Thứ Ba, 28 tháng 7, 2015

Anh em cứ ngồi xuống đi

Chúa Nhật XVII - TN – B

Anh em cứ ngồi xuống đi

Quyền năng và lòng trắc ẩn, đó là những điều Đức Giê-su luôn thể hiện trong những ngày còn tại thế. Về quyền năng của Đức Giê-su, Tin Mừng thánh Luca đã ghi lại rằng: “Cả đoàn dân đều tìm cách chạm vào Ngài, vì quyền năng từ Ngài phát ra và chữa lành mọi người.” (Lc 6 , 19). Còn về lòng trắc ẩn ư! Vâng, phép lạ “Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều” được ghi lại trong Tin Mừng thánh Gioan là một điển hình.

Câu chuyện đó đã được kể rằng: Một ngày nọ, khi nghe tin Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cả một rừng người trùng trùng điệp điệp đi theo. Họ đi theo vì “từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm” (Ga 6, 2).

Lúc đó “Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ”. Từ trên đỉnh núi, “Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình”.

Ngọn núi như bị rung chuyển bởi làn sóng người tuôn đến. Mười hai người môn đệ không thể không ngỡ ngàng, ngỡ ngàng là bởi, cứ sự thường, việc Thầy và trò “lên núi” không ngoài mục đích lánh riêng ra một nơi để mà nghỉ ngơi đôi chút hoặc là để thinh lặng nguyện cầu.

Thế mà, giờ đây… một đoàn dân đông đảo như thế, còn đâu những giây phút để mà “gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa”! Có lẽ, có lẽ… một ai đó trong các ông đã phải cất tiếng “than ôi!”.

Nhưng với Đức Giê-su thì không, hình ảnh “đông đảo dân chúng đến với mình” đã nhiều lần khiến Ngài chạnh lòng thương xót, thương xót vì họ “như đàn chiên không người chăn dắt”.

Như Ngài thường nói “Ta là mục tử nhân lành” kia mà! Thế nên, hôm ấy, phát xuất từ lòng trắc ẩn, không chần chờ, Đức Giê-su hỏi ông Phi-lip-phê “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6, ...5)

Mua đâu ư! Chúa ơi! Phi-lip-phê nhăn nhó trả lời: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”.

Hai trăm quan! “Một quan là sáu trăm đồng”, đó là theo giá trị của tiền tệ xưa của Việt Nam, rất lớn. Có phần chắc, hai trăm quan thời Do Thái xưa, cũng không phải là nhỏ.

Không thấy thánh sử Gioan nói gì, nhưng có lẽ trong số các môn đệ, có người sẽ lẩm bẩm rằng: Thầy sao vậy. Thầy từng chỉ thị cho chúng con không được mang gì… không mang bao bị, lương thực, tiền bạc v.v… nay lại bảo “mua đâu ra bánh” tiền đâu chúng con mua! Và có lẽ cũng có người rất mong đợi một lệnh truyền mới của Thầy Giêsu, rằng Ngài sẽ truyền cho họ “hãy xuống thuyền đi nơi khác”.

Thế nhưng, Đức Giêsu đã không nghĩ như thế. Bởi vì đó là “tư tưởng của loài người”. Với Ngài, bản chất của Con Một Thiên Chúa, là lòng trắc ẩn, là “Agape”, là tình yêu thương vô điều kiện.

Hôm đó, với một tâm tình yêu thương, với lòng trắc ẩn, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng, “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi” (Ga 6, 10)

***
“Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”.

“Ngồi xuống đi”. Vâng, đối với các môn đệ, quả thật, đây là một lệnh… “lạc”. Lạc là bởi như ông An-rê đã cho biết rằng “ở đây… có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu” (Ga 6, 9).

Cả ba thánh sử Matthêu, Máccô và Luca đều cho biết các môn đệ đã gợi ý với Đức Giêsu rằng “xin Thầy cho dân chúng về…”

Ôi! Tệ thật. Chắc hẳn các môn đệ đã quên rằng, đối với Thiên Chúa, “trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối của Ta cao hơn của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Is 55, 9)

Đúng vậy, “nói như thế…” Đức Giêsu muốn “thử các ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi” (Ga 6, 6). Với quyền năng của mình, hôm đó, Đức Giêsu “cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó”. (Ga 6, 11)

Vâng, hôm đó, phép “thử” của Đức Giê-su đã có kết quả. Kết quả là “Nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn”, họ đã “ngồi xuống” và quả thật, “người ta (đã) ngồi xuống”, một biểu lộ của “lòng tin”, với lòng tin đó, họ được ăn “no nê”.
****
Qua biết bao mùa thường niên, chúng ta đã nghe rất nhiều lần câu chuyện “Đức Giê-su hóa bánh ra nhiều”. Và chắc hẳn, lời khuyên được gửi đến mỗi chúng ta, đó là: hãy tiếp tục là cánh tay nối dài của Đức Giê-su. Hãy tiếp tục “bảo người ta ngồi xuống (và) phân phát cho những người ngồi đó”.

Vâng, đó là điều hợp đạo lý của Đức Chúa Trời. Đạo lý “Thương xác bảy mối: Thứ nhất cho kẻ đói ăn. Thứ hai cho kẻ khát uống. Thứ ba cho kẻ rách rưới ăn mặc v.v…”
Tuy nhiên, còn cái đói, cái khát nguy hiểm hơn, đó chính là cái đói, cái khát “thuộc linh”, nói theo cách nói của ngôn sứ Amos, đó là “đói khát được nghe lời ĐỨC CHÚA” (x.Am 8, 11)

Với nan đề này, Lm Pio Ngô Phúc Hậu, trong một bài viết, đã chia sẻ như sau: “Ai cũng biết rằng không nên cho con cá, mà nên cho cái cần câu và dạy người ta câu cá mà ăn. Nhưng hỡi ơi! Biết bao nhiêu cần câu đã ‘bốc hơi’. Các vị Giám Mục Mỹ Châu La Tinh đã từng ‘cho cá’ rồi lại từng cho ‘cần câu’, mà người nghèo vẫn còn đó trùng trùng điệp điệp. Noi gương Đức Giê-su, vừa buồn vừa thương. Buồn thì không muốn cho cá và cho cần câu nữa. Nhưng vì thương quá nên lại vẫn cho”.

Tiếp tục lời chia sẻ, ngài nói “Nhưng các ngài ý thức rằng, nếu không có Đức Giê-su, người giàu cũng khổ, người nghèo cũng khổ. Cứu khổ không phải là cứu đói, vì cứu đói xong rồi, thì khổ vẫn còn đó. Vẫn cho cá, vẫn cho cần câu. Nhưng đồng thời cũng cho ‘Đức Giê-su’. Cho cá và cho cần câu đều là chứng tá của Tin Mừng. Nhưng cho đúng nhất và đầy đủ nhất là cho Đức Giê-su”.

Kết thúc nan đề này, Lm Pio Ngô Phúc Hậu nói: “Có Đức Giê-su trong tim rồi, thì dù vẫn còn đói, nhưng chỉ đói mà không khổ. Có Đức Giê-su trong tim rồi, thì người giàu sẽ đua nhau đem cơm áo tặng người nghèo và coi người nghèo là ân nhân của mình”.

Làm sao để mọi người “có Đức Giê-su trong tim” mình? Thưa, không gì tốt hơn là thỏa mãn sự “đói khát được nghe lời ĐỨC CHÚA” nơi con tim mỗi người. Và để thực hiện điều này, không gì tốt hơn là “phân phát cho những người ngồi đó” một quyển Kinh Thánh.

Tại sao đó lại là điều tốt nhất? Thưa, bởi, như lời Thánh Giêrônimô đã khẳng định: "Không biết Kinh Thánh là không biết Ðức Giê-su Kitô". Không biết Đức Giê-su Ki-tô thì làm sao “có Đức Giê-su trong tim” mình?

Là một người Kitô hữu, có thể Chúa gọi tôi làm giám mục hoặc linh mục hoặc tu sĩ. Có thể Chúa gọi tôi làm cha, làm mẹ trong một gia đình v.v…

Dù là ơn gọi nào, chúng ta cũng đều cần “có Đức Giê-su trong tim” mình. Bởi, nhờ đó, chúng ta mới có thể là cánh tay nối dài của Chúa Giê-su “phân phát cho những người ngồi đó” một bữa ăn no nê, no nê tình yêu thương, lòng trắc ẩn, sự nhẫn nhục và nhân từ. Bởi chỉ có như thế, chúng ta mới có thể mạnh dạn nói với những ai đến với ta hay ta đến với họ rằng “Anh em cứ ngồi xuống đi”.


Petrus.tran

Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

Xin dạy chúng con…

Chúa Nhật XVI – TN – B

Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống…

Xã hội chúng ta đang sống, có thể nói, là một xã hội mà con người càng ngày càng phải nỗ lực mới có thể đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống của mình.

Trong nỗ lực cho cuộc sống sinh tồn, con người lao vào công việc như một computer đã được lập trình sẵn. Có không biết bao nhiêu người quên rằng, cuộc sống còn cần những nhu cầu khác về thể chất, về tinh thần, về tâm linh và trên hết tất cả đó là sự nghỉ ngơi.

Quên đi hay làm ngơ những nhu cầu cần thiết đó, sẽ làm cho cuộc sống mất cân bằng, hậu quả là rơi vào tình trạng căng thẳng mà chúng ta quen gọi là “stress”.

Theo một nghiên cứu của Hiệp Hội Tâm Thần Mỹ, cứ năm người Mỹ thì có một người tuyên bố rằng họ cảm thấy bị stress. Và người ta đã khuyến cáo rằng, stress chính là tên sát thủ thầm lặng, nó có thể cướp đi sinh mạng của bất cứ ai, bất cứ lúc nào.

Làm sao để cân bằng giữa công việc và những gì còn lại trong cuộc sống? Thưa, y học đã khẳng định rằng, sự nghỉ ngơi chính là liều thuốc bổ tốt nhất, nó không chỉ phục hồi thể xác mà còn bồi dưỡng tinh thần một cách tuyệt hảo.

Quan trọng là thế. Thế nhưng, có bao giờ chúng ta thử hỏi, thế nào là một sự nghỉ ngơi tốt nhất? Phải chăng, đó chính là những giây phút thư giãn bên ly cà phê, trong một quán rượu, xem một bộ phim hoặc là một chuyến du lịch, picnic hay là một giấc ngủ sâu với nhiều mộng mị, v.v…?

Thưa không. Ngay cả giấc ngủ, nó cũng chưa phải là sự nghỉ ngơi tuyệt diệu. Có được sự nghỉ ngơi tuyệt diệu, điều cần phải có cho bản thân chính là một khoảng không gian trong tâm hồn, trong một nơi thanh vắng và không thể không có nguyện cầu.

Đức Giê-su chính là điển hình cho chúng ta noi theo, một sự noi theo cần thiết cho cuộc sống, nhất là cuộc sống thiêng liêng của người môn đệ.

Trong ba năm ra đi rao giảng Tin Mừng, dù phải chống chọi với rất nhiều áp lực từ chính quyền La-mã, cũng như giáo quyền Do Thái, nhưng Đức Giêsu vẫn cho mọi người thấy cuộc sống nội tâm của Ngài là một biển cả bao la của sự bình an. Ngay cả khi phải đối diện trước những giây phút của sự phản bội, của bắt bớ, của chết chóc, Đức Giêsu vẫn có thể truyền cảm sự bình an cho các môn đệ.
Có được như vậy, chính là nhờ Ngài đã có những phút giây tĩnh lặng của tâm hồn, trong một nơi thanh vắng và luôn nguyện cầu. Kinh nghiệm này đã được Đức Giê-su truyền dạy cho các môn đệ.

Thật vậy, theo Tin Mừng Mác-cô, thì, một ngày nọ, sau những ngày nhận “bài sai” ra đi khắp thôn làng rao giảng Tin Mừng, mười hai người môn đệ trở về “tụ họp chung quanh Đức Giêsu”. Các ông thay nhau “kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm và mọi điều các ông đã dạy” (Mc 6, 30).

Nghe xong, ngay lập tức, Đức Giêsu khuyên các ông rằng, “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng và nghỉ ngơi đôi chút.” Và rồi, chuyện ghi lại rằng: “Thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng”.

Vâng, với chúng ta, có thể chúng ta sẽ nghĩ rằng, sau một cuộc hành trình truyền giáo vất vả như thế, tại sao Đức Giê-su không cùng với các môn đệ làm một buổi “liên hoan” nhẹ, một công việc vừa để biểu dương thành tích, vừa để bồi dưỡng sức khỏe các ông? Nhất là trước một áp lực “kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa”.

Thưa, có lẽ, nếu câu hỏi này được Đức Giê-su trả lời, Ngài sẽ trả lời, rằng: “Đó là tư tưởng loài người, không phải tư tưởng của Thiên Chúa”.

Khuyên các môn đệ vào nơi thanh vắng, là bởi, theo quan niệm Do Thái giáo, đó là nơi, “gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa” và “Thiên Chúa tỏ ra gần gũi với dân Người”. Mà, các môn đệ, trong vai trò là một “nhà truyền giáo”, có lý nào lại từ chối vào nơi thanh vắng để “gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa”!

Quả đúng là vậy, hôm đó, khi vào nơi hoang vắng, Đức Giê-su đã cho các ông tận mắt thấy “Thiên Chúa tỏ ra gần gũi với dân Người”, qua Ngài, các ông đã thấy một Thiên Chúa “chạnh lòng thương xót”, thương xót khi thấy đoàn dân đông đúc theo Thầy Giê-su như đàn chiên không người chăn dắt. Và cuối cùng, Đức Giê-su đã dạy các ông biết “tận dụng mọi cơ hội”, dù đó là cơ hội nghỉ ngơi, để “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (Is 50, 4).

Hôm đó, động lòng thương xót đối với những người đã “cùng nhau theo đường bộ chạy đến” với mình, Đức Giê-su “dạy dỗ họ nhiều điều”. Vâng, tuy thánh sử Mác-cô không nói rõ Đức Giê-su đã dạy gì, nhưng chúng ta có thể tin, Ngài đã dạy họ phải biết vào “nơi hoang vắng và cầu nguyện”.
**
Cũng giống như dân Do Thái xưa, ngày nay, chúng ta cũng thích “cùng nhau theo đường bộ chạy đến” nơi đền thánh này, đền thánh nọ hầu biểu lộ lòng tin của mình.

Điều này không có gì sai trái. Thế nhưng, theo sự chia sẻ của Lm. Charles E. Miller, thì: “Đôi lúc ta cũng phải ra nơi thanh vắng để cầu nguyện một mình với Chúa Giê-su trong yên lặng và tĩnh tâm. Ta cần có dịp cầu nguyện theo cách ý riêng của mình”. Ngài nói tiếp rằng: “Chúa Giê-su cho ta một điển hình về sự cân bằng cần thiết cho cuộc sống thiêng liêng của chúng ta. Người có thói quen đến hội đường mỗi ngày sa-bát để tham gia vào việc phụng tự công cộng, và các nghĩa vụ tôn giáo khác trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, tại những thời điểm nhất định. Chúa Giê-su cũng hay ra đi một mình để cầu nguyện thâu đêm với Chúa Cha”.

Cuối cùng, Lm. Charles E. Miller kết luận: “Chúa Giê-su đã dạy ta về sự quan trọng phải giữ cân bằng trong cách cầu nguyện, và Người đã đưa ra môt điển hình. Nỗ lực và thời gian chúng ta dành cho việc cầu nguyện, cả trong phụng vụ lẫn chỗ riêng tư, là cách ta đáp lại các giáo huấn và mẫu gương của Ngài”.

***
“Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng và nghỉ ngơi đôi chút.” Vâng, hôm nay, đó cũng là điều Đức Giê-su mời gọi chúng ta.
Tất nhiên, không nhất thiết chúng ta phải “xuống thuyền” đi tới một sa mạc nào đó, như sa mạc Sahara… chẳng hạn. Chỉ cần một cử động của tâm hồn, một tâm hồn với tất cả tâm tình “Bỏ Ngài con biết theo ai…”

Nhưng, thật cần thiết bước ra khỏi con thuyền, con thuyền dòng đời với những “gánh sầu thương mệt mỏi hai vai”, với những lo toan cơm-áo-gạo-tiền v.v…
Chỉ một mình “ta với Chúa – Chúa với ta” trong tĩnh lặng…

Có một câu chuyện được kể rằng: Có một người nông dân bị mất một chiếc đồng hồ trong kho thóc. Sau một thời gian dài tìm kiếm vô vọng, ông ta phải nhờ sự trợ giúp của những đứa trẻ đang chơi bên ngoài. Ông hứa, nếu ai tìm được chiếc đồng hồ bị mất sẽ được thưởng.

Nghe vậy, đám trẻ con nhanh chân chạy xung quanh kho thóc tìm kiếm. Chúng đi khắp nơi, lục tìm ở mọi chỗ, từ nơi chứa thóc đến tận cả chỗ cho gia súc ăn, nhưng vẫn không thấy. Chỉ đến khi ông đề nghị bọn trẻ dừng việc tìm kiếm thì có bé trai chạy tới và yêu cầu ông cho nó một cơ hội nữa.

Người nông dân nhìn đứa bé và nghĩ: ‘Tại sao lại không chứ? Sau tất cả thì cậu bé này có vẻ khá chân thành’. Ông dẫn cậu bé trở lại trong kho. Một lúc sau, cậu đã chạy ra và trên tay là chiếc đồng hồ của ông. Người nông dân rất hạnh phúc và ngạc nhiên, ông hỏi cậu bé: ‘Làm cách nào mà cháu có được nó, sau khi tất cả các bạn khác đã từ bỏ?’.
Cậu bé đáp: ‘Cháu không làm gì cả và chỉ ngồi im một chỗ để lắng nghe. Trong tĩnh lặng, cháu thấy tiếng kim đồng hồ chạy và nhờ đó cháu tìm ra nó’. (nguồn: internet)

Cũng vậy đối với chúng ta, chỉ trong tĩnh lặng, ta mới có thể nghe tiếng Chúa nói. Trường hợp Samuel cho ta một điển hình. Và cuối cùng, chúng ta hãy nghe cảm nghiệm của vua David, cảm nghiệm về việc tĩnh lặng trong nguyện cầu, rằng: “Hãy dừng lại trong thinh lặng và chúng con sẽ nhận biết Ta là Thiên Chúa” (x.Tv 45,11).

Làm sao để chúng ta có thể dừng lại trong thinh lặng, trong một xã hội bề bộn lo toan, như hôm nay? Thưa, không gì tốt hơn là hãy mang tâm tình của vua David mà nguyện rằng: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (x.Tv 90. 12)

Vâng, trong tĩnh lặng, chúng ta hãy cất tiếng nguyện cầu: Lạy Chúa! “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống”.
Petrus.tran

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2015

Chính Chúa đã bắt lấy tôi

Chúa Nhật XV – TN – B

Chính Chúa đã bắt lấy tôi.

Cách nay khoảng hơn ba tháng, chính xác là từ ngày 02 đến ngày 06 tháng 03 năm 2015, Hội nghị Giám Mục về tông đồ giáo dân lần X do Văn phòng FABC về Giáo dân và Gia đình tổ chức đã diễn ra tại Trung tâm Mục vụ Camilô, Bangkok, Thái Lan, với chủ đề “Vai trò và sứ mệnh của giáo dân trong thế kỷ XXI”. Tham dự Hội nghị có 43 người thuộc 9 quốc gia Châu Á, trong đó có 3 người Việt Nam.

Sau bốn ngày hội nghị, một tuyên bố chung được công bố với nhiều đề mục nói đến tầm quan trọng của người giáo dân trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng.

Trong đề mục “2. Trải Nghiệm”, ở phần 2.4, tuyên bố chung ghi rằng: “Ngay từ đầu chúng tôi đã điểm lại tầm nhìn mạnh mẽ của Công đồng Vaticanô II được quy định trong những giáo huấn mang tính đột phá căn bản, cách đặc biệt về bản chất của Giáo hội và hoạt động tông đồ giáo dân; chúng tôi tìm hiểu thật cặn kẽ và sâu rộng về ơn gọi giáo dân trong Giáo hội và trên thế giới.

Một lần nữa chúng tôi đã nhận thức ra ‘căn cước’ (identity) của giáo dân bắt nguồn từ bí tích Thánh Tẩy trong Chúa Kitô: Thần Khí trao cho giáo dân những đặc ân. Giáo dân được thiết lập là thành phần dân Chúa và là Thân Thể của Đức Kitô. Giáo dân là một bộ phận không thể chuyển nhượng trong một thân thể duy nhất, nhưng đa dạng trong sứ mệnh loan báo Tin mừng Đức Kitô.” (nguồn: www.tgpsaigon.net).

Đúng vậy, lời tuyên bố trên gợi cho ta nhớ đến lời Đức Giê-su đã truyền cho các môn đệ ngay trước khi Ngài về trời, rằng: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bây giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8).

Nói tới giáo dân và sứ mệnh loan báo Tin mừng, có lẽ không ít người trong chúng ta lúng túng và tự hỏi: Tôi phải làm gì đây? Tôi phải nói thế nào?

Phải làm gì ư! Phải nói gì ư! Thưa, qua câu chuyện “Đức Giê-su sai nhóm mười hai đi giảng” được ghi lại trong Tin Mừng Mác-cô, chúng ta sẽ được nghe Đức Giê-su, Ngài dạy ta phải nói gì, và sẽ phải làm gì.

**
Vâng, câu chuyện được kể lại rằng: Sau cuộc trở về làng quê Na-da-rét đầy thất vọng, Đức Giêsu tiếp tục đi các làng chung quang rao giảng Tin Mừng.

Rao giảng Tin Mừng, với Đức Giê-su, đó không phải là chuyện của riêng ai, nó là chuyện của tất cả những ai là môn đệ của Ngài. Người môn đệ không chỉ tin-và-theo-Ngài nhưng còn phải “được sai đi” cũng giống như “chủ gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Hôm đó, Đức Giê-su “gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một” (Mc 6, 7).

Nhóm mười hai này, họ chỉ là những tập hợp của nhiều giai cấp khác nhau trong xã hội. Có người làm nghề thu thuế, có người là ngư phủ và chắc chắn, không có ai là người có “trình độ” triết học hay thần học hoặc tốt nghiệp ở một trường truyền giáo nào đó.

Theo lời chỉ dạy của Đức Giê-su, các môn đệ đi đến khắp thôn làng rao giảng Tin Mừng và kêu gọi người ta ăn năn sám hối.

Hành trang mà các môn đệ mang theo là gì? Thưa, chẳng có gì hết, không tiền bạc, không lương thực. Duy nhất, có một thứ, đó là: niềm tin và “quyền-trừ-quỷ”, một thứ quyền vượt trên cả quyền của thế gian và được chính Thầy Giê-su ban cho.

Chỉ có thế thôi, thế mà, lần “xuất quân” của các ông, hôm đó, đã để lại nhiều hình ảnh đẹp. Vâng, thật đẹp thay, tại những thôn làng các ông đi qua, người ta đã thấy “Các ông trừ được nhiều quỷ…”. Các ông còn “xức dầu cho nhiều người đau ốm, và chữa họ khỏi bệnh” (x.Mc 6, 13)

Quả đúng như lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52, 7)

***
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho khắp loài thụ tạo”. Vâng, không ai có thể phủ nhận, đây cũng là lời chỉ thị cho mỗi chúng ta hôm nay.
Chúng ta không chịu trách nhiệm gì về việc này, khi mình chưa sinh ra. Nhưng, đã là một Ki-tô hữu, thì, đây là một trọng trách, vì, như lời thánh Phao-lô nói, một Ki-tô hữu chính là “sứ giả thay mặt Đức Ki-tô”, thánh nhân nói tiếp rằng: “như thế chính Thiên Chúa dùng chúng (ta) mà khuyên dạy” (2Cor 5, …20).

Và hôm nay, tuyên bố chung của Hội nghị Giám mục về Tông đồ giáo dân lần thứ X, có lời mời gọi tín hữu giáo dân, rằng: “Hãy quyết tâm làm biến đổi các lãnh vực trần thế và chăm lo cho công trình tạo dựng. Hãy hỗ trợ các gia đình để các gia đình có thể trở nên nơi ươm mầm cho công cuộc truyền bá Phúc âm và ơn gọi phục vụ Giáo hội. Hãy nhận thức nhiều hơn và hãy sắm lấy vai trò của mình trong sứ mệnh của Giáo hội và trong trần thế”.

Chúng ta sẽ nhận “bài sai” này? Chúng ta sẽ nhận lời làm “sứ giả thay mặt Đức Ki-tô”? Ước gì, mỗi chúng ta sẽ lấy lời tuyên bố của thánh Phao-lô làm câu trả lời cho mình. Vâng, ngài đã tuyên bố: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng”.

****
Trở lại câu chuyện “Đức Giê-su sai nhóm mười hai đi giảng”. Nếu hôm nay, Đức Giê-su cũng chỉ thị cho chúng ta, như Ngài đã chỉ thị cho các môn đệ xưa, liệu chúng ta có đạt được kết quan khả quan? Liệu chúng ta có trừ được quỷ như các môn đệ xưa?
Thưa, được. Chỉ cần… chỉ cần hành trang của chúng ta có đức tin, đức cậy và nhất là đức mến.

“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu… Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả”. (x.1Cor 12, 4-7)

Có một hành trang như thế, ai dám phủ nhận ta không trừ được những con quỷ-vênh-vang, quỷ-tự-đắc, quỷ-bất-chính, quỷ-tư-lợi, quỷ-nóng-giận, quỷ-hận-thù, quỷ-gian-ác v.v… Thậm chí có thể trừ được cả quỷ-vô-thần.

Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã làm được như thế. Ngài đã tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả, ngài đã lớn tiếng nói với những kẻ đầy đọa mình, rằng: “Cho dù các anh giết tôi, tôi vẫn yêu thương các anh. Tại vì Chúa Ki Tô đã dạy tôi phải yêu thương tất cả mọi người, cả những kẻ thù. Nếu tôi không làm như vậy, tôi không đáng được gọi là Kitô hữu”.

Cuối cùng là gì? Thưa, một người vô thần đã tin Chúa.

Thưa bạn, một hành trang như thế, có phải là khó kiếm không? Câu trả lời dành cho mỗi chúng ta. Thế nhưng, là một Ki-tô hữu, chúng ta phải nhớ rằng: “chính ĐỨC CHÚA đã bắt lấy tôi… và ĐỨC CHÚA đã truyền cho tôi: Hãy đi…” (Am 7, 15)

Vâng, chính Chúa đã bắt lấy tôi.
Petrus.tran

Thứ Ba, 7 tháng 7, 2015

Có một Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta.



Chúa Nhật XIV – TN – B

Có một Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta.

Cách đây khoảng hai năm, truyền thông mạng có đăng tải một bài viết nội dung như sau: “Anh Jonathan, người Mỹ gốc Hàn Quốc, là nạn nhân của việc kỳ thị chủng tộc lúc còn nhỏ. Khi lớn lên, anh cố tìm đến một nơi để không bị người ta phán đoán vì nét mặt hoặc chủng tộc. Anh trở thành bác sĩ tại một thị trấn ở phía bắc Alaska, Hoa Kỳ, nơi mà ngoại diện của anh có vẻ giống nhiều bệnh nhân tại địa phương. Anh hy vọng, tại đây, giữa cái giá rét ở Bắc Cực, anh sẽ thoát được nạn thành kiến, còn “giá rét hơn”.

Hy vọng ấy tiêu tan khi anh chữa bệnh cho một phụ nữ 25 tuổi. Lúc bệnh nhân hết hôn mê, cô ấy nhìn vào mặt Jonathan, rồi thốt lên lời tục tĩu, cho thấy sự miệt thị người Hàn Quốc ăn sâu trong lòng cô ta. Ðối với Jonathan, trường hợp này là sự nhắc nhở đau lòng, mọi nỗ lực để chuyển đến và hòa nhập với cộng đồng không thể giúp anh tránh khỏi nạn thành kiến.”

Và sau đó, tác giả bài viết đưa ra một nhận định kèm một câu hỏi, rằng: “Kinh nghiệm của anh Jonathan nhấn mạnh một thực tại đáng lo ngại. Thành kiến xảy ra khắp thế  giới. Dường như nơi nào có người ta thì nơi đó có thành kiến. Ða số người ta lên án thành kiến nhưng nó vẫn xảy ra khắp nơi. Ðây thật là điều nghịch lý. Tại sao cái mà người ta ghét lại quá phổ biến? Rõ ràng, nhiều người lên án thành kiến, đã không nhận ra nó tiềm ẩn trong lòng mình. Bạn có như thế không?” (nguồn: internet)


Bạn có như thế không? Nói rõ hơn, là một Ki-tô hữu, tôi có mắc căn bệnh thành kiến không? Nếu có, phải tiêu trừ nó ngay, bởi vì, nó chính là thủ phạm giết chết đức tin, hủy hoại đức cậy và ngăn cản đức mến. Câu chuyện “Đức Giê-su về thăm Na-da-rét” là một minh chứng điển hình.
**
Vâng, câu chuyện được kể rằng: Sau những ngày dong duỗi khắp nẻo đường Palestina rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su cùng với các môn đệ trở về quê quán của Người. Hôm đó, khi ngày sa-bát đến, theo luật Do Thái, Đức Giê-su đến hội đường nhóm thờ phượng. 

Tưởng chúng ta cũng nên biết  qua về chương trình một buổi  nhóm của người Do Thái. Vâng, buổi nhóm ở hội đường, ngoài việc cầu kinh còn có việc đọc Kinh Thánh. Kinh Thánh được đọc bằng tiếng Do Thái và sau đó được dịch và giảng nghĩa bằng tiếng Aram . Kế tiếp là một vài lời khuyên dạy dựa theo bài Kinh Thánh được đọc hôm đó. Khách lạ trong hội đường thường được mời để thực hiện công việc danh dự này. 

Hôm đó, người vinh dự được đón nhận công việc đó chính là Đức Giêsu. Khi tất cả cử tọa đã an vị. Ngài bắt đầu giảng dạy.

Than ôi! thật đáng tiếc. Nếu ở hội đường tại Ca-phác-na-um, những lời giảng dạy của Ngài được tất cả cử tọa trầm trồ kinh ngạc nói với nhau “Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền”, thì ngay tại quê nhà, lời giảng dạy của Ngài lại là cớ làm cho người ta “vấp ngã”.(x.Mc 6, …3)

Tại sao lại vấp ngã? Phải chăng vì Đức Giê-su giảng quá dở… quá buồn ngủ? Thưa, không phải vậy, trái lại, lời giảng dạy của Ngài khiến cho “nhiều người nghe phải ngạc nhiên” đến nỗi họ đã thốt lên rằng: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao?”

Kinh Thánh có chép rằng: “Ý kiến xấu làm cho suy nghĩ của họ đảo điên” (Hc 3, 24). Vâng, hôm đó, cử tọa vấp ngã chỉ vì tâm tư của họ trĩu nặng những ý nghĩ  xấu xa về Đức Giê-su.
Thói đời, từ ngàn xưa cho đến hôm nay, người ta thường cho rằng, nguồn gốc xuất thân của một người luôn được cho là yếu tố quan trọng để xác lập con người đó thuộc giai tầng nào trong xã hội.

Chính vì  thế, năng lực, phẩm chất, tài năng của một người nào đó thường không được đón nhận, đôi khi còn bị khinh rẻ, nếu nguồn gốc nhân thân của người đó thuộc loại tầm thường. Mà, Đức Giê-su, tiếc thay, xuất thân trong một gia đình lao động tầm thường, thế nên, làm sao Ngài tránh khỏi những thành kiến xấu từ nơi cử tọa.

Hôm đó,  nói theo ngôn ngữ @ ngày nay, toàn thể cử tọa lần lượt “ném đá” Đức Giê-su. Họ ném vào Ngài những lời lẽ đầy kỳ thị, rằng: “Ông ta không phải là bác thợ con bà Maria… sao?”   

Những hòn đá thành kiến này, vâng, nếu được phép nói như thế, không chỉ  giết chết đức tin, mà còn hủy hoại đức cậy và ngăn cản đức mến, nơi họ.

Thật vậy, đúng, Đức Giê-su đúng là con bà Maria, nhưng với những hòn đá thành kiến, đôi mắt đức tin của họ đã bị lòa không thể nhận ra  Ngài còn là “Con Một Thiên Chúa”, Ngài đến thế gian để ai tin thì được cứu độ. 

Tại những nơi Đức Giê-su đến, Ngài luôn là nguồn cậy trông của “mọi kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền”, nhưng tại quê nhà Na-da-rét,  những hòn đá thành kiến đã hủy hoại niềm cậy trông, chính vì thế, Đức Giê-su “không thể làm được phép lạ nào tại đó”.  

Và cũng chính những hòn đá thành kiến, nó đã ngăn cản đức mến, đã làm cho tất cả mọi người ở Na-da-rét “rẻ rúng”  và “phẫn nộ” Đức Giê-su, phẫn nộ đến độ, thánh sử Mác-cô không nói, nhưng theo lời kể của thánh sử Luca,  họ “lôi Người ra khỏi thành… kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (x. Lc 4, 29-30).

Kết quả là gì? Thưa, đã giết chết niềm tin của họ. Đã làm cho họ mù lòa, không nhận ra lời loan báo của ngôn sứ Isaia, rằng “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã sức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”… Hôm nay đã ứng nghiệm. (x.Lc 4, 18 - 21).

Hôm đó, Đức Giê-su đã phải thổn thức mà thốt lên rằng “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. 

Vâng, Đức Giê-su với tất cả nỗ lực của mình, nhưng vẫn không đem lại ơn ích gì cho cư dân tại quê nhà, bởi vì thành kiến đã làm cho “họ không tin”.

***
Đã hơn hai ngàn năm trôi qua, kể từ khi Đức Giê-su về thăm Na-da-rét. Dường như thành kiến vẫn là bóng ma ám ảnh bất cứ ai sống trên cõi trần này.

Là một Ki-tô hữu, sống giữa lòng Giáo Hội, một Giáo Hội với nhiều dân nhiều nước khác nhau, một Giáo Hội với nhiều thành phần khác nhau: giàu có, nghèo có, học thức có, thất học cũng có v.v… Sẽ là tự dối lòng mình, nếu chúng ta cho rằng, tôi coi mọi người là bình đẳng, không có thành kiến với ai. Thế nên, điều chúng ta cần làm, đó là hãy phá vỡ thành kiến trong ta.

Phá vỡ như thế nào ư? Thưa, tông đồ Phao-lô khuyên chúng ta chỉ cần nhớ rằng: “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô… Không còn chuyên phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tư do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (x.2Cor 3, 26…28) 

Làm sao để biết rằng, chúng ta “là một trong Đức Ki-tô”? Thưa, đó là khi chúng ta cùng nghe và tuân giữ lời Chúa dạy, trong Kinh Thánh, trong phần Phụng Vụ Lời Chúa. Đó là khi chúng ta cùng nghe và tuân giữ lời Chúa dạy, qua giáo huấn của Giáo Hội cũng như qua lời giảng dạy của các linh mục.

Tất nhiên, việc tuân giữ này, Thiên Chúa luôn để ta thực hiện trong sự tự do của chúng ta. Tất nhiên, chúng ta cũng có quyền “mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá… có thể nghe hoặc không nghe” (x.Ed 2, 4-5)… Có thể tuân giữ hoặc không tuân giữ.

Nhưng, chúng ta phải biết rằng “có một ngôn sứ đang ở giữa (chúng ta)”. Nói chính xác hơn, có một Giáo Hội đang ở giữa chúng ta. Chính xác hơn nữa “có một Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta”.

Petrus.tran



Hãy đến tòa giải tội… tạ tội

  Hãy đến tòa giải tội… tạ tội   Bốn mười ngày của Mùa Chay, tính từ thứ tư lễ tro, chỉ còn tính từng ngày. Và, khi mùa chay kết thúc, tuần ...