Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013

Đức GIÊSU: Đấng Kitô của Thiên Chúa.



Chúa Nhật  XII – TN C
(Dcr 12,10-11;13,1 – Gl 3, 26-29 – Lc 9, 18-24)
*****

Đức GIÊSU: Đấng Kitô của  Thiên Chúa.

Dư luận gì? Thưa, “…là hiện tượng tâm lý bắt nguồn từ một nhóm người, biểu hiện bằng những phán đoán, bình luận về một vấn đề nào đó kèm theo thái độ cảm xúc và sự đánh giá nhất định, được truyền từ người này tới người kia, nhóm này sang nhóm khác. Nó có thể được truyền đi một cách tự phát hoặc được tạo ra một cách cố ý. Nếu được lan truyền rộng rãi và lặp đi lặp lại, nó trở thành dư luận xã hội”. (nguồn: Wikipedia)

Khi nói tới dư luận xã hội, thì, người càng nổi tiếng, lại càng phải đối diện nhiều đến nó.  Jorge Bergoglio là một ví dụ điển hình. Khi còn là Tổng Giám Mục  của tổng giáo phận Buenos Aires, mấy khi ngài được dư luận xã hội nhắc đến, nhưng sau đó, khi đã trở thành Giáo Hoàng Phanxicô đương nhiệm, thì, ôi thôi! dư luận toàn cầu đâu đâu cũng nhắc tới tên ngài…
 
Xưa kia, Đức Giêsu cũng không là ngoại lệ.

**
Đức Giêsu, khi còn  tại thế, có thể nói, cuộc sống của Ngài là một cuộc sống luôn  phải đương đầu với rất nhiều luồng dư luận.

Thật vậy, ngay khi vừa mới mười hai tuổi, trong một lần trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua, với sự kiện Ngài ngồi cùng các bậc thầy Do Thái “vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi” đã khiến cho dư luận xã hội lúc đó phải trầm trồ, kinh ngạc “về trí thông minh và những lời đối đáp của Ngài”. (x.Lc 2, 47)

Thế nhưng, dư luận về Đức Giêsu chỉ thật sự “sốt” lên khi Ngài bắt đầu ra đi rao giảng Tin Mừng. Trong ba năm thực thi sứ vụ, với những lời giảng dạy cùng với những phép lạ đã làm, một làn sóng dư luận về Ngài bùng lên và lan tỏa, từ Caphacnaum cho tới vùng Thập Tỉnh, từ Giêrusalem cho tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giodan, nói tắt một lời, là khắp Palestina.

Dư luận xã hội lúc đó nói rất nhiều về Đức Giêsu, có lời khen lẫn tiếng chê, có công khai cũng có ẩn dấu, Đức Giêsu biết, nhưng, Ngài vẫn giữ một thái độ thinh lặng. Cho đến một hôm…

Vâng, chuyện được kể lại rằng, “Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình”. Hôm ấy, cũng có các môn đệ “cùng ở đó với Người”. Trong thinh lặng của nguyện cầu và suy tư, Đức Giêsu đã gọi các môn đệ đến và hỏi các ông về dư luận trong dân chúng nói “Thầy là ai?”

Thầy là ai ư! Trời ạ! Dư luận đồn ầm lên về ông Giêsu khắp hang cùng ngõ hẻm, từ Galilê cho đến Giêrusalem, từ Betsaiđa lan tỏa ra  khắp cả Palestina… thế mà Thầy không biết gì ư!
Có lẽ, chưa có lúc nào bầu không khí trong nhóm các môn đệ lại sôi động như lúc này. Sự sôi động chẳng khác nào một cuộc điều trần trước “quốc hội”. Một vài tiếng nói, trong nhóm các ông, đã thốt lên rằng, “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả… kẻ lại bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”.

Có vẻ như Đức Giêsu không ngạc nhiên trước những nguồn dư luận đó. Tại sao? Thưa, không ngạc nhiên là bởi Ngài cho rằng, những người đưa ra những luồng dư luận đó có sự nhầm lẫn giữa Ngài và những nhân vật mà họ đã nêu tên.

Thật vậy, những gì Đức Giêsu đã giảng dạy, như kêu gọi mọi người “hãy sám hối” quá trùng hợp với lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả “hãy sám hối”. Phép lạ Đức Giêsu đã làm “hóa nước thành rượu tại tiệc cưới Cana” và cải tử hoàn sinh “cho con trai của một bà góa tại thành Nain” cũng trùng hợp với phép lạ do ngôn sứ Êlia đã làm cho một bà góa ở Xarépta.

Ngôn sứ Êlia, hồi đó, đã nhờ lời cầu nguyện với Đức Chúa mà “hũ bột và vò dầu” của một bà góa ở Xarepta “không vơi và chẳng cạn”. Con trai của bà “bệnh tình trầm trọng đến nỗi đã tắt thở” cũng đã được “Đức Chúa nghe tiếng ông kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống” (1V 14,22).

Rất có thể, đó chính là nguyên cớ cho những người Do Thái đưa ra lời nhận định về Đức Giêsu như những gì các môn đệ đã công bố khi Ngài hỏi đến.

Trở lại cuộc hội thoại giữa Đức Giêsu và nhóm mười hai. Trong ánh mắt nhìn đầy chờ đợi, Đức Giêsu lên tiếng hỏi các ông “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Vâng, không thấy một tiếng nói nào ngoài tiếng nói của Phêrô, một Phêrô như là đại diện cho nhóm mười hai, nói với Đức Giêsu rằng, “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. 

***
“Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, cứ tưởng rằng, tông đồ Phêrô đã có được một câu trả lời hoàn hảo cho cuộc hội thoại. 

Thế nhưng, với Đức Giêsu, khi mở ra cuộc hội thoại này, điều Ngài quan tâm đến, đó chính là muốn các môn đệ xác tín lại niềm tin của mình, không phải là “tin nhiều hay tin ít” nhưng là “tin thật” vào Con-Người-thật của Ngài với sứ mạng  Ngài sẽ phải thực hiện.

Hôm đó, cũng là lần thứ nhất, Đức Giêsu nói đến sứ mạng của Ngài, của Đấng Kitô, cho các môn đệ biết, rằng  “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”.

****
Nếu hôm nay Đức Giêsu cũng với hai câu hỏi “Dân chúng nói Thầy là ai?... Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” và hỏi chúng ta, vâng, chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Phải chăng, chúng ta sẽ trả lời “y chang” câu trả lời của các môn đệ xưa?  

Thưa, với hôm nay, trả lời như thế cũng không sai nhưng nó chỉ nói lên được một điều duy nhất, rằng, niềm tin của người trả lời chưa đủ trưởng thành, và không khéo, người trả lời sẽ bị mang tiếng là có một niềm tin của một “con vẹt”.  

Thật ra, chẳng bao giờ Đức Giêsu sẽ hỏi chúng ta như Ngài đã hỏi với các tông đồ xưa kia. Nếu hôm nay, Đức Giêsu có hỏi, có lẽ Ngài sẽ hỏi rằng, “Dân chúng nói đạo Công Giáo là đạo gì? Còn anh em, anh em bảo người Công Giáo là ai?” 

Câu trả lời của chúng ta là gì?  Phải chăng là dựa vào quyển “Giáo Lý Công Giáo”? Là sử dụng cẩm nang 12 Ðiều Mà Mọi Người Công Giáo Phải Trả Lời Ðược” của Deal Hudson đã được GLV Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ?

“Good”. Phải nói là “very good”. Bởi, những điều chúng ta học được trong cuốn sách đó, như lời thánh Phaolô nói, nó chính là “người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Kitô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin” (Gl 3, …24). 

Thế nhưng, với thánh Phaolô, như thế vẫn chưa là đủ để có thể có một gương mặt của một Kitô hữu đích thực. Một Kitô hữu đích thực?! Vâng, thánh Phaolô có câu trả lời rõ ràng, rằng, phải là người “Mặc lấy Đức Kitô”.

Mặc-lấy-Đức-Kitô, không phải là cố tìm cho được “chiếc áo dài không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới” để mặc cho giống Chúa Giêsu khi xưa, nhưng là bước theo Ngài, là… như lời Đức Giêsu truyền dạy “phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo”.

Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không bảo chúng ta tìm hai cây gỗ đóng thành cây thập giá vác lang thang hàng ngày ngoài đường phố. Vác-thập-giá-mình-hàng-ngày, giản dị thôi, chỉ cần làm hai việc mà Chúa Giêsu đã truyền dạy, đó là, “mến Chúa – yêu người”.   

Vâng, nếu ai trong chúng ta cũng “yêu người như chính mình ta vậy” thì, trong gia đình, không thể nào xảy ra cảnh đâm-cha-chém-chú, ông-ăn-chả-bà-ăn-nem hoặc một trong hai vợ chồng phải cất lên tiếng ca “Thôi là hết em đi đường em… Tình duyên mình chỉ bấy nhiêu thôi” v.v… Còn ngoài xả hội thì sao! Có phần chắc là nơi chúng ta ở sẽ là một nơi “láng giềng thân thiết”.

Đừng quên, nếu chúng ta thực thi trọn vẹn hai điều nêu trên, chúng ta, như lời Chúa Giêsu đã nói, “Không còn xa nước Thiên Chúa đâu” và “Mọi người sẽ nhận biết (chúng ta) là môn đệ của Ngài”. Và hơn hết, qua đó, chúng ta làm sáng danh chính Đức Giêsu - Đức Giêsu mà chúng ta đã tuyên xưng rằng: Ngài là Đấng Kitô, dĩ nhiên không phải “Kitô của Marx… của Dan Brown” nhưng là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”.

Petrus.tran






Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2013

Tha thứ: sức mạnh của tình yêu.



Tha thứ: sức mạnh của tình yêu.


Sách Huấn Ca có chép rằng: “Lòng lân tuất của Đức Chúa cao cả dường bao, ơn tha thứ dành cho kẻ trở lại với Người lớn lao biết mấy” (Hc 17, 29).

“Đức Chúa”, theo lời tông đồ Gioan nói: “…chưa bao giờ có ai thấy cả”. Thánh nhân nói tiếp rằng: “nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Giáo Hội cũng đã dạy bảo rằng, Đức Chúa, thế gian sẽ thấy sự mặc khải của Người, trong Đức Giêsu Kitô. 

Thật vậy, Đức Giêsu Kitô, trong ba năm ra đi rao giảng Tin Mừng, Ngài đã cho mọi người nhận ra “lòng lân tuất và ơn tha thứ cho kẻ trở lại với Thiên Chúa” là một sự ban cho một cách nhưng không, đúng như những lời Ngài đã giảng dạy rằng, “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3, 17).

**

Vâng, vào một lần, tại nhà một người Pharisêu, Đức Giêsu, qua cách hành xử, Ngài đã  cho mọi người thấy Thiên Chúa quả đúng là Đấng “Từ bi và nhân hậu. Chậm giận và giàu tình thương”.  
Hôm ấy, có một ông Pharisêu tên là Simôn, ông ta mến mộ Đức Giêsu và đã “mời Ngài đến dùng bữa tại nhà mình”. Trong lúc mọi người chén tạc chén thù thì có một người phụ nữ xuất hiện.  Tất cả mọi người trong bàn tiệc có vẻ như bực bội về sự xuất hiện của người phụ nữ này. Họ bực bội bởi nàng là “một người tội lỗi” khét tiếng trong thành, họ bực bội bởi những cử chỉ của nàng với Đức Giêsu.
Vâng, tệ thật, không chút rụt rè mà còn thật tự tin, nàng đến bên Đức Giêsu, “sát chân Người mà khóc”. Không ai có thể tưởng tượng được rằng nàng khóc nhiều đến nỗi có thể “lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người”, chưa dừng lại ở đó, nàng còn “lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người”, cuối cùng, nàng “lấy dầu thơm mà đổ lên”.   
Tới lúc này thì ông Simôn không còn bình tĩnh được nữa,  tâm hồn ông nghĩ ngợi lung tung về Đức Giêsu. Ông nghi ngờ về vai trò của Ngài, vai trò của một ngôn sứ, như ông ta đã nghĩ như thế… Ngôn sứ gì mà không biết “người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi”!!!
Đọc được những suy nghĩ của ông, Đức Giêsu mặc cho những ý nghĩ thiển cận của ông. Vâng, không phải Đức Giêsu không biết nàng “vốn là người tội lỗi trong thành” nhưng, trước lòng tin của nàng, Đức Giêsu tuyên bố: “Tội của chị đã được tha… Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (Lc 7,48…50).
***
Có thể nói, tất cả những người hiện diện trong nhà ông Simon tuy “đồng bàn” với Đức Giêsu” nhưng họ đã không “đồng tâm” với Ngài. Có thể họ chưa nghe được những gì Đức Giêsu đã giảng dạy, rằng: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,10)
Đức Giêsu đưa ra câu chuyện một ông chủ nợ “thương tình tha cho cả hai” con nợ… “vì họ không có gì để trả”… cũng như so sánh việc tiếp đón của Simôn và của người đàn bà kia với Ngài là để cho mọi người nhận ra rằng, Thiên Chúa không muốn lên án ai, không lên án vì Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót.
Vâng, xá gì một “bình bạch ngọc dầu thơm” xá gì một bữa tiệc linh đình… Kinh Thánh,  có lời Đức Chúa đã phán với ngôn sứ Edekien rằng: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 18, 23).  
Xưa, một David với lỗi lầm này tiếp lỗi lầm khác. Nhưng vì ông ta đã biết mình “đắc tội với Đức Chúa” nên “Đức Chúa – Người đã bỏ qua tội của (ông ta) và (ông ta) sẽ không phải chết” (2Sm 12,13).
Nay, không phải Thiên Chúa dung dưỡng kẻ phạm tội. Ngài muốn mở lối cho kẻ ăn năn và hối cải trở về. Nhưng, chỉ một điều kiện duy nhất, đó là “Sự sám hối và lòng tin”.
****
Ngày 12/03/2013 vừa qua, báo The Tidings, Tòa Tổng Giám Mục Los Angeles, có đăng một bài giảng của Tổng Giám Mục José H. Gomez. Mở đầu bài giảng ngài nói rằng: “Nền văn hóa của chúng ta ngày nay đã trở nên một nền văn hóa càu nhàu và nóng giận, người ta mau chóng kết án và mau chóng chỉ trích. Chúng ta đang sống trong nền văn hóa thiếu vắng sự tha thứ. Chúng ta phải cẩn trọng để không cho mình bị rơi vào cạm bẫy này. Đức tin Kitô giáo của chúng ta luôn làm cho chúng ta trở thành “khác”. Chúng ta hãy cố gắng trở nên những người biết thứ tha và mang lại bình an cho tha nhân”.(*)

Đức Tổng Giám mục José H.Gomez nói tiếp “Mỗi lúc chúng ta cần đi xa hơn trong việc tha thứ. Thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu phải tha thứ bao nhiêu lần. Chúa Giêsu đáp: “Bảy mươi lần bảy.” Hay nói cách khác, là tha thứ mọi lúc mọi nơi trong vô tận. Trong trình thuật về người con thứ đi hoang, chính là một bài học thật tuyệt vời về lòng Chúa xót thương và tha thứ.
Đó hẳn là bài học mà hết thảy chúng ta cần phải học kỹ hơn, nhiều hơn.
Hằng ngày, chúng ta vẫn cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn biết tha thứ khi chúng ta đọc lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta – “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.”
Nhưng thật khó biết dường nào để chúng ta sống với những lời nguyện ấy! Ngược lại, chúng ta thấy dễ dàng biết bao khi chúng ta đi vào những phê bình chỉ trích tha nhân.
Vâng! Thật sự là chúng ta thấy nhiều lý do chí lý đáng cho chúng ta lên án và chỉ trích người khác. Chúng ta đã chứng kiến rất nhiều tội nhân, nhiều vụ xì-căn-đan và nhiều bất công trên trái đất này.
Thời của Chúa Giêsu xưa kia cũng giống như ngày nay của chúng ta. Thế nhưng, Chúa Giêsu đến thế gian để chỉ ra cho chúng ta thấy có một cách thức ‘khác’. Ngày nay, thật là cấp bách hơn lúc nào hết để tất cả chúng ta hãy cố gắng sống một cách thức ‘khác’ mà Chúa Giêsu Kitô mong đợi và mời gọi.” (*)

Cách thức “khác” đó là gì? Vâng, chúng ta hãy đến trường học mang tên “Canvê”, ở đó, chính Chúa Giêsu – một Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá để cứu chuộc muôn loài – Ngài sẽ là Thầy dạy của chúng ta, với chỉ một lời dạy duy nhất, rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ…” (Lc 23,34).


Có quá khó để học-và-hành lời dạy của Thầy Giêsu? Tạ ơn Chúa, thánh Phaolô đã chỉ dẫn cho ta một cách để thực thi lời dạy này, đó là, chúng ta hãy “cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá”, dĩ nhiên thánh nhân không “xúi dại” chúng ta đóng đinh thân xác mình, nhưng là đóng đinh tội lỗi cùng bản ngã của mình, bởi có như thế, chúng ta mới có thể trở thành một con-người-mới, một con người “sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20).

“Đức Kitô sống trong tôi”, hãy tin, chúng ta đủ sức để “học và hành” bài học này, bài học “Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp. Đem chân lý vào chốn lỗi lầm”… (Kinh hòa bình – Kim Long).

Vâng, làm được tất cả những điều nêu trên, đó là lúc chúng ta đã nối dài cánh tay Chúa Giêsu đem “sức mạnh của tình yêu” đến với mọi người.

Petrus.tran

********  
(*) nguồn: internet.

Thứ Hai, 10 tháng 6, 2013

Đức Giêsu: Đấng quyền năng và giàu lòng thương xót.



ĐỨC GIÊSU: Đấng quyền năng  
và giàu lòng thương xót.

Cuộc sống của con người vốn là một vòng tuần hoàn sinh-lão-bệnh-tử. “Tử” hay gọi là “chết”, vâng, khi nói tới cái chết, đó là điều không ai muốn nhắc đến, bởi, có nhiều người cho rằng đó là điều kỵ, nhắc đến nó là nhắc đến sự xui xẻo.


“Không ai muốn chết, thậm chí cả những người muốn lên thiên đàng...”,  Steven Job nói, “...họ cũng không muốn phải chết để lên được đó”.


Dẫu biết  là mọi người đều phải chết, nhưng, có những cái chết, khi nói đến, nó đã làm cho biết bao con tim của người ở lại phải thổn thức, phải xót xa.  Đó là những cái chết oan ức, những cái chết “chết dần chết mòn” bởi chính sách hà khắc của bạo chúa , bạo quyền... Đó là những cái chết mà người ở lại buộc trở thành kẻ tứ cố vô thân, thành những bà mẹ không còn nơi nương tựa.  Đó là cái chết, như cái chết, của một chàng trai khuyết tật - hiệp sĩ Nguyễn Công Hùng, người đã điều hành trung tâm Nghị Lực Sống, một trung tâm đã đem lại niềm tin và hy vọng cho nhiều người khuyết tật - một cái chết đã để lại biết bao niềm thương tiếc.


**
Đức Giêsu, trong những ngày còn tại thế, Ngài cũng đã chứng kiến nhiều cái chết xảy ra, và trước những cái chết đó, mang thân phận là một con người, Ngài cũng không ít lần phải  thổn thức.


Thật vậy, Kinh Thánh có chép lại ba cái chết đã khiến Đức Giêsu phải rơi lệ và chạnh lòng thương xót, đó là cái chết của con gái ông trưởng hội đường, là cái chết của chàng Ladarô,  em của hai chị em  Mácta - Maria và đặc biệt hơn, đó là cái chết của “con trai bà góa thành Nain” (Lc, 7, 11-12).


Câu chuyện “con trai bà góa thành Nain” được kể lại như sau: Hôm đó, Đức Giêsu cùng với các môn đệ đi đến một thành có tên là Nain. Ngoài các môn đệ, còn có “một đám rất đông cùng đi với Người” (Lc 7, 11).

Ngoài đám đông này, người ta còn thấy một đám đông khác đi từ hướng nguợc lại. Đến gần, à! thì ra là một đám tang. Hôm đó, khi Đức Giêsu “đến gần cửa thành” thì đúng lúc “người ta khiêng một người chết đi chôn”. Người chết là “con trai duy nhất” của một người đàn bà và nghiệt ngã thay, người đàn bà đó lại là “một bà góa”.


Một bà góa, có nghĩa là chồng bà ta đã chết, giờ đây, người con duy nhất của bà ta cũng đã chết thì quả là cuộc đời bà ta coi như “tàn đời”.


Tại sao lại tàn đời? Thưa, là bởi, đối với các góa phụ thời Đức Giêsu, về phần đời, đa số họ đều có một cuộc sống rất khó khăn, khó khăn là bởi quan niệm trọng nam khinh nữ, cho nên, họ có rất ít cơ hội để tìm kiếm việc làm. Còn về phần “đạo” ư! Thì đấy, làm sao lọt khỏi cặp mắt của những ông kẹ Pharisiêu là những kẻ đã có lần bị Đức Giêsu lên án rằng, họ luôn tìm cách “nuốt hết tài sản của các bà góa”.


Bà góa trong câu chuyện này, có một người con trai, niềm hy vọng của tuổi già, nay con bà ta chết, phải làm một điều gì đó cho bà ta đây? “Mackeno” ư! Thưa không, không được. Kinh Thánh có chép rằng, “Đừng ngoảnh mặt không nhìn những ai đang than khóc, với những người sầu khổ, con hãy biết chia buồn” (Hc 7, 34)


Vâng, trước tình cảnh của bà góa, Chúa Giêsu không ngoảnh mặt đi, Ngài đã đến “chia buồn” à không, “chia vui” mới đúng. Chuyện kể rằng, trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!”.


Và không đợi bà góa đó cất lời xin xỏ, Đức Giêsu, theo lời kể lại của thánh sử Luca, “Người lại gần, sờ vào quan tài...” Lạ lùng thay! Khi Đức Giêsu nói “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy”. Mọi người hiện diện nơi đó đều thấy “Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói”.


Thánh sử Luca không cho biết anh thanh niên đó đã nói gì, nhưng có điều gì ngăn cản để chúng ta tin rằng, anh ta đã nói  “Lạy Thầy Giêsu! Ngài là Đấng quyền năng và giàu lòng thương xót”.  

***

Trở lại cái chết của Nguyễn Công Hùng. Người ta kể rằng, “Đó là một chiều mưa buồn, con đường trước nhà của Hùng trở nên lầy lội. Những vòng hoa trắng phủ kín trước mặt tiền ngôi nhà. Hàng trăm người trong gia đình cùng những thành viên mái nhà Nghị Lực Sống chít khăn tang đứng bên cạnh linh cửu Công Hùng. Hòa theo tiếng thánh ca buồn là những tiếng khóc nức nở” (nguồn: internet).

Ôi! Có khác nào khung cảnh tang tóc trong đám tang người con trai của bà góa thành Nain năm xưa! Thật ra, có khác một điều, nơi quan tài của Công Hùng không thấy Chúa Giêsu đến “sờ vào” và nói “Hãy trỗi dậy”… cũng chẳng thấy Ngài sai một vị ngôn sứ nào đó đến để  “ba lần nằm lên trên người Công Hùng” như xưa kia ngôn sứ Êlia đã “ba lần nằm lên trên đứa trẻ”, một đứa trẻ đã chết, con của một bà góa ở Xarépta, để rồi sau đó nhờ lời cầu nguyện “hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó đã sống” (1V 17, 22).

Vâng, có cần thiết để Chúa tái thực hiện những gì Ngài đã thực hiện tại Xarépta hay tại Nain khi xưa đối với Công Hùng hôm nay?

Thưa không? Tất cả những gì Thiên Chúa, qua ngôn sứ Êlia, đã thực hiện tại Xarépta và sau này Chúa Giêsu thực hiện tại Nain không chỉ là để gửi đến mọi người một thông điệp, rằng, Chúa là “Đấng quyền năng và giàu lòng thương xót” mà còn là để “Mặc Khải Con của Người” và để “loan báo Tin Mừng về Con của Người” một Tin Mừng rằng “Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16).

Con gái của ông trưởng hội đường, người bạn thân thiết là anh Lazarô và chàng thanh niên con bà góa  ở Nain, cả ba người này đã được Đức Giêsu cho sống lại nhưng hôm nay họ cũng đã chết.

Cho nên, điều cần thiết của hôm nay, không phải là việc Chúa Giêsu sẽ hiện đến “sờ vào quan tài” của ai đó, mà là chính chúng ta.

Chính chúng ta phải “sờ vào”, chúng ta phải sờ vào những chiếc quan-tài-đam-mê-dục-vọng, những chiếc quan-tài-say-sưa-chè-chén,  những chiếc quan-tài-hận-thù-bất-hòa-ghen-tuông-nóng-giận,  những chiếc quan-tài-tranh-chấp-bè-phái-ganh-tị v.v… Những chiếc quan tài đó đã và đang chôn vùi biết bao nhiêu người bạn trẻ hôm nay, (rất có thể có cả chúng ta), mà nói với họ rằng “Này anh bạn trẻ, tôi bảo anh, hãy trỗi dậy”.

Là một Kitô hữu, là người môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta không thể  từ chối thực hiện công việc này,  bởi, đây là công việc, như lời thánh Phaolô đã nói, rằng, “Thiên Chúa đã dành riêng cho (ta) ngay từ khi (ta) còn trong lòng mẹ, và đã gọi (ta) nhờ ân sủng của Người” (Cl 1, 15).

Hàng ngàn, hàng triệu chiếc quan tài đang chôn vùi hàng ngàn, hàng triệu người bạn trẻ, nằm la liệt trên những con đường ta đi qua, những con đường xưa chỉ có “cây dài bóng mát”, thì nay, đầy dẫy những quán bar, quán nhậu với những em chân dài váy ngắn…

Ai… ai là người “sờ vào” những chiếc quan tài đó nếu không phải là chính chúng ta? Ai… ai sẽ là người gọi những chàng trai đó “hãy trỗi dậy” nếu không phải là chính chúng ta?

Đừng chần chờ gì nữa, trước hết là chính chúng ta “hãy trỗi dậy” và hãy cùng nhau đi đến “Nain hôm nay”.  Hãy mang những chàng trai đó “trao anh ta cho bà mẹ - Bà Mẹ Hội Thánh”.

Nếu…  nếu chúng ta làm được như thế, một điều chắc chắn sẽ xảy ra, Xatan cùng với thế gian của nó sẽ “kinh sợ”, nó cùng với bè lũ của nó sẽ trốn chạy, vì biết rằng “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài”.

Và cuối cùng “dân Ngài”, khi đã  được dẫn dắt trở về trong vòng tay “Bà Mẹ Hội Thánh”, họ sẽ nhận ra Ngài là “Đấng quyền năng và giàu lòng thương xót”.

Petrus.tran







Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...