Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013

Thiên Chúa ở cùng chúng ta.



Lễ Giáng Sinh: ngày Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Ba tuần của Mùa Vọng đã trôi qua. Chỉ còn đúng hai ngày, tính từ Chúa Nhật hôm nay (22/12/2013),  đại lễ kỷ niệm Chúa Giáng Sinh  sẽ đến. Hôm nay, hầu hết tất cả các thánh đường đều đã xuất hiện hang đá Belem. Nhiều gia đình Công Giáo cũng đã làm máng cỏ trước sân nhà của mình.

Tái hiện lại khung cảnh hang đá Belem xưa, với những nhân vật Thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu không chỉ để nhắc lại biến cố Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người trong cảnh nghèo hèn, nhưng còn muốn nhắc cho mọi người biết, rằng: có một “gia thất thánh”, một gia thất mẫu mực về sự vâng phục, lòng nhân ái và tình yêu thương.

Khi nói tới sự vâng phục, không ai trong chúng ta lại không nghĩ ngay tới Đức Maria. Một Đức Maria với lời “xin vâng” đã đi sâu vào lòng người suốt hơn hai mươi thế kỷ. 

Khi nói tới lòng nhân ái và tình yêu thương, ai có thể thay thế “Thánh Giuse”! Thật vậy, hơn hai ngàn năm xa trước đó, qua một biến cố lịch sử, biến cố Sứ thần Chúa hiện đến gặp thánh Giuse trong một giấc mộng, lòng nhân ái và tình yêu thương của ngài đã được tỏ lộ, rực sáng.  

Biến cố lịch sử này được ghi lại trong Tin Mừng thánh Matthêu (1, 18-24). 
**
Vâng, Tin Mừng thánh Matthêu thuật lại rằng: “Bà Maria…  đã thành hôn với ông Giuse” (Mt 1, …18)

Với người đời, đó là một chuyện bình thường. Thật bình thường, như lời Kinh Thánh có chép: “Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời… một thời để chào đời… một thời để yêu thương…” (Gv 3, 1…8)

Thế nhưng, buồn thay! Khi những ngày giờ  “để yêu thương” đến với đôi uyên ương, một sự việc đã làm cho chàng trai Giuse mất đi những nụ cười hạnh phúc. Thật vậy, làm sao chàng Giuse có thể hạnh phúc, vì cô Maria “đã có thai…”, trước khi hai người về chung sống.! 

Khi biết được sự việc đó, nếu là chúng ta, chúng ta sẽ làm gì? Phải chăng là, khắc khoải sầu đau với những đêm dài thao thức? Phải chăng là, trong đêm dài thao thức, chúng ta sẽ nghêu ngao những lời ca, rằng: “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần sầu”!? (*)

Người ta thường nói: “Nỗi buồn càng dấu kín càng thêm buồn khổ”.
Với chàng Giuse, không thấy Tin Mừng nói đến, nhưng có thể tin rằng, chàng ta rất buồn khổ khi phải dấu kín nỗi buồn này. Thì đấy, Kinh Thánh đã chẳng thuật lại rằng: “Ông Giuse, chồng bà, không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19), đó sao?

Chuyện gì sẽ xảy ra “nếu” chàng Giuse thật sự bỏ “Bà Maria”? Thưa, Thiên Chúa, linh mục Tanila Hoàng Đắc Ánh trong một bài giảng, đã nói, “khi Người chọn một ai đó cho chương trình cứu độ, chưa có một ai thoát khỏi sự chiếu cố của Người”. 

Thật vậy, lịch sử cứu độ đã cho ta thấy điều đó đúng. Một Môsê, một Giêrêmia v.v… là những minh chứng điển hình. Hai ông đều không thể  thoái thác sứ vụ Thiên Chúa trao ban, dù các ông đã đưa ra những lý lẽ rất thuyết phục rằng, “Con không phải là kẻ có tài ăn nói”… “Con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói”

Trở lại câu chuyện chàng trai Giuse, việc Giuse định tâm bỏ đi, xét về lý, rất thuyết phục. Nhưng…  cũng lại là tiếng “nhưng” của Thiên Chúa.

Vâng, khi tư tưởng “toan tính bỏ bà Maria” của ông Giuse vẫn còn đang trong trạng thái: “Nhủ rồi nhủ lại cầm tay. Bước đi một bước dây dây lại dừng” (**), thì… “Sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông…” 

Vâng, trong giấc mộng ngàn đời khó quên, ông Giuse nghe rằng: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. (Mt 1, 20).

Quyền năng Chúa Thánh Thần ư! Những chuyện này, là để ứng nghiệm lời ngôn sứ, được sứ thần Chúa nhắc đến, rằng:  “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuen” ư!.  

Là một người công chính, ông Giuse hiểu được tầm quan trọng về những gì sứ thần Chúa phán truyền. Và rồi, “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy”.  

Chính hành động này đã nêu bật con người của  Giuse, con người của sự vâng phục, vâng phục đi tiếp con đường ông chọn, và sau đó Chúa chọn,  trên con đường đó, ông đã biểu lộ trọn vẹn lòng nhân ái và tình yêu thương, qua việc “đón vợ về nhà” (Mt 1, 24).  

*** Đây là câu chuyện được chép trong Tin Mừng thánh Matthêu với tiêu đề “Truyền tin cho ông Giuse”. 

Chớ gì chúng ta đọc câu chuyện  này không như đọc một văn bản của lịch sử, nhưng là đọc trong một tâm tình chiêm ngắm, chiêm ngắm tấm gương thánh Giuse, xem đó như là một tấm gương mẫu mực cho niềm tin, lòng nhân ái và tình yêu thương để chúng ta noi theo.

Thật vậy, cuộc đời của một Kitô hữu, như thánh Giuse xưa, mỗi chúng ta cũng đều phải đối diện với nhiều “nghịch cảnh”, những “trắc trở”  trên con đường mà chúng ta đã chọn lựa.

Hạn hẹp trong một gia đình, những nghịch cảnh đó, có thể là: một người vợ lì lợm, nói nhiều, hoang phí…Hoặc có thể là: một người vợ không thể sinh cho ta một đứa con trai v.v… Hoặc là một ông chồng thô lỗ vũ phu… Vâng, gặp những nghịch cảnh đó, ta sẽ làm gì? Phải chăng là ta sẽ “định tâm bỏ nàng cách kín đáo”? Phải chăng là ta sẽ ca bài “Thôi là hết em đi đường em. Tình duyên mình chỉ bấy nhiêu thôi”?

Trong một tầm nhìn rộng hơn, là một Kitô hữu, con đường chúng ta đã lựa chọn, con-đường-theo-Chúa-Kitô, phải chăng có đôi lần chúng ta cũng có những “định tâm tăm tối” bỏ Chúa, bỏ những việc làm phúc đức, bỏ chân lý và sự thật v.v.. chỉ vì một vài lý do ảnh hưởng đến nguồn lợi kinh tế, đến quyền lợi, đến danh vọng, đến những thú vui xác thịt v.v…?

Vâng, thánh Giuse, nhờ nghe lời ngôn sứ, qua lời truyền dạy của sứ thần,  nhờ đó, mọi nghi nan , ngờ vực về Đức Maria đã tan biến.
Cũng vậy với chúng ta hôm nay, hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng và hãy tìm đến Lời Chúa. Bởi vì Lời Chúa chính là “ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”. 

Có đèn Chúa soi bước, chúng ta sẽ vượt qua được những đêm đen của nghịch cảnh. Có ánh sáng Chúa chỉ đường, chúng ta sẽ nhận ra đâu là những định tâm của tăm tối.

Vượt qua được những nghịch cảnh, chiến thắng được những định tâm tăm tối, hạn hẹp trong một gia đình, có phần chắc, gia đình của chúng ta sẽ là một gia đình tràn đầy lòng nhân ái và tình yêu thương. Nói cách khác, đó là một gia đình “vợ chồng ý hợp tâm đầu”. Rộng ra một chút, chúng ta sẽ có được một đức tin trưởng thành.

Một gia đình như thế với một đức tin trưởng thành… Vâng, ai… ai  dám phủ nhận, đó chính là một Hang Belem-gia-đình có “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. 

Petrus.tran

Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013

Đức Giêsu, thật là Đấng đã đến thế gian.

********
Chúa Nhật III – Mùa Vọng – A

Đức Giêsu, thật là Đấng đã đến thế gian.

Trong cuộc sống thường nhật, có ai trong chúng ta lại không hơn một lần sống trong tâm trạng hoài nghi, ngờ vực về một điều gì đó.

Có những hoài nghi dẫn đến chia rẽ, có những ngờ vực dẫn đến chia ly. Có sự hoài nghi dẫn đến bất trung và bội phản. Có những ngờ vực làm suy yếu niềm tin.

Câu chuyện bà Eva bị Xatan đầu độc tâm trí bằng lời dụ dỗ “Chẳng chết chóc chi đâu!” dẫn đến sự hoài nghi, ngờ vực về lời phán truyền của Thiên Chúa, rằng: “Ngày nào ngươi ăn, chắc chắn người sẽ phải chết”; là một minh chứng điển hình.

Thế nhưng, không phải tất cả mọi sự hoài nghi đều đem đến kết quả xấu. Đôi khi, chúng ta không cần phải vội vàng chấp nhận một điều gì đó, nếu điều đó còn mơ hồ chưa chắc chắn. Tôn giáo nào khuyên bạn chỉ việc nhắm mắt mà tin, không nên hoài nghi gì cả đều là nguy hiểm. 

Tông đồ Gioan đã cũng cảnh báo tới những ai có đức tin mù quáng, rằng: “Đừng cứ thần khí nào cũng tin”. Ngài nói tiếp “nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không?” (1Ga 4, 1)

Sự cân nhắc dẫu có bị mang tiếng là hoài nghi thì nó cũng là “sự hoài nghi chân thành”. Mà như có lời chép:  “Sự hoài nghi chân thành có thể là bước đầu cho một đức tin mạnh mẽ”.

Nói tới  sự hoài nghi, chúng ta không thể không liên tưởng tới ông Gioan Tiền Hô. Là người có một niềm tin vững mạnh vào Thiên Chúa, có sự liên hệ mật thiết với Đức Giêsu, đã thấy “Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người” và đã loan báo với mọi người rằng “đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”, cứ tưởng rằng, ông đã nhận ra  Đức Giêsu là ai!

Trái lại, ông Gioan Tiền Hô vẫn băn khoăn về vai trò và sứ vụ của Ngài, để rồi cuối cùng, ông đã sai những người môn đệ của mình đến gặp Đức Giêsu hỏi cho ra lẽ.

Sự việc này đã được chép lại trong Tin Mừng thánh Matthêu (11, 1-12). 

**
Vâng, bối cảnh câu chuyện xảy ra trong lúc ông Gioan “đang ngồi tù”. Lý do bị tù là bởi ông ta đã ngăn cản bạo chúa Hêrôđê không được phép lấy một người phụ nữ, vì người phụ nữ ấy chính là “vợ ông Philipphê anh của nhà vua” (x. Mt 14, 3-4). Vua Hêrôđê dự định giết ông Gioan vì lời ngăn cản đó, nhưng lại sợ dân chúng “vì họ coi ông là ngôn sứ”.

Đang “ủ tờ” nhưng không rõ do đâu ông Gioan vẫn có thể “nghe biết những việc Đức Kitô làm”. Không thấy Tin Mừng nhắc đến, nhưng rất có thể, qua sự phối hợp giữa nghe và những điều đã thấy ở sông Giodan, hôm làm phép rửa cho Đức Giêsu, ông Gioan nảy sinh sự hoài nghi về Ngài.

Tại sao lại có sự hoài nghi Đức Giêsu? Thưa, không hoài nghi sao được.! Một người mà ông từng loan báo rằng “Đấng đến sau tôi quyền thế hơn tôi…  Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẩm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”, sao hôm nay Ngài không “rê sạch” cái lão Hêrôđê tàn bạo kia nhỉ!

Nơi sông Giodan, ông từng hùng hồn tuyên bố “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, để rồi hôm nay, từ ngục tối sầu thảm, sự hoài nghi đã làm cho ông Gioan chuyển từ dấu chấm than sang dấu chấm hỏi… hỏi rằng: “Đấng phải đến” là ai?

Kinh Thánh có chép rằng: “Giấc mộng chưa thành, trái tim khắc khoải”

Hôm đó,  trước sự khắc khoải trào dâng, ông Gioan “liền sai các môn đệ” đến hỏi Đức Giêsu, rằng: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (x.Mt 11, 3)

***
Sự hoài nghi của ông Gioan có được xếp vào loại “hoài nghi chân thành”?  Có lẽ nên trở lại Nadarét, quê hương của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ có câu trả lời.
Thật vậy, niềm tin vào Đức Giêsu “có thật là Đấng phải đến hay không?”  không phải là không có sự hoài nghi ngờ vực.

Sự hoài nghi ngờ vực, trước tiên, lại xảy ra ngay tại quê hương của Đức Giêsu. Không ai có thể tin rằng, sự hoài nghi của những người đồng hương lại dẫn đến hành động cực đoan đến độ, họ đòi “kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực”(Lc 4, 29).

Tại sao họ lại có hành động “du côn” như thế? Thưa, là vì, hôm đó, sau khi đọc Sách Thánh, với một phần trích đoạn Isaia, Đức Giêsu liền tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.  

Lời tuyên bố chưa kịp chấm dứt, cả hội đường xầm xì những lời lẽ chất chứa sự hoài nghi: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”. Hôm đó, kết thúc cho sự trở về quê hương của Đức Giêsu là một rừng người “đầy phẫn nộ” (x. Lc 4, 28)

Còn hôm nay, hôm những người môn đệ của ông Gioan đến gặp Đức Giêsu, khác hẳn. Các môn đệ của ông Gioan, sau khi nghe những lời Đức Giêsu nói, cũng là những lời được trích từ sách Isaia, họ không biểu lộ sự hoài nghi, Kinh Thánh chép rằng: “họ đi”.

Không thấy Tin Mừng nói họ đi đâu, nhưng có phần chắc, nơi đến là nhà tù, nơi giam ông Gioan. Vâng, chắc hẳn họ sẽ kể cho ông thầy mình nghe điều Đức Giêsu đã nói, rằng:  “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” .

Được sinh ra trong một gia đình cha là tư tế; mẹ là bà Êlizabeth “cũng thuộc dòng tộc tư tế Aharon”, tất nhiên, ông hiểu ngay những lời Kinh Thánh này.

Như vậy, sự hoài nghi của ông Gioan (nếu có) cũng chỉ là “sự hoài nghi chân thành”.  Do đó, chúng ta có thể tin rằng, “lời cuối cho một cuộc tình”, cuộc tình của ông với những người môn đệ, có phần chắc là lời khẳng định, rằng: Đức Giêsu chính là Đấng phải đến, không còn phải-đợi-ai-khác nữa…

****
“Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không?”

“Đức Giêsu, Ngài có thật là Đấng đã đến thế gian không?”

Hôm nay, nếu có ai đó đến hỏi chúng ta như thế, chúng ta sẽ trả lời thế nào?
Phải chăng, kể cho họ nghe câu chuyện “Cuộc đời Chúa Cứu Thế”? Phải chăng, nhân dịp Mừng lễ Giáng Sinh, mời họ tham dự một buổi trình diễn thánh nhạc, đi lễ nửa đêm và sau đó là viếng hang đá Belem?

Thưa, tất cả những việc làm như thế đều có một giá trị nhất định. Thế nhưng, sẽ là giá trị hơn hết khi câu hỏi nêu trên được trả lời bằng chính cuộc sống của mỗi chúng ta.

Khuôn mặt Chúa Giêsu sáng ngời trước bàn dân thiên hạ không do những ánh đèn lấp lánh nơi hang đá do được trang trí dịp lễ Giáng Sinh, nhưng là do những việc làm thiết thực của chúng ta đối với tha nhân, với gia đình và với xã hội.

Thiên hạ chỉ có thể nhận ra “Đức Giêsu thật là Đấng  đã đến thế gian” khi họ thật sự “mắt thấy tai nghe” chúng ta, biết “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp… chiếu trong cậy vào nơi thất vọng”

Thiên hạ chỉ có thể thốt lên: “Ồ! Đức Giêsu thật là Đấng đã đến thế gian” khi họ thật sự mắt-thấy-tai-nghe, người môn đệ của Ngài, là chính chúng ta, biết “tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu”.

Đó không phải là những việc dễ dàng, một sớm một chiều, chúng ta có thể thực hiện.

Thế nhưng, nếu chúng ta có lòng kiên trì và “thấy mục đích Chúa nhắm”, mục đích mà Ngài đã công bố trong một hội đường tại Nadarét, rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”, thì đừng để nguồn cảm hứng của mình, nguồn cảm hứng “Này con xin đến để thực thi ý Ngài”, tan vỡ theo thời gian.

Hãy nhớ, chỉ khi chúng ta thực thi ý Chúa, chỉ khi đó, qua chúng ta, thiên hạ mới nhận ra “Đức Giêsu, thật là Đấng đã đến thế gian”.

Petrus.tran






Thứ Hai, 9 tháng 12, 2013

Tôi đã giục lòng sám hối!



Chúa Nhật II – Mùa Vọng – A

Tôi đã giục lòng sám hối!

Ca dao Việt Nam có câu:  “Thời  giờ ngựa chạy, tên bay”. Đúng vậy, thời gian quả là trôi qua quá nhanh, lịch Phụng vụ hôm nay (08/12/2013) bước vào Chúa Nhật II Mùa Vọng. Không còn bao lâu nữa, chúng ta, một lần nữa, long trọng đón mừng  lễ kỷ niệm Chúa Giêsu Giáng Sinh. Nhìn quanh ta, bầu không khí của Lễ Giáng Sinh mỗi ngày một thêm rộn ràng, nhộn nhịp.

Sự nhộn nhịp, rộn ràng được biểu lộ qua việc mua sắm, chuẩn bị quà tặng, điện thư cho gia đình, bạn bè, thân hữu. Sự nhộn nhịp còn được biểu lộ qua việc một số nhà thờ, cũng như một vài nơi trong xóm đạo, người ta bắt đầu tất bật giăng hoa kết đèn, làm hang đá, dựng cây thông.

Về mặt tâm linh, một số nhà thờ đã  thông báo chương trình tĩnh tâm, giảng phòng. Vào website sinhvienconggiao.com, một chương trình tĩnh tâm và công tác chuẩn bị đã được công bố chi tiết. “Cầu nguyện, xét mình, xưng tội và phút hồi tâm” là đề tài được ban tổ chức đưa ra như là trung tâm điểm của buổi tĩnh tâm giảng phòng cho anh chị em sinh viên Công Giáo. 

“Xét mình, Xưng tội và Phút hồi tâm” chính là trọng tâm của “Sự Sám Hối” và luôn được coi là thông điệp quan trọng trong Mùa Vọng. Thật vậy, ngay từ Mùa Vọng thứ nhất, nếu được phép gọi như thế, của hơn hai ngàn năm xa trước đó, “Sự Sám Hối” cũng đã được ông Gioan xếp vào thông điệp “tối khẩn” để đón nhận ờ cứu độ. 

Ông Gioan là ai? Thưa, theo lời Kinh Thánh chép lại, ông là người sứ giả được Thiên Chúa sai đến, và đã được ngôn sứ Isaia mô tả rất sát với thực tế sứ vụ của ông ta, rằng: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3, 3).  

**
Lược qua đôi nét về tiểu sử của ông Gioan chúng ta thấy, ông là con của ông Dacaria, một vị tư tế thuộc nhóm Avigia, và bà Elisabeth cũng thuộc dòng tộc tư tế Aharon. Dưới sự quan phòng của Thiên Chúa, mặc dù mẹ của ông “tuy là người hiếm hoi… và đã cao niên”, nhưng Thiên Chúa đã nhận lời cầu xin của cha ông là Dacaria, đã cho ông ra đời một cách đặc biệt. 

Đặc biệt hơn, sau khi sinh được tám ngày, lúc ông Gioan chịu phép cắt bì và đặt tên, thì Dacaria, cha của ông, được tràn đầy Thánh Thần và nói: “Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao, con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người” (Lc 1,76).

Và quả thật, sau những ngày sống ẩn dật, với trang phục “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da”, ăn uống bằng “châu chấu và mật ong rừng” không khác gì các ngôn sứ xưa kia, “ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê…” với lời rao giảng rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3, 1-2) 

Không kêu gọi “Sám Hối” xuông, ông Gioan khuyến cáo người sám hối phải cụ thể hóa bằng hành động, như cây phải “sinh hoa quả”. Vâng, ông Gioan coi đó như là dấu hiệu “để chứng tỏ lòng sám hối”. Nếu không sám hối, ông đưa ra lời tuyên bố quyết liệt rằng, “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt, đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (x.Mt 3, 8-10)

Sự xuất hiện của ông, với những lời rao giảng như thế, tưởng chừng làm chói tai gai mắt cử tọa, nhưng không, nó lại thu hút được nhiều đám đông dân chúng. Sử liệu đã ghi chép lại rằng: “người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan kéo đến với ông. Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan”. 

Là thế, nhưng ông Gioan không vì thế mà lợi dụng lòng ngưỡng mộ của dân chúng, ông cũng không để bất cứ ai hiểu lầm về vai trò của ông, vai trò “ngôn sứ của Đấng Tối Cao”. 

Hôm đó, sau những lời cáo trách đối với những người thuộc phái Pharisêu và phái Sađốc, là những kẻ giả hình, ông Gioan tuyên bố: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối”. (x.Mt 3, 11)

Có thể kết luận rằng, nhắc tới Gioan Tẩy Giả, chính là để giới thiệu với mỗi người Kitô hữu chúng ta một tấm gương mẫu mực về một con người, không phải là qua cách ăn mặc của ông, mà là để học theo cách sống của ông, để sao cho bản-thân-mình cũng chính là tiếng-nói-nối-tiếp-của-Gioan, nói với mọi người rằng “Anh em hãy tỏ lòng sám hối, vì Nước Chúa đã đến gần”. 

***
Mỗi khi nhắc lại ông Gioan Tiền Hô, cách sống của ông và những gì ông đã “hô” trong hoang địa năm xưa, đừng bao giờ xem, đây là “chuyện xưa tích cũ” mà hãy nghĩ rằng, câu chuyện này rất mới, luôn mới và rất cần thiết, không chỉ cho đời sống của chúng ta hôm nay, mà còn rất hữu ích trong suốt cuộc đời Kitô hữu của chúng ta. 

Thật vậy, đến với Mùa Vọng, nói cách khác, nếu chúng ta nhìn Mùa Vọng không theo nhãn giới là mùa “mua sắm, ăn uống, tiệc tùng, chưng diện, khoe khoang, chơi nổi v.v…” như thói đời… mà là mùa để trông mong và hy vọng về ngày Đức Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai, thì, cách sống giản dị của ông cũng như những lời mà ông đã khuyến cáo, đúng là “một trường học sống động, nơi mà chúng ta có thể học bí quyết của niềm vui đích thực”

Câu nói trên chính là sứ điệp của nhà thần học Joseph Ratzinger được gửi đến hàng ngàn người hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô nhân buổi đọc Kinh Truyền Tin  trong một Mùa Vọng vào những năm ngài đang thực thi chức vụ nối tiếp thánh Phêrô cai quản Hội Thánh.

Chính vì thế, đến với Mùa Vọng, không gì tốt hơn là hãy ghi khắc những lời khuyến cáo của ông Gioan Tiền Hô, và coi đó như kim chỉ nam cho cuộc đời của mình, cuộc đời của một Kitô hữu. Bởi, những lời khuyến cáo đó như một tiếng chuông cảnh báo để chúng ta “xem lại” cuộc đời mình, xem lại đâu là “niềm vui đích thực” của chúng ta hôm nay.  

Tại sao phải xem lại cuộc đời của chúng ta? Tại sao phải xem lại đâu là niềm-vui-đích-thực của chúng ta? Thưa, là bởi, chính nhờ đó mà chúng ta có thể thẩm định được “cây đức tin” của chúng ta có khả năng nảy sinh “quả tốt” hay “trái đắng”!. 

Thật vậy, nếu “niềm vui đích thực” của chúng ta chỉ là những ham muốn về tiền bạc, về danh vọng, về quyền lực, về nhục dục v.v… có phần chằc, cây-đức-tin của chúng ta sẽ chỉ nảy sinh những trái đắng, như “trái dâm bôn, trái phóng đãng, trái tranh chấp, trái hận thù, trái chia rẽ, trái bè phái, trái ganh tị, trái say sưa chè chén”. 

Hãy nghe Cohelet nói: “Tôi có cả một đàn súc vật… nhiều hơn hết mọi người. Tôi cũng đã tích trữ bạc, vàng và vật quý… Tôi đem đào kép về ca hát, mời mỹ nữ cung phi đến, hưởng mọi thú vui của con cái loài người. Tôi đã trội vượt và giàu có hơn hết mọi người đã sống trước tôi ở Giêrusalem… Bấy giờ nhìn vào hết mọi việc do chính tôi làm, và bao gian lao vất vả tôi phải chịu, tôi nhận thấy: tất cả chỉ là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát” (x.Gv 2, 6-11)
Hãy nhớ, tất cả chỉ là phù vân, trừ “Nước Trời”. 

****
Có một điều chúng ta hay lầm lẫn, đó là, nhiều khi chúng ta nghĩ rằng, mình sống ăn-ngay-ở-lành không làm gì nên tội, không trộm cắp, không bất công với ai,  thì có gì phải “sám hối”. 

Vâng, theo tiêu chuẩn con người, chúng ta có thể là người vô tội. Nhưng trước mặt Thiên Chúa thánh khiết, mọi người đều là tội nhân. Thánh Thần Chúa qua miệng lưỡi tông đồ Phao lô, đã nói rằng: “Vì mọi người đều đã phạm tội, mất hết sự vinh hiển của Thiên Chúa” (Rm 3, 23). 

Vua David đã nhận rõ điều này nên đã cất tiếng thở than: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi. Đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51, 7). 

Vì thế, hãy để một vài giây phút hồi tâm và hãy tự hỏi lòng mình rằng: “Đã có bao nhiêu Mùa Vọng đi qua đời ta!? Đã bao nhiêu lần chúng ta thực thi lời kêu gọi của ông Gioan tiền hô “Anh em hãy sám hối”? Đã có bao nhiêu lần Mùa Vọng đi qua đời ta? Đã bao nhiêu lần chúng ta “thú nhận cùng Thiên Chúa là Cha toàn năng, cùng tất cả anh chị em” rằng “tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng lời nói và việc làm và những điều thiếu xót”?

Chúng ta cùng trở lại sông Giodan và cùng nghe lại lời ông Gioan Tiền Hô nói: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẩm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”. (x.Mt 3, 11-12)

Nhắc lại lời tuyên bố này để làm gì? Thưa, trước là để chúng ta đừng bị ru ngủ, đừng bị lừa bịp bởi những chủ thuyết vô thần duy vật, rêu rao lếu láo, rằng thì-là-mà “Thiên Chúa đã chết” còn đâu “Đấng đến sau tôi…” có đâu “ Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa”… và sau là để đặt một câu hỏi cho mỗi chúng ta. 

Câu hỏi rằng: khi Đức Giêsu trở lại lần thứ hai làm công việc “rê sạch lúa”, bao nhiêu phần trăm tôi là “thóc mẩy”, bao nhiêu phần trăm tôi là “thóc lép”?!
Vâng, một câu hỏi không quá khó để có câu trả lời. 100% tôi sẽ là “thóc mẩy” nếu tôi luôn sống trong tình trạng “tỉnh thức sẵn sàng” với một tâm hồn biết hồi tâm, “giục lòng sám hối” mỗi khi lỡ lầm. 

Petrus.tran








Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2013

Hãy canh thức, và hãy sẵn sàng…

Chúa Nhật I – Mùa Vọng – A

Hãy canh thức,
        và hãy sẵn sàng…

Chúng ta vừa kết thúc năm Phụng Vụ bằng thánh lễ kính trọng thể Chúa Giêsu Kitô Vua. Hôm nay, Chúa Nhật 01/12/2013, năm Phụng Vụ mới bắt đầu. Theo truyền thống, khởi đầu năm phụng vụ luôn được bắt đầu bằng “Mùa Vọng”.

Vọng nghĩa là gì? Thưa, là trông đợi và hy vọng. Vọng, theo nguyên ngữ tiếng Latin: Adventus, còn có nghĩa là “đến – sắp đến”.

Với Mùa Vọng, nếu được gọi là như thế, của hơn hai ngàn năm xa trước đó, chuyện “đến và sắp đến” đó là, Thiên Chúa đến trần gian và đã đi vào lịch sử nhân loại. Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa, “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người”. Để rồi “Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô; Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Ðức Chúa Cha…”

Với Mùa Vọng của hôm nay, chúng ta sẽ trông mong và hy vọng điều gì? Và sự thật là điều gì “đến và sắp đến”? Thưa, điều chúng ta trông mong và hy vọng, điều  đến-và-sắp-đến, đó là, Đức Giêsu “Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng”.(Kinh Tin Kính)

Thật vậy, khi còn tại thế, Đức Giêsu đã tâm tình cùng các môn đệ  trong bữa tiệc ly rằng: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy… Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng, và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được.” (Ga 16, 16…22).
“Thầy sẽ gặp lại anh em” – “Người sẽ lại đến trong vinh quang”. Đó chính là trọng tâm của Mùa Vọng, mà hôm nay, toàn thể Giáo Hội Công Giáo long trọng bắt đầu cử hành.

**
Nhớ, hơn hai ngàn năm xa trước đó, chính Chúa Giêsu đã công bố thông điệp này trong một lần Ngài cùng các môn đệ lên Giêrusalem.

Chuyện được ghi lại rằng, hôm đó, “Khi Đức Giêsu từ trong Đền thờ đi ra… Sau đó, lúc Người ngồi trên núi Ôliu, các môn đệ tới gặp riêng Người và thưa: Xin Thầy nói cho chúng con biết… cứ điềm nào mà biết ngày Thầy quang lâm” (Mt 24, 3).

Điềm nào mà biết ngày Thầy quang lâm ư!? Vâng, một thống kê cho biết, trong phạm vi thế kỷ 20 vừa qua, một số tín đồ của một giáo phái nọ, đã tiên báo “ngày Giêsu quang lâm” những năm lần.
Rầm rộ nhất là lời tiên báo của nhà truyền giáo Harold Camping. Qua việc nghiên cứu Kinh Thánh, Harold Camping tiên tri rằng, vào ngày 21.05.2011 Chúa Jesus Christ tái lâm và song song với sự trở lại của Chúa Jesus, nhiều thiên tai như động đất xảy ra, khởi đầu từ 6 giờ chiều ngày thứ bảy tại New Zealand (Tân Tây Lan) và cuộn theo từng múi giờ, sự tàn phá của thiên tai tràn ngập trên hành tinh của chúng ta. Kể từ ngày 21.05.2011 thiên tai tấn công liên tiếp, hủy diệt loài người trên trái đất cho đến tháng 10.2011, trái đất bị “hỏa thiêu”, trở thành quả cầu lửa, và trong số 6 tỷ người, chỉ có 200 triệu là được Chúa đón về thiên đàng.

Lời tiên đoán này đã được Harold Camping loan tin qua hệ thống 65 đài phát thanh, bằng 81 ngôn ngữ, và qua hệ thống Internet. Không dừng ở đó, ông ta còn tung ra mấy triệu Mỹ kim để đặt các bảng Billboards, tổ chức quảng cáo trên xe bus, và bằng những đoàn người mặc áo T-Shirt có dòng chữ “Judgment-Day May 21, 2011” hoặc chữ “RAPTURE May 21, 2011”. (trích nguồn: internet).

Những lời tiên báo của Harold Camping chỉ mới nói lên được “một nửa sự thật”.  còn một nửa sự thật kia, ông ta quên (hoặc chưa) nói tới.

Mà, như có lời nói rằng: “Một nửa ổ bánh mì vẫn là bánh mì, nhưng một nửa sự thật không phải là sự thật.” 

Đúng, Đức Giêsu có nói đến những thiên tai, những hiện tượng sẽ xảy ra trước cũng như trong ngày Ngài quang lâm.  Nhưng, “một nửa sự thật” còn lại, mà Harold Camping đã quên,  Đức Giêsu không quên, Ngài đã công bố, rằng “Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.” (Mt 24, 36).

Hôm đó,  để trả lời cho câu hỏi của các môn đệ, Đức Giêsu đưa ra một lời cảnh báo rằng, “Thời ông No-ê, như thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”.

***
“Thời ông No-ê như thế nào?”. Thưa, Kinh Thánh Cựu Ước có ghi lại rằng: Trước “Sự gian ác của con người trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. Đức Chúa phán: ‘Ta sẽ xóa bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng’. Nhưng ông No-ê được đẹp lòng Chúa” (St 6, 5-9)

Ông No-ê, theo lời kể lại: “là người công chính, hoàn hảo giữa những người đồng thời, và ông đi với Thiên Chúa”. Chính vì thế, đúng như lời Kinh Thánh có chép: “Ai trông cậy Đức Chúa thì được an toàn” (Cn 29, 25),  Đức Chúa không chỉ cho ông biết “giờ tận số của mọi xác phàm” mà còn nói với ông “Hãy làm cho mình một chiếc tàu (và) hãy vào tàu, ngươi cùng con trai ngươi.. ”  Nhờ đó, ông No-ê và gia đình đã được an toàn khi Đức Chúa “đổ mưa xuống đất trong vòng bốn mươi ngày, bốn mươi đêm”.

Chuyện được ghi lại rằng: “Mọi loài trên mặt đất, từ con người đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời chúng bị xóa khỏi mặt đất, chỉ còn lại ông No-ê và những gì ở trong tàu với ông.” (St 7, 23).

Bên cạnh lời cảnh báo nêu trên, Đức Giêsu còn đưa ra một thí dụ rất đời thường để nói lên sự bất ngờ của ngày “Con Người sẽ đến”, Ngài đã ví dụ rằng: “Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông ta đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu.” (Mt 24, 43).   

Hôm đó, khép lại những lời cảnh báo, một thông điệp đã được Đức Giêsu long trọng tuyên bố, rằng: “Vậy, anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến”. Người nhấn mạnh: “Cho nên, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”  (Mt 24, 44)

****
Các môn đệ của Đức Giêsu, tiêu biểu là tông đồ Phaolô cũng đã nói với tín hữu ở Thê-xa-lô-ni-ca rằng “Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm”. Và cùng một tâm tình như Đức Giêsu, thánh nhân cũng đã khuyên nhủ rằng “hãy tỉnh thức và sống tiết độ” (1Tx 5, …6)

Với các tín hữu ở Roma, thánh nhân có lời cảnh báo mạnh mẽ hơn, rằng: “Anh em biết, chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo” (Rm 13, 11)

*****
Bây giờ là tới phiên chúng ta. Với những lời cảnh báo của Đức Giêsu cũng như của thánh Phaolô, vâng, chúng ta hãy trở về trong thinh lặng và hãy tự hỏi lòng mình rằng:  “tôi đang canh thức và sẵn sàng? – tôi đang tỉnh thức và sống tiết độ”?

Đừng quên câu chuyện về những người cùng thời ông No-ê, chỉ vì sống không tiết độ, chỉ vì “mải mê ăn uống…” cho nên, họ đã “không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy.” (Mt 24, 39).

Hãy nhớ rằng, “tiết độ” là một trong những hoa quả của “Thần Khí” (Gl 6, 22).  Như vậy, sống tiết độ chính là sống nhờ Thần khí, mà, như lời tông đồ Phaolô nói, “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5, 25).

Nhờ Thần Khí mà tiến bước, thì, ai có thể ngăn cản chúng ta bước vào “con tàu No-ê”? Bước vào được con tàu No-ê, cơn hồng thủy nào có thể nhấn chìm chúng ta?

Thật ra thì, có nằm mơ, con tàu No-ê cũng không còn hiện diện. Thế nhưng, hôm nay, vẫn còn một con tàu, một con tàu khác để chúng ta bước vào, hầu có thể tránh được những cơn hồng thủy, những cơn “hồng-thủy-chủ-nghĩa… hồng-thủy-đam-mê-dục-vọng, hồng-thủy-tiền-tài-danh-vọng, hồng-thủy-say-sưa-chè-chén, hồng-thủy-chơi-bời-dâm-đãng, hồng-thủy-cãi-cọ-ghen-tương”,  con tàu đó mang tên “Hội Thánh”.

Con tàu mang tên “Hội Thánh” đã được chính Đức Giêsu ủy nhiệm cho “người anh cả Phêrô” cầm lái, với sự hiện diện của Ngài “mọi ngày cho tới tận thế”.

Như xưa kia, khi nạn hồng thủy xảy ra, “chỉ còn lại ông No-ê và những gì ở trong tàu với ông” sống sót. Cũng vậy với chúng ta hôm nay, trong con tàu Hội Thánh, chúng ta mới có quyền trông mong và hy vọng mình có tên trong danh sách “một người được đem đi” (Mt 24, …41)

Chính vì thế, đừng chần chờ gì nữa, hãy bước vào con tàu mang tên Hội Thánh, bởi, những gì đang xảy ra trên thế giới hôm nay, như chiến tranh, thiên tai, bão lụt, động đất cùng với sự suy đồi đạo đức còn hơn thời No-ê v.v… đó chính là “dấu chỉ”, những dấu-chỉ-thời-đại, cho chúng ta thấy, ngày Chúa Giêsu trở lại, đang gần kề, ngày “Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết” đang “sắp đến”.

Cuối cùng, hãy nhớ rằng, chỉ khi là hành khách của con tàu mang tên Hội Thánh, chúng ta mới được cung cấp “lương thực thường tồn”, đó chính là “Mình và Máu Thánh Con Trời Giêsu”, một thứ lương thực không chỉ đem đến cho chúng ta sự sống đời đời mai sau, mà còn, ngay tại đời này, đem đến cho chúng ta một sức mạnh siêu nhiên, đủ tỉnh táo để  “canh thức và sẵn sàng” cho ngày “Con Người sẽ đến”. 

Petrus.tran





Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...