Chủ Nhật, 29 tháng 3, 2015

Chẳng lẽ con sao?

Chẳng lẽ con sao?
Có bao giờ chúng ta tự hỏi, điều căn bản để giúp cho con người  sống và  tồn tại, mỗi ngày, là gì? Có lẽ, không ít người sẽ trả lời rằng, đó là: ăn uống và hít thở.
Đúng, nhưng, đó chỉ là về phương diện thể chất. Cuộc sống của con người còn liên quan đến phương diện tinh thần. Và ở phương diện tinh thần, có những điều còn quan trọng hơn cả ăn và uống, bởi không có nó, con người chẳng muốn ăn và cũng chẳng muốn uống. Những điều quan trọng hơn, đó là: tình yêu và niềm hy vọng.
Thật  vậy, như sách có câu: “Cuộc sống không có tình yêu khác nào khu vườn không có ánh nắng” và như Thomas Fuller nói: “Nếu không phải nhờ hy vọng, trái tim sẽ tan vỡ”. Nói tắt một lời, sống mà không có tình yêu và niềm hy vọng thì sống cũng bằng như chết.
Khi nói tới tình yêu, người ta thường hay dùng hình ảnh một trái tim. Tại sao là trái tim mà không phải là hình ảnh nào khác? Thưa, vì  trái tim là hình ảnh sống động của sự sống, mà một tình yêu sắt son thì lại cần có sự sống động như thế.
Tuy nhiên, thực tế của cuộc đời, một tình yêu sắt son kiểu “Romeo – Juliet” hay kiểu “một mái nhà tranh hai quả tim vàng” là điều hiếm thấy, mà nếu có thấy, có lẽ, chỉ thấy trên tiểu thuyết và phim ảnh, mà thôi.
Đối với Ki-tô giáo, khi nói tới tình yêu, tất nhiên, hình ảnh “trái tim” vẫn là hình ảnh đáng trân trọng, như chúng ta vẫn thấy trên tấm hình “trái tim Chúa Giê-su”.
Tuy nhiên, có một hình ảnh, có lẽ ít khi chúng ta nghĩ tới, mới chính là biểu tượng cho “tình yêu thương” của Ki-tô giáo, một tình yêu thương “Người liều mạng sống vì người mình yêu”, đó là hình ảnh cây thập giá.
Tại sao lại là hình ảnh “thập giá”?  Thưa, là bởi, đó là hình ảnh về cái chết của Đức Giê-su, một cái chết “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”.
Chính vì thế, hôm nay, Giáo Hội dành đúng một tuần, gọi là “Tuần Thánh”, được bắt đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá, hầu đưa toàn thể người tín hữu trở về Giê-ru-sa-lem xưa, để chiêm ngưỡng lại con đường tử nạn của Đức Giê-su, một con đường mà hôm nay được biết đến với tên gọi là “Via Dolorosa”, một con đường đem đến cho chúng ta “tình yêu và niềm hy vọng”. “Via Dolorosa”, cái tên được biết đến như một cung đường sầu khổ, một sự sầu khổ và đớn đau mà  Đức Giê-su đã phải đi qua.
Vâng, trớ trêu thay, khi chỉ vài hôm trước, con đường này đã được trải thảm bằng những tấm áo choàng cùng với một rừng người cầm cành thiên tuế ra đón Đức Giê-su. Họ nghênh đón Ngài với những lời reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa” (x.Mc 11, 8-10). Nhưng rồi có ngờ đâu, chỉ vài hôm sau,  Đức Giê-su đã phải chết thê thảm như một tội đồ trên thập tự tại đồi Golgotha.
Vâng, cuộc tử nạn của Đức Giê-su bắt đầu bằng một cuộc bố ráp tại vườn  Ghếtsimani. Vài hôm trước đó, nhóm thượng tế  đã sắp đặt một kế hoạch truy bắt Ngài. Kế hoạch đó đã được Giuđa Iscariot vạch ra. Trước đó, y đã lén lút đi gặp các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ  để bàn về cách thức nộp Đức Giêsu cho họ. Được các thượng tế hứa hẹn rằng, sẽ “cho hắn ba mươi đồng bạc”, vì thế cho nên “từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.” (x.Mt 26, 15-16).
Và khi giờ đã đến. Khi những vệt nắng cuối cùng khuất hẳn bầu trời Giêrusalem. Một nhóm người được các thượng tế và kỳ mục sai đi truy nã Đức Giêsu.
Trong khi đó, Đức Giê-su, tại Ghếtsimani, trong thinh lặng của nguyện cầu, Ngài cảm thấy hãi hùng và xao xuyến. Vâng, làm sao không hãi hùng và xao xuyến cho được, vì kẻ phản bội lại là một người trong nhóm mười hai.
Ánh đuốc bập bùng cùng với tiếng vó ngựa phá tan sự thĩnh lặng của nguyện cầu. Còn tiếng gươm giáo và gậy gộc va chạm  đã khiến cho ai nấy phải  rợn người. Vòng vây mỗi lúc một xiết chặt hơn. Ghếtsimani bỗng chốc phủ trùm bầu không khí của bạo lực và chết chóc.
Và  khi Giuda Iscariot xuất hiện, sự trang nghiêm thường nhật của y không còn nữa. Y xông đến hôn Đức Giê-su, một ám hiệu mà y đã nói với đồng bọn: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy.” (Mt 26, 48).
Ba năm công khai rao giảng Tin Mừng. Đây không phải lần đầu tiên người ta tìm bắt Đức Giêsu. Đã nhiều lần người ta tìm cách giết Ngài, đe dọa và ném đá Ngài. Đức Giêsu đều tìm cách lánh đi. (Ga 8,59). Nhưng hôm nay, tại vườn Ghếtsimani, Giêsu người Nazareth, Ngài đứng lặng “lòng xao xuyến bởi địch thù gào thét, bởi ác nhân hà hiếp”.(Tv 55).
Toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ người Do Thái ập đến bắt Đức Giêsu. Họ trói Ngài rồi điệu đến dinh thượng tế Caipha. Họ bắt Ngài chỉ vì Ngài đã dám tuyên bố rằng “Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại” (Mt 25,61). Họ bắt Ngài chỉ vì Ngài nhìn nhận mình chính là “Đấng Kitô Con Thiên Chúa”.
Bảy mươi mốt thành viên Hội Đồng Công Tọa quá đỗi bất ngờ trước chiến tích của tên “phản thùng” Giuda. Màn đấu tố Đức Giêsu suốt đêm tại dinh thượng hội đồng không làm họ mãn nguyện. Họ muốn tìm một đồng minh từ  Philatô, nên đã “dẫn độ” Đức Giê-su đến dinh quan tổng trấn.
Tại dinh quan tổng trấn. Philatô xuất hiện. Ông ta đã chết  lặng  khi nhìn thấy thân thể rã rời của Đức Giêsu sau một đêm bị những trận đòn tra tấn. Hình hài của Đức Giêsu, thật đúng như những gì ngôn sứ Isaia đã tiên tri về Ngài: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi người ta phỉ nhổ” (Is 50, 6).
Cuộc thẩm vấn “chớp nhoáng” giữa Philatô và Đức Giêsu diễn ra chóng vánh, trước mắt ông ta, Đức Giêsu “chẳng can tội gì đáng chết” (Lc 23,14). Thật đáng tiếc! Philatô, ba lần muốn phóng thích Ngài, nhưng cả ba lần ông ta đều được đáp lại bằng những tiếng gào thét man rợ của nhóm kỳ mục và đám đông dân chúng: “Giết! Giết nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá”.
 Phiên tòa bị nát vụn bởi sự nhu nhược của Philatô. Đức Giêsu,như bị bủa vây bởi sự hèn nhát của quan tổng trấn. Ông ta, chứ không ngoài ai khác, đã lộ tâm địa của một kẻ bàng quang. Qua việc “rửa tay”, ông phủi bỏ trách nhiệm của mình.
Dẫu biết chắc rằng các cáo buộc chống lại Đức Giêsu không đạt tiêu chuẩn của một cuộc điều tra tư pháp, đúng luật lệ. Dẫu biết rằng, những lời chứng đều là “chứng gian” (Mt 26, …59). Thế nhưng, Philatô vẫn ngoảnh mặt làm ngơ trước “công lý và sự thật”. Để rồi, mệt mỏi vì những tiếng gào thét cuồng nộ của đám đông, quan tổng trấn ngượng ngùng “trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá” (x.Mc 15, …15)
Via Dolorosa – Con Đường sầu khổ bắt đầu trải ra cho Đức Giêsu. Mấy hôm trước, Ngài đã được đón tiếp như một quân vương. Nhưng hôm nay, ôi thật là sầu thảm. Lưỡi gươm và những mũi đòng đã được thay cho những nhành thiên tuế.
Trên đường ra pháp trường, không ít người nhìn ba cú té ngã của Đức Giê-su bằng con mắt khinh miệt. Thế nhưng, họ đâu biết rằng, qua ba cú té ngã đó,  nó gợi lên sự sa ngã của Adam, tình trạng sa ngã của nhân loại, và gợi lên mầu nhiệm Đức Giê-su gánh lấy sự sa ngã của chúng ta.
Rồi những lời chứng gian, những hành vi nhục mạ “khạc nhổ vào Người… bịt mặt Người … và tát Người túi bụi”. Thật ra, những điều đó phải xảy ra, như lời Đức Giêsu nói “Thế này là để lời Sách Thánh ứng nghiệm”.
Vâng, đúng là để ứng nghiệm với lời ngôn sứ về Ngài, rằng “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca…” (Is 53, 7).
Via Dolorosa – Con Đường sầu khổ rồi cũng phải đến. Vở kịch “thần thiêng”  rồi cũng đi vào màn chót. Trên đồi Golgotha, một rừng người, đứng thành từng nhóm đau đáu ngước nhìn Đức Giêsu. Ngài đầu đội mão gai, hai tay dang trước trời cao, thân hình dính chặt vào thập giá bằng những chiếc đinh. Thêm một tràng những lời khích bác, nhục mạ, sỉ vả, nhạo cười. Đức Giê-su vẫn “như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53, 7).
Đúng, có gì phải kêu ca, bởi, những gì Đức Giê-su phải gánh chịu, chính là những gì Ngài đã nói với Mẹ Ngài năm xưa trong một lần lên Giê-ru-sa-lem, rằng: “Con có bổn phận ở nhà của Cha con”. Bổn phận đó chính là phải thực hiện điều Ngài đã tuyên bố, rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”, và cái cách Ngài phải thực hiện chính là cái chết của mình, một cái chết trên thập giá tại Golgotha.
Hôm đó, tại Golgotha, sau khi Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma-xa-bac-tha-ni, nghĩa là: lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con”, Kinh Thánh ghi lại rằng: Ngài “tắt thở”.
Vâng, tất cả chỉ là vì tình yêu. Chỉ vì tình yêu, Đức Giêsu mới có thể “hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nộ lệ… vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2, 7-8). Chính tình yêu “hiến mạng sống mình cho người mình yêu”, Đức Giêsu đã làm cho cuối con đường Via Dolorosa không chỉ có đồi Golgotha hay tăm tối của sự chết, nhưng còn có niềm vui của Phục Sinh, của niềm hy vọng được  sống lại do Đức Giêsu Kitô là Chúa ban cho.
Nói tắt một lời, đó là “tình yêu và niềm hy vọng” của mỗi chúng ta hôm nay, người môn đệ của Ngài. Chúa Nhật hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa đọc bài “Tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu”. Bài đọc có vẻ khá dài. Và, nếu được phép so sánh, vâng, nó  cũng dài như cuộc đời Kitô hữu của chúng ta, hôm nay.
Nếu được phép so sánh, hãy thử so sánh xem, những vấp ngã của các môn đệ xưa, phải chăng cũng là những vấp ngã của chúng ta, hôm nay?
Xưa, Phê-rô, trước lời chất vấn của người đầy tớ gái, rằng “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Na-da-rét, ông Giê-su đó chứ gì?” Ông  liền chối: “Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!”
 Nay, là một Ki-tô hữu, qua việc kê khai vào mục “tôn giáo” của tờ chứng minh nhân dân, của bản sơ yếu lý lịch, chúng ta có khai là “Công Giáo” hoặc chí ít là “Thiên Chúa giáo”, hay ta lại lập lờ như Phê-rô xưa, khai một chữ “không” to tướng?  Nếu được phép so sánh, hãy thử so sánh xem, những hành động, những lời nói của dân Do Thái xưa, phải chăng cũng là của chúng ta hôm nay?
Xưa, người Do Thái, thay vì chấp nhận thả Đức Giê-su, một người, theo lời tổng trấn Phi-la-tô nói “không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy”, họ lại đòi thả “Baraba”, một tên sát nhân bỉ ổi.
Nay, trong mọi lựa chọn luân lý của mình, trước “bất công và bạo lực”, chúng ta lên án nó, hay chúng ta “đòi thả Baraba”, nhu nhược thỏa hiệp nó? Trước lòng nhân từ và thói hung hãn, chúng ta chọn nhân từ hay chọn “đòi thả Baraba – thói hung hãn”?
Xưa, dân Do Thái đã nói với Philatô rằng: “Chúng tôi chẳng có vua nào cả, ngoại trừ Ceasar!” Nay, trong một xã hội cổ vũ cho một nền văn minh sự chết, một nền văn minh cho rằng “Thượng đế đã chết rồi”, chúng ta cũng hòa giọng điệu của mình như thế, mỗi khi, vì lợi lộc tiền bạc, vì danh vọng trần thế, chúng ta sẵn sàng bán rẻ những lý tưởng cao đẹp,  những lý tưởng như “sự gì Thiên Chúa liên kết loài người không được phân ly”,  để chọn lấy những cái thứ yếu, thấp hèn?
Xưa, dân Do Thái thách thức Đức Giêsu khi Ngài bị treo trên thập giá bằng những lời ngạo mạn: “Nếu ngươi là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá, cứu lấy chúng ta, và cứu cả ngươi nữa”.
Nay, trong những lúc nguyện cầu, chúng ta cầu nguyện như thế nào? Chúng ta “xin” những điều tốt lành, nếu được nhận lời, ta cho rằng,  Chúa yêu chúng ta,  nếu không được,  chúng ta có phàn nàn, hoài nghi tình yêu thương của Ngài?
Trở lại bài “Tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu”. Vâng, khi nghe bài này, khuynh hướng chung là chúng ta thường lên án tất cả những người, trực tiếp cũng như gián tiếp, gây ra cái chết của Đức Giê-su.
Chúng ta luôn đặt ra những câu chất vấn rằng: Tại sao họ lại bạc tình trước một con người đã cứu chữa biết bao người bệnh tật, đau yếu, cho kẻ chết sống lại và đã cho họ ăn no nê? Tại sao họ lại chọn một kẻ sát nhân thay vì Đức Giê-su, Đấng đã công bố trước mặt họ  thông điệp, rằng: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. v.v…
Về cuộc tử nạn của Đức Giê-su, Ron Rolheiser, OMI, trong bài “Viết lại cuộc xử án của chúng ta” đã nhận xét: “Có vẻ như, chẳng có nhiều thay đổi trong thế giới ngày hôm nay. Vẫn còn không ít người chọn lựa cách hành xử như cách hành xử của những người trong cuộc xử án và kết án Đức Giêsu năm xưa. Vẫn còn không ít người, vì mù quáng, vì lợi lộc thế gian, sẵn sàng “bán đứng” đức tin của mình. Vẫn còn không ít người, vì danh vọng, vì quyền lực do thế gian ban cho, sẵn sàng la to, rằng: Đóng đinh hắn vào thập giá! Thế đấy…” (nguồn: internet)
Thế nên, thưa bạn, bạn và tôi, sau khi đọc xong bài viết này, chúng ta hãy nhìn lên thánh giá Chúa Giê-su Ki-tô, hãy can đảm mà nói với Ngài, như xưa các môn đệ cũng đã nói với Ngài, rằng: “Chẳng lẽ con sao?”   
Petrus.tran

Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2015

Yêu là… chết ở trong lòng một ít.



Chúa Nhật V – MC – B

Yêu là… chết ở trong lòng một ít.

Chúa Nhật hôm nay,  Mùa Chay được khép lại. Và, theo lịch Phụng Vụ, chúng ta sẽ bước vào tuần lễ “thương khó và  Phục Sinh”.

Khi nói tới tuần “thương khó và  Phục Sinh”, đi một vòng quan sát các giáo đường, chúng ta không thấy được cảnh nhộn nhịp, tưng bừng như tuần cuối của mùa vọng và Giáng Sinh.

Không tưng bừng, nhộn nhịp, phải chăng lễ Giáng Sinh quan trọng hơn “tuần thương khó và Phục Sinh”? Thưa, xét về một phương diện, thì, cả hai ngày lễ đó đều quan trọng, nó cho chúng ta thấy và biết, Đức Giê-su đã từ đâu đến và Ngài đã đến thế gian để làm gì.
Tuy nhiên, về phương diện đức tin, “tuần thương khó và Phục Sinh” quan trọng hơn, quan trọng hơn là bởi, sự chết và sự sống lại của Đức Giê-su, chính là trung tâm điểm đức tin của người Ki-tô hữu. 

Trong Tin Mừng thánh Gioan, chúng ta thấy có tất cả 22 đoạn nói về ba mươi ba năm tại thế của Đức Giê-su. Còn với cả bốn sách Tin Mừng, trong 89 đoạn, chỉ có bốn đoạn nói về sự giáng sinh của Đức Giê-su cùng với ba mươi năm ẩn dật của Ngài. Trong khi đó, với tuần thương khó và Phục Sinh, có tất cả 27 đoạn đã được các thánh sử viết.

Thì đây, trong những năm tháng còn tại thế, có bao giờ chúng ta nghe Đức Giê-su nói: “Tôi phải về Belem để tổ chức sinh nhật thứ 30… 31…32” của mình không? 

Trái lại, điều Đức Giê-su nói và Ngài đã nói tới ba lần, đó là: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (x.Mc 8, 31). Rồi đến lần thứ hai, cũng với nội dung như thế. 

Và, cho đến lần thứ ba, Đức Giê-su, rõ ràng hơn, Ngài đã tuyên bố “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem”... Không! không phải là “Belem” nhưng là “…Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người… sẽ đánh đòn và giết chết Người”. 

Khi nói đến ngày chết của mình, Đức Giê-su gọi đó như là “Giờ Con Người được tôn vinh”. Ô hay! Chết mà cũng tôn vinh ư! Đúng vậy, ở đời, có cái chết anh hùng nào mà không được tôn vinh! Với cái chết của Đức Giê-su, một cái chết để cứu nhân độ thế, một cái chết “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta” lại càng đáng tôn vinh hơn chứ.

Vâng, hồi ấy, khi nghe “Giờ Con Người” sẽ đến, các môn đệ, đặc biệt là Phê-rô ra sức ngăn cản. Họ ngăn cản, bởi, có thể, họ chưa hiểu được “Mầu nhiệm Vượt Qua” tức là cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Ngài.  

Có lẽ, các môn đệ chưa nghe Đức Giê-su, Thầy của họ, đã từng nói: “như ông Mô-sê đã gương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được gương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. (Ga 3, 14-15)

Cho nên, Đức Giê-su, hôm ấy, hôm Thầy và trò lên Giê-ru-sa-lem, Ngài đã giải thích về cái chết của mình bằng một so sánh rất thực tế. Đức Giê-su nói rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. (Ga 12, 24)  

Thầy phải chết, như hạt lúa phải chết, vì đó là ích lợi cho con người. Đã có tiếng từ trời cao vọng xuống như một ấn tín cho lời phán dạy của Ngài, “dân chúng đứng ở đó nghe”, tiếc rằng, họ tưởng “đó là tiếng sấm”. Đúng, đúng là tiếng sấm, nhưng là “sấm ngôn” từ trời, rằng: “Ta đã tôn vinh Danh Ta. Ta sẽ còn tôn vinh nữa”. (x. Ga 12, 28).    

Và quả thật, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Người bằng chính cái chết của “Con Một Người” trên đồi Golgotha. Và, sự việc “sẽ còn tôn vinh nữa”, đã được Con Một Người , là chính Đức Giê-su thực hiện, với lời phán hứa: “Phần tôi, khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. 

**
Hôm nay, qua việc nhận lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta không chỉ được Đức Giê-su “kéo lên” với Ngài, mà còn được tiếp cận Mầu nhiệm Vượt Qua. Tiếp cận Mầu Nhiệm Vượt Qua chính là tiếp cận cái chết và Phục Sinh của Đức Giê-su. 

Thế nên, là một Ki-tô hữu,  chúng ta cũng phải cùng chết với Đức Giêsu và cùng mai táng với Ngài. Nói theo cách nói của Đức Giê-su, chúng ta cũng phải được gieo-vào-lòng-đất và phải “chết đi”.    

“Chết đi” như thế nào? Tất nhiên, ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt “chết đi” như một kẻ “tử đạo”,  sự chết đi của chúng ta, đó là chết-đi-cho-tội-lỗi. Đó là chết đi cho những dục vọng xấu xa: dâm bôn, phóng đãng. Đó là chết đi cho những cá tính: nóng giận, chia rẽ, hận thù. ghen tuông. Đó là chết đi cho những thái độ thờ ơ, vô cảm trước những bất công, bạo lực, trước những hoàn cảnh bệnh tật, đói nghèo.  

Chết đi như thế nào? Thưa, không nhất thiết phải chết trên thập giá như Đức Giê-su khi xưa, với chúng ta hôm nay, chỉ cần… chỉ cần “chết ở trong lòng một ít”, là đủ.

“Chết ở trong lòng một ít” là chết như thế nào? Thưa, đó là, trong một thời đại người ta cổ võ cho chủ nghỉa vô thần, người ta lợi dụng sự độc quyền về truyền thanh, truyền hình, báo chí, sách vở v.v…  để ra rả những lời bêu rếu, chửi bới, chê cười, nhạo báng “Đạo Chúa”, thế mà chúng ta không phẫn nộ, không oán giận,, vẫn biểu lộ tình yêu thương, sự khoan dung… vâng, đó chính là chúng ta đã “chết ở trong lòng một ít” vậy.  

Trong vai trò là một bác sĩ, một người y tá, trước một bệnh nhân, chúng ta không “làm tình làm tội” họ, không đòi hỏi “phong bì phong bao”, chúng ta điều trị họ, săn sóc họ  với tất cả lương tâm nghề nghiệp của mình v.v… vâng, đó chính là chúng ta đã “chết ở trong lòng một ít” vậy.  

Nói chung, ở bất cứ vai trò gì trong xã hội, nếu chúng ta chịu thiệt thòi, thiệt thòi tiền bạc, chịu mất mát, mất mát công việc, mất mát bạn bè, mất mát địa vị trong xã hội… vì đức tin. Vâng, đó chính là chúng ta đã “chết ở trong lòng một ít” vậy.  

“Chết ở trong lòng một ít”, phải chăng, cũng giống như một hình thức “chay tịnh”? Phải chăng, cũng giống như một tay đua “phải kiêng kỵ đủ điều”? 

Thưa, đúng vậy. Tuy nhiên, cùng kiêng kị, nhưng,  như thánh Phaolô nói, thì “họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư…” Còn đối với chúng ta, ngài nói tiếp “…chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát.” (1Cr 9,25).

Thế nên, đừng quên, Đức Giêsu có nói : “ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.

Vâng, đó là một lệnh truyền, một lệnh truyền thật không dễ để thực hiện, nhất là thực hiện trong một xã hội, trong một thời đại  coi danh vọng, tiền bạc, quyền lực, thú vui xác thịt v.v.. như là cứu cánh cho cuộc sống.  

Chính vì thế, cách tốt nhất để thực hiện lệnh truyền, đó là: hãy  cầu nguyện. Đó là, chúng ta hãy noi gương Đức Giê-su xưa kia “lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khấn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng”. Đấng-có-quyền-năng không ai khác chính là Đức Giêsu Kitô – Đấng “trở nên nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5, 9) 

***
Thưa, Bạn, bạn có sợ khi phải “tùng phục Thiên Chúa”? Chắc chắn là rất sợ. Xưa, Đức Giê-su, khi đối diện nan đề này, Ngài đã sợ.

Xưa, đứng trước việc phải tùng phục Thiên Chúa, Người đã “xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất”, thế nhưng… nhờ lời cầu nguyện với Thiên Chúa, rằng “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” và nhận ra rằng “chính vì giờ này mà con đã đến”, thế nên, Người đã “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”(Pl 2, 8)

Vâng, đó là một cái chết vì “tùng phục Thiên Chúa” , một cái chết để nói lên tình yêu của Thiên Chúa, một Thiên Chúa “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Với chúng ta hôm nay, để thực hiện sự tùng-phục-Thiên-Chúa, rất giản dị, đó là: hãy cầu nguyện như Đức Giê-su đã cầu nguyện. Còn nữa, hãy thực thi lệnh truyền của Đức Giê-su, một lệnh truyền đã được Ngài công bố trong bữa tiệc ly, lệnh truyền rằng: “Thầy ban cho anh em môt điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này:  là anh em có lòng yêu thương nhau” (x.Ga 13, 34-35)

Thưa Bạn, bạn đã “có lòng yêu thương nhau” chưa? Nếu có, bạn có biết “yêu” là gì? Vâng, nhà thơ Xuân Diệu trả lời: “Yêu là chết ở trong lòng một ít”. 

Vậy, đã là một Ki-tô hữu, là người môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô, cớ sao chúng ta lại không dám “chết ở trong lòng một ít” vì Ngài!

Petrus.tran
                                                                               

Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

“Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án”

Chúa Nhật IV – MC – B
“Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án”

Ba tuần của Mùa Chay đã trôi qua. Chúa Nhật hôm nay, chúng ta bước vào tuần thứ IV. Khác với ba tuần trước, ba tuần của lời mời gọi: “sám hối và tin vào Tin Mừng”. Của sự tìm biết Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và cung cách thờ phượng Ngài.

Với Chúa Nhật tuần này,  qua phần Phụng Vụ Lời Chúa, chúng ta sẽ nghe được một thông điệp, thông điệp nói đến ân huệ và tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.  Thông điệp đó được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gioan. (Ga 3, 14-21).

**
Tin Mừng thánh Gioan ghi lại rằng: Vào dịp lễ Vượt Qua, nhân cơ hội có Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do Thái. Ông ta đến gặp Đức Giê-su trong niềm tin vào Ngài như  là “một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến”.

Tại sao ông ta lại tin như thế? Thưa, bởi, ông ta lập luận rằng: “chẳng ai làm được những dấu lạ (Đức Giê-su) làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy”.

Đúng vậy, Đức Giê-su, ngay khi bắt đầu ra đi loan báo Tin Mừng, Ngài đã làm rất nhiều dấu lạ, dấu lạ hóa nước thành rượu trong một bữa tiệc cưới tại Cana là một ví dụ điển hình.

Còn chuyện Ngài  “được Thiên Chúa sai đến” ư! Thưa, cũng đúng . Đức Giê-su được sai đến không chỉ trong vai trò là một “tôn sư” mà còn trong vai “Con Một” của Thiên Chúa.

Hôm đó, sau những lời tranh luận với ông Ni-cô-đê-mô về sự tái sinh, Đức Giê-su đã khẳng định điều đó khi Ngài công bố một thông điệp, thông điệp rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

“Con của Người” sẽ làm gì để đem lại sự sống muôn đời cho nhân loại? Thưa, hôm đó Đức Giê-su cho biết: “như ông Mô-sê đã gương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được gương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”. (Ga 3, 14-15)

Không biết, hồi đó,  ông Ni-cô-đê-mô có hiểu câu nói đó của Đức Giê-su không! Nhưng, có phần chắc, ông ta hiểu, hiểu Đức Giê-su nói gì khi Ngài nói tiếp rằng “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”.

Sau này, quả đúng như lời Đức Giê-su nói, vào một buổi chiều ngày thứ sáu, trên đồi Golgotha, “Con của Người”, chính là Ngài, đã bị giương cao, giương cao trên cây thập giá. Cây thập giá đó, trở thành cây thánh giá, một cây thánh giá, nhờ đó, mà mọi người “được cứu độ”.

***
“Được Cứu Độ - Được Sống Muôn Đời”. Vâng, đó chính là kết quả từ cây Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô. Cây Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô như là cây trường sinh mới, một cây-trường-sinh-mới đã được tác tạo bằng chính thân xác của Ngài. Nó đã được gieo hạt tại miền đất Belem và đã trổ sinh hoa trái khi được “trồng xuống” tại đồi Golgotha …
Nếu như cây trường sinh ở vườn Eden năm xưa  bị “các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe canh giữ ” để ngăn chận con người “hái ăn và được sống mãi” (St 3, 24)  Thì hôm nay, cây Thánh giá Chúa Giêsu, cây trường sinh mới luôn “ở giữa thế gian. Và đó chính là “ân huệ của Thiên Chúa”.
Để được hưởng ân huệ này, thánh Phaolô nói,  “chính do ân sủng và nhờ lòng tin”(Ep 2, 8). Ân sủng và nhờ lòng tin chính là chìa khóa, là “password” giúp chúng ta mở trang web mang tên “Nước Trời”, nơi có cây-trường-sinh-mới, ban “Ơn Cứu Độ và Sự Sống Muôn Đời”.
****
Vâng,  “Ơn Cứu Độ và Sự Sống Muôn Đời” đã có, và ân huệ này Thiên Chúa ban cho con người không bao giờ bị giới hạn bởi không gian lẫn thời gian. Vấn đề còn lại là “lòng tin”,  lòng tin của chúng ta, chúng ta có tin vào ân huệ và tình yêu của Người?
Khi nói tới lòng tin, có thể nói, đó là một thách thức đối với chúng ta, nhất là trong xã hội  hôm nay, một xã hội cổ võ cho một nền văn hóa sự chết, một xã hội dạy dỗ con người ta rằng, Thiên Chúa đã chết rồi, một xã hội ngạo mạn rêu rao rằng “Thằng trời đi chỗ khác chơi; Để cho nông hội tiến lên làm mùa” thì, ít nhiều gì, nó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến “lòng tin” của chúng ta.

Ở một xã hội như thế, rất có thể, chỉ vì một phút yếu lòng, chúng ta gục ngã trước những mưu ma chước quỷ của Sa-tan và bè lũ của chúng. Rất có thể, chỉ vì một phút yếu lòng, chúng ta yêu thế gian đến nỗi “bán” Con Một của Người là chính Đức Giê-su, bằng cách này hay cách khác.

Thế nên, hãy để một phút hồi tâm và tự hỏi, tôi có “bán đứng” lương tâm mình chỉ vì một chút lợi lộc, của cải, tiền bạc thế gian ban cho? Tôi có “bán đứng” đồng nghiệp mình chỉ vì một chút danh vọng thế gian ban cho? Tôi có bán đứng đồng môn mình chỉ vì một chút quyền lực thế gian ban cho?
Đối với gia đình, tôi có bán đứng người bạn trăm năm của mình chỉ vì một phút yếu lòng để cho “hồn lỡ sa vào đôi mắt…” một em chân dài nào đó? v.v…

Nếu … nếu chúng ta có một phút yếu lòng! Hãy nhớ đến dụ ngôn “người cha nhân hậu”. (x.Lc 15, 11-32). Hãy tin vào lòng nhân hậu và sự bao dung của Thiên Chúa, như người con thứ trong dụ ngôn đã tin. Hãy đứng lên và đi về với Thiên Chúa, như người con thứ  đã “tin” rằng, người cha sẽ tha thứ và anh ta đã “đứng lên, đi về cùng cha”. Cuối cùng, hãy nhớ lời Chúa, qua miệng lưỡi ngôn sứ Isaia, có phán rằng “Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận. Tội các ngươi, dẫu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (x.Is 1, 18)

Hôm nay, chúng ta bước vào tuần thứ tư của Mùa Chay. Và cũng là lúc chúng ta  bước vào những ngày tĩnh tâm. Không gì tốt hơn là chúng ta hãy để cho tâm hồn tĩnh lặng và tự hỏi rằng tôi đã thật sự tin rằng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”? Không gì tốt hơn là chúng ta hãy để cho tâm hồn tĩnh lặng và tự hỏi rằng “tôi đã thật sự phó thác đời tôi vào Chúa?”

Vâng, câu trả lời là của mỗi chúng ta. Tuy nhiên, đừng quên rằng, con người của chúng ta là “tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su”(x.Ep 2, 10), thế nên, cớ gì chúng ta không “tin vào Con của Người”?

Đừng quên, Đức Giê-su đã nói “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án” (x.Ga 3, 18)

Petrus.tran

Thứ Bảy, 7 tháng 3, 2015

Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.

Chúa Nhật III - MC - B



Hành hương là gì? Theo Lm Vinh Sơn Phạm Trung Thành giải nghĩa trong một bài giảng, thì:  “Hiểu theo nghĩa thông thường là rời khỏi nơi chốn của mình để đến một vùng khác, nơi có những dấu tích hoặc truyền thống của sự thánh thiện, nơi thờ phượng, nơi dành riêng để tịnh tâm… Cũng có thể hiểu là một cuộc rời bỏ con người của mình để hướng lòng lên với Chúa, dành thời gian và công sức cho việc thờ phượng Chúa. Trong hành hương có hàm ý hy sinh, sám hối, cầu nguyện, dâng hiến và chia sẻ với người nghèo”. (nguồn:www.chuacuuthe.com)

Hầu hết các Tôn Giáo lớn trên thế giới đều có truyền thống hành hương: Phật giáo đến chùa, Ấn độ giáo đến sông Ganges, Hồi giáo đến Mecque, Do thái giáo đến Đền Thánh Giê-ru-sa-lem… Còn với Công Giáo? Vâng, người tín hữu Công Giáo có thói quen  tìm về những nơi đã ghi dấu phép lạ của Đức Maria, nơi Mẹ đã hiện ra và đã trở thành những linh địa.

Nói tắt một lời, hành hương  là một truyền thống đẹp gắn liền với đời sống của mọi tôn giáo. Là một truyền thống đẹp, thế nhưng, thật đáng buồn vì ngày nay, một số ít người đã trần tục hóa việc hành hương, xem đó như là một cuộc du lịch, một cuộc du lịch được gắn bởi cái “mác” rất mỹ miều: “du lịch tâm linh”. Chính vì trần tục hóa việc hành hương nên không ít điểm hành hương đã xảy ra biết bao là tệ nạn, như: buôn thần bán thánh, chặt chém du khách, tranh cướp lộc dẫn đến đổ máu như vừa xảy ra tại Sóc Sơn Hà Nội…

Vào thời Đức Giê-su còn tại thế, Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, nơi mọi tín hữu Do Thái phải hành hương ba lần mỗi năm, cũng đã hơn một lần trở thành nơi “buôn bán”, điều đó đã khiến Đức Giê-su giận dữ và có phản ứng khi Ngài hành hương đến đây vào dịp lễ Vượt Qua.

Câu chuyện đó được kể rằng: Hôm ấy, “gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái”. Cũng như mọi thành phần dân Chúa, “Đức Giêsu lên thành Giêrusalem”. Lên  Giê-ru-sa-lem. Vâng, Do Thái giáo có ba ngày lễ quan trọng buộc người tín hữu phải lên Giê-ru-sa-lem. Đó là:  lễ Ngũ Tuần, lễ Lều Tạm và lễ Vượt Qua.

Hôm đó là lễ Vượt Qua, và  không phải lần đầu tiên Đức Giêsu lên Đền Thờ dự lễ Vượt Qua. Hồi năm mười hai tuổi, Đức Giêsu cũng đã cùng với cha mẹ của Ngài “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua… như người ta thường làm trong ngày lễ” (Lc 2, 41-42). Lần “trẩy hội, hồi đó, Đức Giê-su đã làm cho mọi người kinh ngạc “về trí thông minh và những lời đối đáp” của mình.

Còn lần này thì sao? Thưa, lần này mọi người đã phải “kinh sợ”. Tại sao Đức Giê-su làm cho mọi người kinh sợ? Thưa, chỉ vì có một số người đã “bán chiên, bò, bồ câu” chưa hết, còn có “những người đang ngồi đổi tiền” ngay “trong Đền Thờ”…

Thưa bạn, nếu một buổi sáng nào đó, mở cửa ra, bạn thấy một nhóm người tụ tập trước nhà của bạn, họ bày bán đủ mọi thứ: tôm, cá, gà, vịt v.v… tạo ra một ngôi chợ chồm hổm, với những tiếng rao, tiếng mời chào, tiếng trả giá, tiếng cãi cọ vì cân đo đong đếm, tiếng gà vịt kêu… Chưa hết, còn những mùi xú uế của tôm, cá, gà, vịt bài tiết ra… Bạn và những người hàng xóm của bạn có để yên không? Chắc chắn là không? Chắc chắn bạn và cư dân ở dãy phố đó sẽ có biện pháp để những người bày bán ở đó kinh sợ, “cuốn tượng” ngay lập tức...

Trước cửa tư  gia còn không chấp nhận, vậy trước cửa Đền Thờ sao chấp nhận được, phải không thưa quý vị! Cứ thử  đi một vòng Saigon, đến những ngôi nhà thờ hay chùa chiền, xem thử, chắc chắn chúng ta sẽ thấy có những tấm bảng gắn trên tường với câu “nơi tôn nghiêm, xin đừng buôn bán và phóng uế”.

Vâng, hôm đó, nhìn Đền Thờ, nơi được cho là Đức Chúa Trời ngự và đã được Người thánh hóa, lại bị “biến thành nơi buôn bán”, Đức Giê-su “liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền Thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ”(Ga 2, 15)

Hành động của Đức Giê-su, đã làm cho các môn đệ nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc cho Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”.

Đúng, hôm đó, nhiều người Do Thái đã đụng chạm đến “thân phận” của Đức Giê-su bằng một câu chất vấn, rằng “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”

Dấu lạ nào ư! Thì đây, bữa tiệc cưới tại Cana với “dấu lạ” nước hóa thành rượu còn sờ sờ ra đó, nay còn thắc mắc mà chi?! Thế nhưng, để thỏa lòng ước muốn của mọi người, Đức Giê-su sẽ làm một “Dấu Lạ” mới, với lời yêu cầu, rằng “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”.

Đức Giê-su sẽ làm “dấu lạ”, và nó sẽ được thực hiện trên thập giá tại đồi Golgotha, dấu lạ đó chính là những “dấu đinh” trên tay, trên chân, trên thân thể “Đấng Kitô bị đóng đinh”.

Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, mỗi khi nói “đi Giêrusalem”, Đức Giêsu đều giải thích cho các môn đệ biết rằng, là để Người “phải chịu nhiều đau khổ… bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”.

Người nói điều này tới ba lần, nhưng chỉ tới khi “Người từ cõi chết trỗi dậy”, các môn đệ mới “nhớ lại Người đã nói điều đó”. Chẳng những họ đã nhớ mà họ còn tin. Họ “tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói”.

Câu chuyện Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem được chép trong tin mừng thánh Gioan với tiêu đề “Đức Giê-su tẩy uế Đền Thờ”. Nhắc đến tiêu đề câu chuyện này để làm gì? Thưa, như thánh Phao-lô có nói “Thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần”, cho nên, nhắc đến tiêu đề này là để chúng ta xem lại ngôi “Đền Thờ tâm hồn” của chúng ta. Nó có cần tẩy uế?

Nếu có… Hãy xem lại ngôi Đền Thờ tâm hồn của ta, nó có đang chất chứa  những “con lợn lòng”, những con lợn quyền lực, những con lợn danh vọng, những con lợn tiền bạc… hay không?

Hãy xem lại ngôi Đền Thờ tâm hồn của ta, nó có đang nuôi những con lợn dâm bôn, con lợn phóng đãng, con lợn hận thù, con lợn tranh chấp, con lợn chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, con lợn say sưa chè chén v.v… hay không?

Hãy nhớ lời thánh Phao-lô dạy rằng “Làm sao đền thờ Thiên Chúa lại đi đôi với tà thần được”? Thánh nhân nói tiếp: khi đã thuộc  về Đức Giê-su, chúng ta phải “Hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp  để … thờ phượng Người” (x.Rm 12, 1)

Vì thế, nếu hôm nay, những con lợn lòng nêu trên, đang “quấn quýt” bên ta, không phải là Đức Giê-su, mà chính là chúng ta, chính chúng ta phải “lấy dây làm roi” mà xua đuổi những con lợn lòng đó.

“Dây” đó, chính là Bí Tích Hòa Giải, một ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Chính Bí Tích Hòa Giải sẽ “gia cố” lại ngôi đền tâm hồn chúng ta.

Nói tắt một lời, đó là, đã bao nhiêu năm là một Ki-tô hữu, chúng ta đã để cho ngôi đền tâm hồn của mình ở tình trạng nào?  Nếu… nếu hôm nay, Đức Giê-su trở lại và đi ngang ngôi đền tâm hồn chúng ta, nó có đủ tiêu chuẩn để Đức Giê-su bước vào?

Vâng, Đức Giê-su vẫn luôn đi ngang qua cuộc đời ta, Ngài vẫn đứng ngoài ngôi đền tâm hồn ta và phán: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (x.Kh 3, 20)

“Người ấy sẽ dùng bữa với Ta”, với điều kiện, “người ấy” đừng biến ngôi đền tâm hồn của mình “thành hang trộm cướp” hoặc “thành nơi buôn bán”. Chúa sẽ dùng bữa với ta và ta sẽ dùng bữa với Ngài, nếu ngôi đền tâm hồn của ta không thành-nơi-buôn-bán trao đổi lợi lộc với Sa-tan, với thế gian và bè lũ của chúng.

Chúa sẽ dùng bữa với ta và ta sẽ dùng bữa với Ngài, nếu ngôi đền tâm hồn của ta không thành-hang-trộm-cướp, cướp đi niềm vui, hạnh phúc, sự bình an của gia đình mình, của bạn bè, của hàng xóm láng giềng, bằng những thú vui say sưa chén chén, bằng những tranh chấp hận thù, bằng những nóng giận, chia rẽ, bè phái v.v…

Chúa sẽ dùng bữa với ta và ta sẽ dùng bữa với Ngài, nếu ngôi đền tâm hồn của ta là nơi trao đổi những “lời Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”. Vâng, lời Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói, đó là: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”

petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...