-đa-la, “chạy gặp” một ai đó để giới thiệu với họ “một Thiên Chúa đang hiện diện, để cùng xây dựng tương lai từ ngày hôm nay”.

Chúa Phục Sinh chiến thắng quyền lực của sự chết và satan, dù cho chúng và bè lũ của chúng đã và đang tìm mọi cách để triệt hạ Ngài. Thế nhưng, chúng hoàn toàn thất bại trước một Giê-su Phục Sinh.

Tuy vậy, chúng vẫn “chờ đợi thời cơ”, cám dỗ, phá hoại người đặt niềm tin nơi Đức Giê-su. Nói lên điều này để làm gì? Thưa, để chúng ta càng phải có mối liên hệ với Đức Giê-su một cách mật thiết, hơn nữa.

Có mối liên hệ với Đức Giê-su một cách mật thiết hơn nữa, sẽ giúp chúng ta không gục ngã trước mũi tên, làn đạn của những chước cám dỗ, những cám dỗ của gian dối, của lường gạt, của lạm dụng người khác v.v…

Tin Chúa Phục Sinh giúp chúng ta trung tín với Chúa, với mọi người và với Hội Thánh Ngài. Muốn những điều này sẽ là hiện thực trong đời sống của mình, hãy cùng “ông Phê-rô và người môn đệ kia… đi ra mộ”.

Vâng, không phải là đi ra ngôi mộ trống ở bên Giê-ru-sa-lem, mà là đi đến ngôi nhà thờ nơi giáo xứ của mỗi chúng ta. Tại đó, tại các giáo xứ đó, chúng ta sẽ tham dự một thánh lễ Mừng Chúa Phục Sinh, rất long trọng, vào Chúa Nhật tuần này. Và, trong thánh lễ, chúng ta sẽ thấy được một Giê-su Phục Sinh, qua việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể.  

Đừng quên, sau khi tham dự thánh lễ, chúng ta hãy mượn lời của Cha Gio-an Phê-rô Võ Tá Khánh, như một cách để chia sẻ niềm vui Chúa Phục Sinh của mình, rằng: “Ta hãy vui lên. Ta hãy nhốn nháo lên. Còn chờ gì nữa. Và hãy chạy lung tung mà nói với mọi người: Đức Ki-tô đã sống lại”.

Vâng, hãy nói với mọi người: Đức Ki-tô đã sống lại.

Petrus.tran

Thứ Bảy, 12 tháng 4, 2025

Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

 Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

tbd 120425a

 

Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần lễ tiếp theo được gọi là tuần “tam nhật thánh”, bắt đầu.

Tam Nhật Thánh được bắt đầu từ chiều thứ năm Tuần Thánh. Vào ngày này, Giáo hội cử hành một thánh lễ kỷ niệm việc Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể. Kế đến là thứ sáu Tuần Thánh, với ngày này, Giáo Hội tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giê-su.

Sau đó, vươn tới cao điểm là việc cử hành một thánh lễ trong đêm thứ bảy, gọi là Vọng Phục Sinh. Cuối cùng, kết thúc với một thánh lễ Mừng Chúa Phục Sinh được cử hành chính ngày Chúa Nhật Phục Sinh.

Trong ngày thứ sáu Tuần Thánh, hầu hết ở mọi giáo xứ đều có tổ chức cuộc “đi đàng Thánh Giá”. Mừng Chúa Giê-su Phục Sinh, mà không cử hành việc “đi đàng Thánh Giá”, thì đó là một thiếu xót lớn. Tại sao? Thưa, bởi vì đó là cách chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giê-su, rất sống động.

Không giản dị như những lời chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai sinh bởi Bà Maria Đồng Trinh, chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh giá, chết và táng xác, xuống ngục Tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại”, tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giê-su đem lại cho chúng ta một cái nhìn rõ nét “con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường…”

Tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giê-su, còn giúp chúng ta tìm được nguồn cảm hứng để dám cất tiếng nói với Ngài rằng: “Lạy Chúa, xin cho con bước đi theo Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài, Thập giá trên đường đời con đi”.

Giờ đây, chúng ta hãy mở đôi mắt tâm hồn mình, nhìn lại cuộc thương khó của Chúa Giê-su, qua những lời tường thuật chi tiết, được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca, sau đây.

**
Khởi đầu cuộc thương khó của Chúa Giê-su là sự kiện Ngài lên Giê-ru-sa-lem. Lên Giê-ru-sa-lem… Vâng, đây là điều Đức Giê-su nói với các môn đệ mình tới ba lần. Cả ba lần, với cùng một nội dung, rằng: “…Con Người bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá…”

Nhưng, hôm nay… hôm nay khi Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem, chuyện kể rằng: “Người đi tới đâu, dân chúng… lấy áo choàng trải xuống mặt đường. Rồi “khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các phép lạ họ đã thấy. Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!”

Về sự kiện này, thánh Mát-thêu có ghi thêm một chi tiết, đó là ngoài việc lấy áo choàng trải xuống đất, một số người khác “lại chặt nhành chặt lá mà trải lên lối đi.”

Lễ lá… một thánh lễ gọi là lễ lá, được Giáo Hội long trọng cử hành trước tuần tam nhật thánh, là dựa vào sự kiện này.

Như vậy, lời loan báo của Đức Giê-su rằng, lên Giê-ru-sa-lem các thượng tế và kinh sư, họ-sẽ-kết-án-xử-tử-Người, không đúng sao! Thưa, rất đúng. Các thượng tế và kinh sư “tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng.” (Mt 22, 46). Nói cách khác, “Giờ của Ngài” chưa đến!

Và “khi giờ đã đến”… thảm kịch, thảm kịch bắt đầu xảy ra, khi “Người đi ra núi Oliu”. Tại đây, trong thinh lặng của nguyện cầu, Đức Giêsu quỳ gối cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha”.

Có thể nói, lời cầu nguyện của Đức Giê-su, là lời cầu nguyện có-một-không-hai trên thế gian này. Có ai cầu nguyện xin Thiên Chúa điều mình muốn, nhưng rồi lại nói “xin đừng cho ý con thể hiện”, đâu!

Hơn hai ngàn năm trôi qua, đây là một lời cầu nguyện đã khiến biết bao con tim rung động… làm sao không rung động khi chính mình đối diện với đau buồn, đối diện với cô đơn, đối diện với phản bội.

“Cha ơi! Cha ơi! Bây giờ con buồn lắm, linh hồn con buồn lắm, nhưng sao Cha nỡ bỏ con. Cha ơi! Cha ơi! Bây giờ con sợ lắm, linh hồn con chìm đắm trong xao xuyến với cô đơn. Chén đắng! Nếu được con khỏi uống, nếu được con khỏi uống hồn con xiết bao ưu phiền. Chén đắng! Lẽ nào con chẳng uống lẽ nào con chẳng uống xin vâng ý Cha mà thôi.”

Cha Ân Đức, sau khi nghe lời cầu nguyện này, ngài đã để cho con tim mình hòa theo con tim của Đức Giê-su, qua bài thánh ca “chén đắng”, với phần trích đoạn nêu trên.

Vâng, chén đắng… rất đắng!

Đắng… vì có một người trong nhóm mười hai phản bội Ngài. Và tệ thật, bàn tay kẻ phản bội Ngài lại cùng đặt trên bàn với Ngài. Người đó chính là Giuđa Iscariot.

Đắng… đắng đến nỗi dẫu “có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người…” Đức Giê-su vẫn xao xuyến, bồi hồi… “mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất.” (Lc 22, …44).

Trở lại với Giuđa Iscariot. Vài hôm trước, tên phản bội đã âm thầm đi gặp các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ. Gặp để thảo luận về cách thức nộp Đức Giêsu cho họ và thương lượng về tiền thưởng cho y.

Cuộc thương lượng ngã ngũ, với một “bản hợp đồng” có điều khoản “cho hắn ba mươi đồng bạc”. Thế là “từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.”

Rồi, khi được Giuđa cho biết dịp thuận tiện đã đến, một toán người liền được các thượng tế và kỳ mục phái đi truy bắt Đức Giêsu. Họ đến núi Oliu, nơi Giu-đa biết chắc rằng Đức Giêsu cùng các môn đệ đang hiện diện.

Chẳng bao lâu, sự thinh lặng và trang nghiêm của nguyện cầu tại đây bị phá vỡ. Nó bị phá vỡ bởi “tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, tiếng loa vang”. Một đám đông xuất hiện. “Kẻ dẫn đầu là Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai. Hắn lại gần Đức Giê-su để hôn Người.”

Hôn Chúa! Vâng, chúng ta sẽ hôn chân Chúa vào ngày thứ sáu tuần thánh. Nhưng, nụ hôn của chúng ta có là nụ hôn của lòng mến Chúa! Hay lại là nụ hôn của Giu-đa. Một nụ hôn phản bội… nụ hôn thần chết!

Hôm ấy, nhìn thẳng vào mặt tên phản bội, Đức Giê-su bảo hắn: “Giu-đa ơi! Anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao!” Đúng vậy. Đó là ám hiệu mà y đã nói với đồng bọn: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy.”

Trở lại “hiện trường” vụ bắt bớ. Thấy mối nguy hiểm cho Thầy Giê-su, “những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: Lạy Chúa! Chúng con tuốt gươm chém được không?” Không đợi sự đồng ý của Đức Giê-su “một người trong nhóm chém tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai bên phải.” Thấy thế, Đức Giê-su lên tiếng: “Thôi ngừng lại. và Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành.”

Ba năm công khai rao giảng Tin Mừng. Đây không phải lần đầu tiên người ta tìm bắt Đức Giêsu. Đã nhiều lần người ta tìm cách giết Ngài, đe dọa và ném đá Ngài. Đức Giêsu đều tìm cách lánh đi. (Ga 8,59). Nhưng hôm nay, tại núi Oliu, Giêsu người Nazareth, Ngài đứng lặng “lòng xao xuyến bởi địch thù gào thét, bởi ác nhân hà hiếp”. (Tv 55).

Nhìn thẳng vào những kẻ đến bắt mình, Đức Giê-su lớn tiếng chất vấn họ: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến? Ngày ngày tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ mà các ông không tra tay bắt. Nhưng đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm”.

Chúng ta đang ngắm “Chặng Đằng Thánh Giá” thứ mấy nhỉ! Thưa, trước “chặng thứ nhất”. Vậy, nên chăng, gọi núi Oliu là chặng “mở màn”!

Vâng, ở chặng mở màn, lời Đức Giê-su nói “đây là giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm”, không có nghĩa là Ngài không thể chiến đấu và chiến thắng họ.

Theo lời tường thuật của thánh sử Mát-thêu, hôm đó Ngài đã nói với người chém đứt tai tên đầy tớ rằng: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm.”

Rất rõ ràng, Ngài lớn tiếng nói tiếp rằng: “Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mươi hai đạo binh thiên thần! Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng ngiệm sao được?”

Vâng, không có đạo-binh-thiên-thần nào đến. Phần Đức Giê-su - Người “giương mắt buồn say ngắm chân trời xa”, nơi “các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết.” (Mc 14, 50).

Bấy giờ, toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ người Do Thái liền ập đến bắt Đức Giêsu. Họ điệu Người đến nhà vị thượng tế. Người môn đệ tên là Phê-rô “thì theo xa xa”.

Một đống lửa được đốt giữa sân. Ông Phê-rô “đến ngồi giữa họ.” Thật không may, ông bị một người tớ gái nhận diện, cô ta nói với ông: “Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy!” Có thêm hai người nữa cũng đã nhận ra ông Phê-rô, họ quả quyết rằng: “Bác cũng thuộc bọn chúng…. Bác cũng đã ở với ông ấy, vì bác là người Ga-li-lê.”

Cả ba lần, ông Phê-rô đều ú ớ trả lời quanh co, rằng: “Tôi có biết ông ấy đâu! Không phải đâu! Tôi không biết anh nói gì!”.

Có, có tiếng “gà gáy… ngay lúc ông còn đang nói.” Đúng lúc đó “Chúa quay lại nhìn ông…” Vâng, chuyện kể rằng: “ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần. Và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.” (Lc 22, 61).

***
Như đã nói ở trên, Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay (13/10/2025) được gọi là Lễ Lá. Phụng Vụ Lời Chúa, ngoài việc nhắc lại biến cố Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem và đã được đông đảo dân chúng đón rước tung hô chúc tụng, còn nhắc đến sự kiện Đức Giê-su bị bắt tại núi Oliu.

Những bài đọc có vẻ khá dài, dài như đoàn người rồng rắn “dẫn độ” Đức Giê-su đến nhà vị thượng tế. Đoàn người rồng rắn này có hai người, mỗi người có một cái tên rõ ràng. Đó là Giu-đa Iscariot và Si-mon Phê-rô. Cả hai đều là môn đệ của Chúa Giê-su.

Nhắc đến điều này để làm gì? Thưa, để chúng ta tự hỏi mình rằng, tôi cũng là môn đệ của Chúa, liệu một lúc nào đó, tôi chính là Giu-đa Iscariot hoặc tôi cũng là Si-mon Phê-rô!

Nói rõ hơn, vào một giai đoạn nào đó trong cuộc đời mình, tôi có “bán đứng” Chúa chỉ vì quyền lợi, danh vọng, tiền bạc v.v…! Vào một giây phút nào đó, tôi có “chối Chúa” chỉ vì phải đối diện trước “sức mạnh của họng súng”!

Vào một lúc nào đó, chỉ vì yếu đức tin, tôi đã không dám “xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ”! Về điều này, rất… rất có thể lắm chứ!

Sau biến cố 30/04/1975, nhiều người không dám “xưng danh Chúa” nơi công cộng lắm lắm. Và, bây giờ, sau năm mươi năm, số lượng người không dám xưng-danh-Chúa, ngày một thêm đông.

Nhiều lắm… nhiều cách bán đứng Chúa, nhiều hình thức chối Chúa, lắm! Và, có phần chắc, không ai trong chúng ta lại không hơn một lần, phải nói lên quyết định của mình rằng, bán hay không bán, chối hay không chối…

Vâng, chúng ta sẽ phải đối diện, bởi vì hôm nay, vẫn là “thời của quyền lực tối tăm”. Thời mà satan và bè lũ của chúng, dùng mọi chiêu trò, để dụ dỗ chúng ta bán Chúa, chối Chúa.

Thế nhưng, đừng vì thế mà chúng ta run khiếp, mà chúng ta sợ hãi. Bởi vì “ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi, trong mọi nơi ngươi đi.” (x.Gs 1, 9).

Xưa, Thiên Chúa đã phán truyền “với con ông Nun là ông Giô-suê”, như thế. Và hôm nay, có phần chắc, Người cũng sẽ phán truyền với mỗi chúng ta, như thế.

Tuy vậy, điều chúng ta cần phải làm, để được Thiên Chúa “sẽ ở với ta, trong mọi nơi ta đi” đó là, khi “tay lỡ nhúng chàm”, chúng ta đừng như Giu-đa (Giu-đa làm gì, chúng ta biết rồi!), mà hãy theo gương tông đồ Phê-rô “ra ngoài, khóc lóc thảm thiết”.

Đó là dấu hiệu của “ăn năn và thống hối”, là điều mà Thiên Chúa luôn khuyến khích. Thiên Chúa, qua môi miệng ngôn sứ Isaia, có lời phán truyền, rằng: “Hãy đến, để cùng nhau tranh luận. Dù tội các ngươi đỏ như nhiễu điều, Ta sẽ tẩy sạch như tuyết. Dù có đỏ như son, Ta sẽ khiến trắng như lông chiên.”

Hôm nay, không phải cái tên là Giu-đa Iscariot, hoặc là Si-mon Phê-rô… mà là tên của mỗi chúng ta. Và, mỗi chúng ta hãy để tâm hồn mình chìm vào trong thinh lặng, trong thinh lặng “xét mình”.

Xét mình xong, tiếp đến, và chắc phải là vậy! Hãy đến “Bờ Đá Xanh Tạ Tội”… tạ tội với Chúa rằng: “Con giơ cao tay, xin tạ lỗi những ngày đã qua. Theo chân loài người, lên án Cha hiền hòa. Con giơ cao tay, xin lần nữa những lần thứ tha. Cho ân tình đầy, ngọt mối say đàn ca.”

Tạ tội như thế được chưa! Được nhưng chưa đủ. Còn phải đến “tòa giải tội… tạ tội”.

Đúng vậy, chúng ta “hãy đến tòa giải tội… tạ tội.”

Petrus.tran

Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2025

Đừng ném đá - đừng phạm tội.


Chúa Nhật – V  – MC – C 

            

             Đừng ném đá - đừng phạm tội.

d2444bd8-cd89-42e3-8e0c-ceef1907af3e.jpg


Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương chúng ta vì thế Chúa sinh ra. Chúa thương chúng ta vì Chúa muốn thương ta, vì Thánh ý của Ngài là luôn luôn thương ta.”

Vâng, những dòng chữ trên đây là điệp khúc của bài thánh ca có tựa đề: “Chúa thương chúng ta”, tác giả là Lm. Thành Tâm. Có thể nói, mỗi khi bài thánh ca này được hát lên, nó đã làm cho biết bao trái tim người nghe phải thổn thức.

Không thổn thức sao được, khi “Ca đoàn Cecilia - Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn” đồng thanh cất tiếng hát: “Ðâu phải ta ngoan mà Thiên Chúa mến thương ta, đâu phải ta hay để Ngài thương ta, nhưng do nơi lòng hay thương xót của Ngài, ngàn đời thời gian không xóa.”

Đúng vậy. Sách Thánh Vịnh cũng có lời chép rằng: “CHÚA là ĐẤNG từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm”. (Tv 102, 8-10)

Đó là chân lý ngàn đời. Và, chân lý ngàn đời này đã được Đức Giê-su tái khẳng định trong những ngày Ngài còn tại thế. Chân lý ngàn đời này, có khi được Đức Giê-su diễn đạt bằng dụ ngôn. Và, có lúc được thể hiện bằng chính con người thật của mình.

Nói về dụ ngôn, chúng ta biết rồi, đó là dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Còn về chuyện chính Đức Giê-su thể hiện ư! Thưa, đó là câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình”. Câu chuyện này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gio-an. (Ga 8, 1-11) 

**      

Chuyện được thánh sử Gio-an ghi lại như sau: Hôm ấy, “Vừa tảng sáng, Đức Giê-su trở lại Đền Thờ”. Biết Đức Giê-su trở lại, “toàn dân đến với Người”. Và, như một thông lệ, “Người ngồi xuống giảng dạy họ”.

Đức Giê-su đã giảng điều gì? Thưa, thánh Gio-an không nói đến. Điều ngài thánh sử đề cập đến, đó là: cùng lúc đó “các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.” (Ga 8, 3).

Và rồi, ngay lập tức, một vòng tròn đồng tâm khép kín được thiết lập bằng một nhóm đông người.  Đó là những ông kinh sư và Pha-ri-sêu, là những kẻ hiếu kỳ, là những người thích lên án người khác, với những “ánh mắt cuồng căm”. Người phụ nữ bị đẩy ra “đứng ở giữa”.

Khi mọi sự đâu vào đấy, họ lớn tiếng nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”

Thầy nghĩ sao ư! Vâng, đây là một câu hỏi rất khó xử cho Đức Giê-su.

Khó xử thứ nhất, đó là, nếu Đức Giê-su lên án theo đúng luật Mô-se, Ngài sẽ bị cho là qua mặt chính quyền Roma. Israel vào thời của Đức Giêsu thuộc quyền bảo hộ của đế quốc La Mã. Phán quyết về mạng sống của một người, không thuộc thẩm quyền của bất cứ một người công dân nào trong xã hội thuộc địa Do Thái. Thẩm quyền đó, thuộc về nhà nước bảo hộ La Mã

Khó xử thứ hai, nếu đồng ý lên án, Đức Giêsu sẽ tự tạo ra những mâu thuẫn, mâu thuẫn về những gì Ngài đã giảng dạy, như Ngài đã từng dạy, rằng: “anh em đừng xét đoán nhau… anh em hãy tha thứ”, và quan trọng hơn, đó là mất đi hình ảnh một con người “hiền lành và khiêm nhường”.

Còn nếu không lên án, thì sao! Trong trường hợp này, Đức Giê-su sẽ bị cho là dám chống lại bộ luật của Mô-se, bộ luật đã được lưu hành trong xã hội Do Thái từ khoảng năm 1250 trước Công Nguyên.

Nói tắt một lời, một câu hỏi như thế, nói theo cách nói của dân chơi “domino”, quả đúng là họ đã tạo ra một thế cờ triệt buộc, mà Đức Giê-su lại là người đang cầm con “bò trống” mười ba điểm, thua chắc!

Thì đây, thánh sử Gio-an cho biết: “Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người” (Ga 8, 6) Và, đó là lý do, hôm ấy. “Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất.”

Đức Giê-su viết gì, thánh sử Gio-an không đề cập đến.  Có người đoán Ngài viết ra tội của những người tố cáo người đàn bà ngoại tình. Cũng có thể Đức Giê-su chỉ vẽ nguệch ngoạc để chờ đợi phản ứng của đám đông vây quanh, chăng!

Trở lại câu chuyện.  Hôm ấy, “vì họ cứ hỏi mãi”, nên Đức Giêsu ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Nói xong “Người lại cúi xuống viết trên đất.” (x.Ga 8, 7-8).

Sau lời tuyên bố của Đức Giê-su, những tiếng gầm gừ, những tiếng hò, tiếng hét, tiếng y uông… tắt lịm. Quý ông kinh sư và Pha-ri-sêu cùng với những kẻ hiếu kỳ, những kẻ thích lên án người khác “bỏ đi hết”.  

Vâng, họ bỏ đi hết. Rất… rất trật tự “kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi”. Bình luận về sự kiện này, cha Giuse Nguyễn Hữu An có lời, rằng: “Vì càng lớn tuổi càng có bề dày cuộc sống, càng dễ nhận ra bề dày tội lỗi (của mình)”. Có thể lắm chứ! Phải không, thưa quý vị!

Trở lại tòa án… cứ gọi là vậy đi… “Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su , và người phụ nữ thì (vẫn) đứng ở giữa”. Người phụ nữ đang chờ một bản án cho mình. Đức Giê-su là người duy nhất có quyền xét xử cô, thế nhưng Ngài không nói gì. Ngón tay Ngài vẫn viết trên đất.

Và rồi, sự thinh lặng bị phá vỡ. Phá vỡ bởi tiếng nói nhẹ nhàng của Đức Giê-su: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” Người phụ nữ ngập ngừng đáp: “Thưa ông, không có ai cả.”  

Sự thinh lặng, một lần nữa, lại bao trùm, tim người phụ nữ như ngừng đập, chị ta nín thở chờ đợi lời phán quyết của Đức Giê-su.

“Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!”. Đức Giê-su đã phán quyết rất rõ ràng như thế. Kèm theo đó, là một lời khuyên dạy: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

“Chúa là người duy nhất có quyền làm việc đó (lên án) nhưng Ngài không làm. Ngài bày tỏ một tình yêu vô điều kiện, chấp nhận vô điều kiện. Ngài là Đấng thánh khiết, Đấng ghét tội lỗi, nhưng Ngài lại yêu tội nhân, yêu bạn và tôi, yêu những con người lầm lạc. Chúa đến để cứu chúng ta ra khỏi tội.

Ngài không chỉ nói Ta không định tội cô, nếu Ngài chỉ nói vậy thì ngày mai dễ lắm, cô lại phạm tội và rồi một ngày nào đ, lại bị bắt. Nhưng nếu Ngài chỉ kết tội cô như những công tố viên kia thì cũng không thể làm cô thay đổi được. Ngài tha thứ cho cô và ban cho cô một giải pháp, một định hướng cho cuộc đời mới của mình”.

Cô “Debbie Thủy” một người tin Chúa, có lời chia sẻ như thế, một lời chia sẻ nói lên niềm tin của mình, rằng: “(Thiên Chúa) không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

***     

Câu chuyện này đã xảy ra hơn hai ngàn năm. Xảy ra hơn hai ngàn năm, nhưng không vì thế mà nó không còn tính thời sự đối với chúng ta, hôm nay.

Đúng, còn-tính-thời-sự. Và, đó là lý do, nhạc sĩ Song Ngọc, qua nhạc phẩm “Chuyện Người Đàn Bà Hai Ngàn  Năm Trước”, đã buồn bã thốt lên, rằng: “Chuyện người đàn bà hai ngàn năm trước. Sách cổ đã ghi, đống đá còn nguyên”.

Thật vậy, đống-đá-còn-nguyên và rất dễ để chúng ta cầm lên ném ai đó. Chỉ cần một “cú nhấp chuột”, chúng ta có thể ném từ Việt Nam qua tận Mỹ Quốc. Thậm chí, cùng một lúc, chúng ta ném ra toàn thế giới.

Rất có thể, có những lúc, chúng ta “ném đá” một ai đó trên net, chỉ vì, “cái mặt con nhỏ đó dễ ghét quá đi!”. Rất có thể, vào một lúc nào đó, chỉ vì ganh tỵ, chúng ta sẵn sàng “ném đá” một ai đó bằng lời nói thâm độc, bằng cử chỉ tẩy chay, bằng sự gây chia rẽ, bè phái v.v…

Điều đáng buồn, rất đáng buồn là trong Giáo Hội ngày nay, giữa “Cha và con” lại xảy ra chuyện ném đá nhau chí tử. Nhiều lắm! Đau lòng lắm! Ai đúng ai sai, chúng ta không biết.

Nhưng có một điều chắc chắn, Chúa Giê-su biết. Và Ngài sẽ nói với tất cả những ai muốn cầm đá ném vào nhau, rằng: “Ai trong các con sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”.

Đừng quên, Đức Giê-su đã có lời dạy rằng: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh?”

Chúng ta… chúng ta nghĩ sao về lời khuyến cáo này! Có nên lấy “cái xà” trong con mắt của mình ra, trước khi lấy “cái rác” trong con mắt của người anh em!

Chắc nên là vậy! Thế nên, thật phải đạo, sau khi nghiền ngẫm câu chuyện này, chúng ta nên là người “bỏ đi”, đi thật xa khỏi những đống đá bẩn thỉu, những đống đá gây ra sự hận thù, sự ganh tỵ, sự tranh chấp v.v… ngõ hầu tránh khỏi một cuộc phán xét nghiệt ngã của chính Thiên Chúa, trong ngày sau hết. 

Đừng ném đá! “vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh-hiển của Thiên Chúa…”, thánh Phao-lô đã có lời khuyến cáo như thế với cộng đoàn tín hữu tại Rô-ma. Tất nhiên, cũng là cho chúng ta, hôm nay.

Thế nên, điều tiếp theo của chúng ta là… là “từ nay đừng phạm tội”, nữa!

Vâng, hãy ghi khắc trong con tim mình lời Đức Giê-su truyền dạy, một lời truyền dạy, tuy hai-mà-một, tuy một-mà-hai, đó là: “Đừng ném đá - đừng phạm tội.”

Petrus.tran

 

Chúa Giê-su: nguồn bình an của tôi...

  Chúa Giê-su: nguồn bình an của tôi... Ngày 08/05/2025 vừa qua, toàn thể Giáo Hội Công Giáo vui mừng khi mật nghị Hồng Y đã bầu ra một vị g...