Chủ Nhật, 29 tháng 11, 2015

Tỉnh thức và cầu nguyện luôn!

Chúa Nhật I – MV – C
Tôi có tỉnh thức và cầu nguyện luôn!
Kinh Thánh Tân Ước có ghi rằng: Chúa Giê-su, trong bữa tiệc ly, Ngài đã nói với các môn đệ một cách trân trọng, rằng: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. 
Là một Ki-tô hữu, chắc hẳn, không ai trong chúng ta lại không tin điều này. Tuy nhiên, dù tin, nhưng mỗi khi nhắc đến ngày “Thầy lại đến”, có lẽ, không ít người trong chúng ta lại cảm thấy “lòng xao xuyến”, xao xuyến là bởi, khi nào “ngày ấy” sẽ xảy ra!!! 
Khi nào “ngày ấy” sẽ xảy ra! Vâng, Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay (Chúa Nhật I – MV), được trích trong Tin Mừng Luca, sẽ cho ta câu trả lời và chắc chắn sẽ làm cho mỗi chúng ta, không còn “lòng xao xuyến mỗi khi hoa phượng rơi, nhắc lại câu chuyện (này)”. (x.Lc 21, 25-28.34-36)
** Về “ngày ấy”, Tin Mừng thánh Luca cho biết, Đức Giêsu đã không ít lần nói với các môn đệ, cách này cách khác, “khi nào và chuyện gì” sẽ xảy ra.
Đã có lần, Ngài cho biết, “cũng như thời ông Nô-ê, sự việc xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy”. Sau đó, Ngài nói tiếp “Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót: thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơ-đôm, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mạc khải” (x.Lc 17, 26-30).
Còn với trình thuật Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu loan báo rằng, “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao” và “Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn siêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu”. Ngài nói tiếp: “Bấy giờ, thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21, 25-27).
Đức Giêsu đến thế gian, như Ngài đã nói, là để “thế gian nhờ (Ngài) mà được cứu độ” (Ga 3, 17). Cho nên, Đức Giêsu đã không dấu niềm mong đợi của Ngài đối với các môn đệ (và cũng là đối với thế gian) khi Ngài kết thúc những lời cảnh báo về “ngày ấy” bằng lời khuyên chân tình rằng, “Vậy, anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến” (Lc 21, 36).
Chỉ cần một động tác của cơ thể, đó là tỉnh thức, và một cử động của tâm hồn, đó là cầu nguyện. Vâng, Đức Giê-su đã khuyên dạy, rằng: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.”
*** Hôm nay là Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng. Và, như là một suy nghĩ thường tình, cứ đến Mùa Vọng, chúng ta thường để tâm hướng đến Lễ kỷ niệm Chúa Giê-su Giáng Sinh.
Tuy nhiên, nếu chỉ để tâm hướng đến việc kỷ niệm Chúa Giê-su giáng sinh e rằng chưa đủ. Tại sao? Thưa, là bởi, Mùa Vọng, dịch từ tiếng La tinh “Adventus”, có nghĩa là “đến”. Vọng là trông mong, là mong đợi và hy vọng điều sắp đến.
Mà, Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Ngài đã “trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” hơn hai ngàn năm, thì có còn được gọi là điều chúng ta “mong đợi và hy vọng điều sắp đến”?
Vâng, Đức Giê-su đã đến thế gian, để “những ai đón nhận tức là những ai tin vào danh Người thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1, 12).
Thế nên, sự trông mong và hy vọng của chúng ta hôm nay, phải là “Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa… Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng”. (kinh Tin Kính).
Nói cách khác, sự quang lâm của Đức Giê-su phải là tiền đề cho việc bước vào Mùa Vọng của hôm nay.
Thế nên, để bước vào mùa vọng năm nay, hãy để một phút thinh lặng và tự hỏi: tôi đã chuẩn bị những gì cho ngày Chúa Giê-su quang lâm? Tôi đang trong trạng thái “tỉnh thức hay ngủ mê”? 
Vâng, cuộc đời của một người có khác gì một chuyến xe, mà tài xế không ai khác hơn là chính mình. Chính mình là tài xế, tất nhiên, mình không thể lái chiếc xe đó trong tình trạng “ngủ mê”, phải không, thưa quý vị!
Hãy tưởng tượng, hành trình đến gặp Vua Nước Trời sẽ ra sao nếu chúng ta điều khiển “chiếc xe cuộc đời” của mình trong tình trạng ngủ mê? Phải chăng, chúng ta sẽ đi trệch khỏi lộ trình mà Đức Giêsu đã vạch ra?
Hãy tự hỏi mình, rằng: ngày Vua Nước Trời quang lâm, điều gì sẽ xảy ra, nếu chúng ta vẫn “ngủ mê” trên những thú vui thói đời, trên những đam mê dục vọng… vẫn để “lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” v.v…? Phải chăng, Chúa Giê-su sẽ nói với tôi, rằng: “Hỡi tên đầy tớ tồi tệ…”?
Có lẽ thay cho câu trả lời, đó là, đừng thấy việc quang lâm của Chúa Giê-su chưa xảy ra, mà quên lãng những gì Ngài đã phán dạy.
Thế nên, hãy nghe một lần nữa, lời Đức Giê-su phán dạy: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.
**** “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”. Có bao giờ chúng ta tự hỏi: làm thế nào để có thể thực hiện lời khuyên dạy này trong suốt cuộc đời của mình? 
Thưa, cách tốt nhất, đó là chúng ta hãy nhìn những “dấu chỉ thời đại”. 
Lm Giuse Nguyễn Trọng Viễn, trong bài viết có tựa đề “dấu chỉ thời đại”, viết rằng: “Theo cha Chenu, ý niệm “dấu chỉ thời đại” là một trong ba hoặc bốn từ ngữ quan trọng nhất của Công đồng Vatican II. Việc tìm hiểu ý nghĩa của từ ngữ này chẳng những có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Công đồng Vatican II, nhưng còn là giúp chúng ta sống đức Tin một cách trưởng thành và có trách nhiệm giữa cuộc đời; nghĩa là dám đồng hành với bước đi của lịch sử nhân loại, trong ánh sáng của Tin Mừng và với sức mạnh của Thần Khí. Đó cũng là cách thức sống đức Tin phù hợp với tâm thức của Giáo Hội, phù hợp với sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần trong thời đại hôm nay”.
Việc tìm hiểu ý nghĩa của từ ngữ này ư! Thì đây, hãy nhìn xem những gì đang xảy ra trên thế giới này… những gì đang xảy ra trên thế giới hôm nay, như chiến tranh, thiên tai, bão lụt, động đất cùng với sự suy đồi đạo đức của con người, còn hơn thời No-ê v.v… 
Đó… đó chính là “dấu chỉ”, những dấu-chỉ-thời-đại, những dấu chỉ đã được Đức Giê-su nói đến, như là điềm báo, ngày “Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”… đang gần kề.
Đừng quên, lời Đức Giê-su đã nói “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Ta nói sẽ không bao giờ qua đi”. 
Bạn có tin điều này không? Nếu tin, hãy thực hiện lời Chúa Giê-su khuyên dạy, rằng: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.
Petrus.tran

Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2015

Chúa Ki-tô… Vua của đời tôi!

Chúa Nhật XXXIV – TN – B

Lễ Chúa Ki-tô Vua.
 
 
Chúa Ki-tô… Vua của đời tôi!
 
Hôm nay, 22/11/2015, chúng ta bước vào Chúa Nhật cuối cùng năm Phụng Vụ. Và theo truyền thống, Giáo Hội dành riêng ngày này kính trọng thể Chúa Giê-su Ki-tô là Vua.
 
Thật ra, không đợi hôm nay, Chúa Giê-su mới được gọi là Vua. Ngay từ khi bắt đầu chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã sai sứ thần Gabrien đến một thành miền Galilê gọi là Nazareth, gặp một trinh nữ tên là Maria và báo tin rằng: “bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu, Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1, 31-33)
 
Trong ba năm ra đi rao giảng Tin Mừng, có không ít người, dù chỉ là những lời nói gián tiếp, chẳng hạn như: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít”, họ đã tuyên xưng Đức Giê-su như là một vị Vua – Vua của họ. 
 
Rõ nét nhất, đó là hôm Ngài cùng các môn đệ lên Giê-ru-sa-lem, chuyện kể rằng: “nghe tin Đức Giê-su tới… họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng Vua Ít-ra-en” (Ga 12, 12-13).
 
Và cuối cùng là cuộc diện kiến của Đức Giê-su với quan tổng trấn Phi-la-tô. Vâng, nếu được phép, nên chăng, gọi cuộc gặp gỡ này là thiên sử bi hùng truyện!
 
Hôm đó, Đức Giê-su, “như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông”. Còn Phi-la-tô ư! Trên cương vị là quan tòa, ông ta buông lời hỏi rằng: “Ông có phải vua dân Do Thái không?”
Ô hay! Không phải là người Do Thái, làm sao quan tổng trấn có thể hiểu được vai trò và sứ mạng của Đức Giêsu khi Ngài đến thế gian! 
 
Đức Giêsu đến thế gian để “làm gì” ư? Hơn bảy trăm năm trước, ngôn sứ Mikha tiên báo rằng, “Phần ngươi, hỡi Belem Epratha… từ nơi ngươi… sẽ xuất hiện một vị có sứ mạng thống lĩnh Israel ” (Mk 5, 1).
 
Vâng, đến thế gian, Ngài là Vua, mà sự thật là vậy, để thi hành sứ-mạng-thống-lĩnh-Israel. Thống lĩnh Israel nhưng Ngài không thống lĩnh quốc gia “thuộc về thế gian này” mà là thống lĩnh con dân Israel đem họ trở về với chân lý và sự thật.
 
Thế nên, trả lời cho câu hỏi của Phi-la-tô, Đức Giê-su dõng dạc tuyên bố: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này”. 
 
Với lời giải thích rất rõ ràng, dường như Phi-la-tô hiểu ra sứ mạng của Đức Giê-su, vì thế, ông ta đã hỏi tiếp: “Vậy ông là vua sao?”. 
 
Là-vua-sao! Vâng, rất ngắn gọn, Đức Giê-su đáp lời: “Chính ngài nói… Chính ngài nói rằng tôi là vua”. 
 
Không quá hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau, tại đồi Golgotha, nơi Đức Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, ông Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá đó, tấm bảng ghi rằng: “Giê-su Na-da-rét, Vua dân Do Thái”.
 
Như vậy, có gì không phải khi chúng ta gọi “Chúa Giê-su Ki-tô là Vua”!
 
**
Chúa Giê-su Ki-tô là Vua. Tại sao Giáo Hội thiết lập Lễ Chúa Ki-tô Vua? Thưa, cách đây chín mươi năm, vào ngày 11 tháng 12 năm 1925. Để đối phó trào lưu con người chủ trương tiêu diệt Thiên Chúa, hô hào trục xuất Thiên Chúa ra khỏi gia đình, ra khỏi xã hội, ra khỏi quốc gia, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập một ngày lễ tôn vinh CHÚA GIÊSU KITÔ VUA như một cách minh định rằng: Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, và là Thiên Chúa thật, Ngài là Vua vũ trụ, Vua muôn loài, là Vua của tất cả mọi người, của mọi dân tộc, của mọi quốc gia.
 
Tôn vinh Chúa Ki-tô là vua, Giáo Hội không chủ trương khôi phục lại loại vương quốc kiểu phong kiến như xưa, loại vương quốc chỉ sản sinh những vị vua “thống trị (dân) một cách tàn bạo và hà khắc”, hoặc những hôn quân vô đạo “chỉ biết lo cho mình” (x.Ed 34,…8)

Tôn vinh Chúa Ki-tô là Vua, Giáo Hội muốn mời gọi người tín hữu hãy chỉ nhìn về một Giê-su, Ngài chính là một vị Vua mẫu mực, một vị Vua của tình yêu, một vị Vua “ưa sự nhân từ”, một vị Vua “hiền lành và khiêm nhường”, một vị Vua luôn “chạnh lòng thương xót”, một vị Vua không “dùng uy mà thống trị dân”, không “lấy quyền mà cai trị dân”, một vị Vua “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ”.
 
Và trên hết tất cả, là một vị Vua “Làm chứng cho sự thật”.
***
Lời mời gọi của Giáo Hội xưa kia, nên chăng, cũng cần coi đó như là lời mời gọi mỗi Ki-tô hữu chúng ta, hôm nay! 
 
Thưa, đúng vậy, đúng là bởi, thế giới hôm nay, cũng không kém cạnh hơn thế giới xưa kia trong vấn đề tiêu diệt Thiên Chúa. Có thể nói, nó xuất sắc hơn xưa nhiều qua những chủ thuyết này, chủ thuyết nọ, thoạt nghe, rất thuyết phục.
 
Về điều này, Lm Charles E. Miller cảnh báo: “Chủ thuyết thế tục quả quyết ‘vương quốc của cải’ là tại đây trên trần thế. Nó bác bỏ mọi hình thức tôn giáo về đức tin và phụng tự. Chủ nghĩa duy vật rao giảng một học thuyết, theo đó, tiện nghi, khoái lạc và tiền bạc là những mục tiêu duy nhất và tối thượng của cuộc sống”. Cuối cùng, ngài nhấn mạnh “Các thần của hai chủ nghĩa này không phải chịu đóng đinh trên thập giá làm của lễ hy sinh, mà ngả ngớn trong chăn êm nệm ấm”. 
 
Vâng, tiện nghi, khoái lạc và tiền bạc, rất lôi cuốn và quyến rũ, phải không, thưa quý vị? Nhưng, đừng quên, Đức Giê-su có lời phán dạy, rằng: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì”.
 
Lịch sử đã cho chúng ta thấy, những ông vua, như vua-dầu-hỏa, vua-xe-hơi, vua-truyền-thông v.v… có mang được gì, khi “về bên kia thế giới”.
 
Hãy luôn nhớ rằng, đã là người môn đệ của Chúa, dù đang “ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian; sống ở giữa đời nhưng không sống như người đời”. 
 
Cho nên, thật phải đạo khi hôm nay chúng ta hãy tự hỏi mình, rằng: “Tôi đang là thần dân của nước nào? Của vương quốc thế tục hay vương quốc Nước Trời?”
 
Nếu là vương quốc thế tục, “hãy ra khỏi thành ấy đi, để khỏi thông đồng với tội lỗi của nó và hứng lấy những tai ương dành cho nó” (x. Kh 18, 4)
 
Ra khỏi đó, tất nhiên, đừng quên tìm đến vương quốc Nước Trời, nơi đó, không có những tên hôn quân, bạo chúa vô đạo, những tên lãnh tụ lừa bịp, dối trá v. v… trái lại, chúng ta sẽ có được một cuộc sống bình an, tràn ngập tình yêu thương và hơn hết, đó là sự sống đời đời. 
 
Muốn được như thế, vâng, ngay hôm nay, hãy chọn Đức Giê-su là “Vua của đời tôi”.
 
Petrus.tran


Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2015

Tử đạo… chính là sống đạo.

Chúa Nhật XXXIII - TN – B; Lễ các thánh tử đạo Việt Nam.

Tử đạo… chính là sống đạo.


Lịch Phụng Vụ hôm nay bước vào Chúa Nhật XXXIII – TN. Và như một truyền thống đẹp, hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam.

Thế nào thì được gọi là Tử Đạo? Thưa, đó là những người tin vào Chúa Giêsu, trung thành theo Chúa Giêsu, sẵn sàng chịu bắt bớ tù đày, chịu nhiều hình phạt khắc nghiệt, dẫu cho đó là cái chết, chỉ vì không từ bỏ niềm tin của mình.

Có rất nhiều hình phạt dành cho những vị tử đạo. Nào là bị gông cùm, xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói. Nặng hơn thì bị voi dầy, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng. Tàn bạo hơn thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) hoặc bị thiêu sống. Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (một hình thức phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt)… cho tới chết, đúng như tác giả thư gửi tín hữu Do Thái mô tả “Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa còn bị xiềng xích, và bỏ tù, họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị chết vì gươm…” (x.Dt 11, 36-37)

Lịch sử Giáo Hội Việt Nam cho biết, có khoảng vài trăm ngàn vị tử đạo, trong đó có 118 vị được chính thức tôn phong.

Sự tôn phong, trước là để vinh danh đời sống đức tin của các vị, một đức tin mãnh liệt theo gương Thầy Giê-su, và sau là, để xem đó như những tấm gương mẫu mực cho mỗi chúng ta noi theo.

Các vị đã sống đức tin như thế nào? Thưa, các vị đã dám “hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu”. Ba vị, linh mục Gioan Đạt, thừa sai Gagelin Kính và linh Mục Đặng Đình Viên, như là những minh chứng điển hình.

Chuyện kể rằng: linh mục Gioan Đạt, khi ngài vừa dâng lễ xong thì quân lính vây bắt. Cha đã chạy thoát, nhưng vì để quên áo lễ, cha thấy quân lính tra tấn gia chủ nên ra nộp mạng và nói: "Vẫn biết tôi có thể thoát, nhưng như thế anh chị em sẽ bị khổ nhiều".

Với thừa sai Gagelin Kính ư! Vâng, ngài đã viết thư xin phép giám mục cho mình ra trình diện để tín hữu Bình Định được bình an.

Còn linh mục Đặng Đình Viên thì sao? Thưa, cha đã trốn an toàn trong vườn mía dày đặc, nhưng khi thấy quân lính đánh đập tra khảo con của chủ nhà, cha cũng tự động ra thế mạng. (trích: Chân dung các thánh tử đạo Việt Nam - Lm PX. Đào Trung Hiệu. OP).

Có vị đã dám đổi mạng sống mình để làm chứng cho chân lý và sự thật. Đó chính là người giáo dân mang tên Phaolô Tống Viết Bường.

Chuyện kể rằng, khi nghe tin ông bị bắt nhiều giáo hữu đến thăm ông. Ông nói với họ: “Ðem cho tôi cái gì nặng hơn nữa, vì xiềng xích của tôi còn nhẹ. Người ta chưa đánh đập tôi nhiều, tôi muốn người ta đánh tôi nhiều hơn nữa. Phúc được chịu khó vì Chúa.”. Những lời này cho thấy tâm trạng của người tù Phaolô Tống Viết Bường rất can trường, không chút sợ khổ hình vì Ðức Tin.

Đứng trước bạo quyền và bạo lực ai mà không sợ hãi! Đứng trước xiềng xích tù đày, ai mà không thối lui! Nhưng với Phaolô Tống Viết Bường thì nhờ “áo giáp đức tin” và “mũ chiến là niềm hy vọng”, ngài đã đánh bại tất cả, kể cả sự chết.

Thật vậy, khi đàn áp bằng đánh đập tàn nhẫn không có kết quả, các quan quay sang dụ dỗ. Ðích thân quan thượng thư Bộ Hình Võ Xuân Cẩn ra sức khuyến giục Tống Viết Bường nên chiều theo ý vua “bỏ đạo lúc này thôi rồi sau sẽ hay, muốn làm gì thì làm”. Tống Viết Bường trả lời khiêm tốn, nhưng cương quyết “Quan lớn có lòng thương thì tôi cũng xin quan lớn một điều là cho tôi được vẹn chữ trung với Chúa Trời”. (nguồn: internet)

Chỉ là phàm nhân yếu đuối, nhờ đâu mà các vị có sức chịu đựng, chịu đựng cho đến chết? Thưa, đó chính là “nhờ đức tin”, tin rằng, với “Ơn của Chúa” đủ để cho các ngài vượt thắng sự bắt bớ, tù đày, chết chóc, để trở thành những “Martyr”, những Martyr của niềm tin và tình yêu thương.

Có thể kết luận, rằng: các thánh tử đạo đã “tử đạo” bằng chính cách “sống đạo” của mình.

**
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, điều đã được Đức Giêsu tiên báo trong những ngày Ngài còn tại thế, rằng: “Anh em hãy coi chừng… người ta sẽ nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, và người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy”, nay vẫn tiếp tục xảy ra, nơi này nơi khác, cách này cách khác.

Ở Trung Đông, với nhóm ISIS quá khích, họ vẫn tạo ra những vụ khủng bố, bắt bớ, giết chóc đối với những ai là Ki-tô hữu.

Ở Trung Hoa lục địa… Vâng, cũng không khá hơn ở Trung Đông, tại đây, theo bản tin của rfi cho biết “Ngày 30/07/2015, các tín đồ Thiên Chúa giáo ở thành phố Ôn Châu, Chiết Giang, cho biết, chính quyền yêu cầu trong vài tuần lễ, tất cả các nhà thờ tại đây phải rút bỏ cây thánh giá.

Từ năm 2014 đến nay, chính quyền Trung Quốc đã bắt tháo gỡ hơn 1200 thánh giá tại các nhà thờ ở tỉnh này. Cộng đồng Thiên Chúa giáo tại Trung Quốc có khoảng một triệu tín đồ và Ôn Châu được coi như Jerusalem đối với tín đồ Thiên Chúa giáo Trung Quốc”.

Đã có nhiều tín hữu Trung Quốc không sợ hãi dù bị bắt bớ, đánh đập. Họ vẫn “anh dũng tiến lên hy sinh” vì niềm tin và chân lý.
***
Sự bách hại vẫn còn xảy ra, cho đến ngày tận thế. Đừng quên, Đức Giêsu đã chẳng nói rằng: “Kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22, 31).

Ngày nay, có thể chúng ta không phải chịu cảnh “máu đổ đầu rơi”. Có thể chúng ta không buộc phải phá nhà thờ. Nhưng có thể và “đã” có thể chúng ta bị “sàng sảy” bởi những lời dụ dỗ mật ngọt rằng thì-là-mà cứ xây nhà thờ cho lớn, cho đẹp. Và rằng, cứ tổ chức những lễ Noel cho “hoành tráng”, nhưng cuối cùng những buổi lễ đó chẳng khác gì những lễ hội dân gian… theo “thói đời”

“Tử đạo”, với chúng ta hôm nay, không phải tử đạo giống như người xưa, nào là bị chém đầu, phân thây, tùng xẻo v.v… nhưng đó là “sống đạo”.

Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội mà sự trung tín như thể là một món quà quý hiếm. Sự trung thành với nhiệm vụ được giao, với những lời đã thề hứa như thể biến mất khỏi thế gian. Đúng như lời ngôn sứ Mi-kha nói: “Kẻ hiếu trung đã biệt dạng khỏi xứ, không còn người lương thiện chốn dương gian. Tất cả đều đợi dịp gây đổ máu, người này đặt lưới dò hãm hại người kia” (Mk 7, 2)

Thế nên, việc sống đạo hôm nay, không gì tốt hơn, đó là hãy sống một đời sống thường ngày, bằng một đời sống trung tín, trung tín với những lời thề hứa “hứa yêu nhau trao câu thề chung sống muôn đời” chẳng hạn.

****
Chúng ta đang bước vào những tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ. Những tuần này, phụng vụ Lời Chúa nhắc nhở chúng ta về ngày tận thế, và ngày quang lâm, ngày mà, như lời Đức Giê-su đã nói “mặt trời sẽ tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.” (x.Mc 13, 24-26)

Nhắc nhở điều này, không ngoài mục đích là để mỗi chúng ta hãy sẵn sàng cho ngày phán xét, ngày mà Đức Giê-su, như một ông chủ đi xa, nay trở về, và hỏi chúng ta về những nén bạc đã được giao phó.

Nói một cách cụ thể, Đức Giê-su sẽ hỏi chúng ta, rằng: “…Xưa ta đói, các người đã cho ta ăn. Ta khát các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước.. Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng. Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”?

Nếu có, vâng, điều đó chứng minh chúng ta là những Ki-tô hữu thật sự “sống đạo”. Thật sự sống đạo suốt một đời người, tất nhiên, còn khó hơn chịu một cú “chém” để trở thành người “tử đạo”.

Vì thế, đừng ngạc nhiên khi có người nói: Tử đạo ngày nay “chính là sống đạo”.
Petrus.tran

Thứ Hai, 9 tháng 11, 2015

Bà góa nghèo… tỷ phú của Chúa!

Chúa Nhật XXXII - TN – B

Bà góa nghèo… tỷ phú của Chúa!

Petrus.tran

Ngày 30/04/2015 vừa qua, tờ USA TODAY có đăng tải một bài viết với tiêu đề “Homeless person donates priceless gift to church – một người vô gia cư dâng hiến một món quà vô giá cho nhà thờ”.

Bài viết cho biết, anh ta đã dâng hiến chỉ với 18 cents cùng một lời ghi chú giản dị trên một mảnh giấy nhỏ như sau: “Please don't be mad I don't have much. I'm homeless. God bless.” (tạm dịch: Vui lòng đừng giận, tôi không có nhiều. Tôi là người vô gia cư. Xin Chúa ban phước lành).

Nói tới dâng hiến, có lẽ ai trong chúng ta cũng đều biết, đó là một hành vi biểu lộ lòng tôn kính và biết ơn của con người đối với Thượng Đế. Việc dâng cúng đã có từ thời tạo thiên lập địa.

Thuở đó, con người thường dùng “hoa trái đầu mùa” như là lễ vật dâng lên Thượng Đế. Để biểu lộ lòng tôn kính và biết ơn, họ chỉ cần dâng cúng “con đầu lòng của bầy chiên” thì cũng đủ để được “Đức Chúa đoái nhìn” (St 4, 4)

Vào thời Cựu Ước, thời được gọi là đại pháp luật, luật pháp quy định, mọi con dân Do Thái phải dâng một phần mười về mọi thu nhập của mình. Sách Lê-vi ghi rằng: “Mọi thuế thập phân đánh vào đất, trích từ sản phẩm của đất và từ hoa trái của cây cối, đều thuộc về Đức Chúa” (Lv 27, 30)

Đáng tiếc thay! Theo thời gian, con người đã có cái nhìn phàm tục về sự dâng hiến. Một số người nghĩ rằng, dâng hiến như là một sự “hối lộ” Thượng đế, càng dâng hiến nhiều, thì càng chứng tỏ lòng hảo tâm cao, và rồi họ cho rằng, những người khá giả, giàu có, dễ dàng thực hiện việc dâng hiến hơn những người thiếu thốn nghèo khó.

Trở lại câu chuyện người “vô gia cư” nêu trên. Theo bạn, việc dâng hiến của người đó, có được “Đức Chúa đoái nhìn”? Thưa, chắc chắn là được. Được, là bởi, chính Đức Giê-su khi còn tại thế, Ngài đã hoan nghênh cách dâng hiến này.

Thật vậy, câu chuyện “Tiền dâng cúng của bà góa” được ghi lại trong Tin Mừng Mác-cô, nói rõ quan điểm của Ngài về sự dâng hiến. (x.Mc 12, 38-44)

Câu chuyện đó đã được ghi lại như sau: Giêrusalem hôm đó, hôm có sự hiện diện của Đức Giêsu, như một ngày lễ hội. Ngoài đường phố là những khuôn mặt hợm hĩnh của các ông kinh sư “xúng xính trong bộ áo thụng”. Các ông dạo qua dạo lại mong được người ta chào hỏi. Còn bên trong Đền Thờ là một dòng người đang tiến về thùng tiền dâng cúng.

Trong dòng người đó, có một người phụ nữ. Người phụ nữ đó được mô tả là “một bà góa nghèo”.

Israel thời đó là một xã hội phân chia giai cấp rõ rệt. Những người bị bệnh truyền nhiễm như phong hủi, những người tật nguyền, các bà góa… tất cả đều bị gạt ra bên lề xã hội.

Phụ nữ khi kết hôn phải chấm dứt liên hệ với gia đình ruột thịt. Điều tệ hại là nếu chồng chết cũng là lúc mất hết mọi quyền lợi vật chất từ nhà chồng.

Bà góa nghèo hôm đó, phải chăng vì đã “mất hết mọi quyền lợi vật chất” của mình nên đã “lên Đền thờ” để cầu xin điều gì đó từ Thiên Chúa?

Thưa, không thấy thánh sử Mác-cô nhắc đến. Chỉ thấy ngài ghi lại rằng: Bà ta đã không diện đối diện “trước nhan Đức Chúa tay không” nhưng với của lễ là “hai đồng tiền kẽm”…

Từng bước, từng bước bà ta tiến đến thùng tiền, nơi luôn có những vị “cảnh sát tôn giáo” hiện diện canh chừng. Đây là thùng tiền dâng cúng cho Đền thờ. Và rồi, không một chút ngập ngừng, bà ta “bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm” một cách hân hoan vui vẻ theo đúng khả năng bà ta có. Rồi bà ta vội vã đi ra.

Bà ta đâu có biết, Đức Giêsu, lúc đó, đang “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng” và sau khi “quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao”, Ngài kết luận rằng, “bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”.
**
Có nghịch lý không khi Đức Giê-su nói: “Bà góa này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”, trong khi đó, còn “có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền”?

Thưa không, Mẹ Têrêsa Calcutta có nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.

Bà góa nghèo, như lời Đức Giê-su nhận định, đã “rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình”, thì quả đúng là một-mất-mát-hy-sinh-lớn đối với bà ta.

Để hiểu được điều này, hãy nhớ lại cái biến cố 30/04/1975. Có ai trong chúng ta mà không trải qua giai đoạn, trong nhà chỉ còn hai-lon-gạo, là tất cả những gì để nuôi sống mình! Và có ai trong chúng ta “dám” đem một lon gạo cho một ai đó, vào thời điểm đó, đang quằn quại trong đói khổ!

Thế nên, thật phải đạo khi Đức Giê-su nhận định, dù chỉ dâng có “hai đồng tiền kẽm” cũng kể như bà ta đã “bỏ vào thùng nhiều nhất”.

Này nhé, đừng nghĩ những suy tư sau đây là một sự ngụy biện. Hãy tưởng tượng xem, nếu đem “hai đồng tiền kẽm” này, gửi ngân hàng, kỳ hạn một năm, với lãi xuất là 6,80%. Điều gì sẽ xảy ra, “sau hai ngàn năm”? Vâng, “bèo” lắm cũng phải thu về vài nghìn tỷ “đô” …

Nhìn vào góc độ khác, góc độ “thuộc linh”, sự dâng hiến của bà góa này còn tạo ra một hiệu ứng dây chuyền rất ấn tượng. Thật vậy, hơn hai ngàn năm đã trôi qua, kể từ khi bà ta “bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm”, có biết bao nhiêu Ki-tô hữu nghèo trên khắp thế giới, (mà người nghèo bao giờ cũng nhiều hơn người giàu), sau khi nghe bài Tin Mừng này, có phần chắc, họ đã có cảm hứng cho việc “dâng hiến”, dâng hiến một cách đơn sơ, chân thành.

Ai… ai có thể tính ra được số tiền đó, do cả tỷ người nghèo dâng hiến, sau hơn hai ngàn năm, là bao nhiêu?

Vậy, hôm nay, nên chăng, gọi bà góa này là “tỷ phú của Chúa”?

***
Là một Ki-tô hữu, bạn có muốn là “Tỷ phú của Chúa”? Nếu muốn, đừng bao giờ nghĩ rằng, đợi đến khi có của ăn của để, chúng ta mới thực hiện sự dâng hiến cho Thiên Chúa.

Câu chuyện sau đây, tuy đã cũ, thiết tưởng cũng cho chúng ta nhìn ra chân lý đó. Chuyện là thế này: Có một chàng thanh niên đến thăm Mẹ Têrêsa Calcutta. Sau khi chứng kiến những việc Mẹ cùng các cộng sự làm, chàng ta xúc động và nói “Thưa Mẹ, con có thể cộng tác vào công việc của Mẹ bằng cách nào? Mẹ Têrêsa từ tốn trả lời rằng “Chỉ cần cố gắng mỉm cười với người khác, vậy thôi”.

Vấn đề, không phải là dâng ít hay nhiều. Điều quan trọng, đó là dâng hiến với sự tự nguyện trong tâm tình hy sinh.

Thì đây, khi nói tới việc dâng hiến, Đức Giê-su đã chẳng từng nói: “Ai cho anh em một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng”, đó sao!.

Chỉ là “một chén nước”, tất nhiên, nó không phải là chén nước mang hương vị Coca, Pepsi hoặc Trà xanh không độ, nào đó. Chén nước đó phải là chén nước mang hương vị “bác ái, nhân hậu, từ tâm, hiền hòa, trung tín, nhẫn nhục” v.v…

Hãy tưởng tượng, mỗi ngày, ta rót cho người bạn đời của mình một chén nước mang một trong những hương-vị nêu trên, điều gì sẽ xảy ra? Thưa, điều sẽ xảy ra, đó là: gia đình chúng ta tuy là một gia-đình-nhỏ nhưng nó sẽ là một “đại dương của hạnh phúc”, đúng không, thưa quý vị!

Hãy tưởng tượng, mỗi ngày, ta rót cho một người hàng xóm nào đó bên ta, một chén nước, mang một trong những hương-vị nêu trên, điều gì sẽ xảy ra? Thưa, có phần chắc, nơi ta ở sẽ là một thiên đàng láng giềng thân thiết.

Trở lại chuyện “dâng hiến”. Vâng, chúng ta tiến thân trong nghề nghiệp nhờ những mảnh bằng cấp. Vậy, sao chúng ta lại không xem việc dâng hiến như là một tấm bằng để tiến thân nơi “công sở Nước Trời”!

Thánh Phaolô đã nói “Hãy chú ý làm trổi hơn việc nhân đức dâng hiến này” (2Cor). Đừng quên, khi dâng hiến “Đức Chúa là Đấng thưởng công, sẽ trả lại cho con gấp bảy lần” (Hc 35, 10).

Vâng, Ngài sẽ trả công, và sự trả công tuyệt vời nhất, đó là chúng ta được đứng trong hàng ngũ những “Tỷ phú của Chúa”.

Petrus.tran

Đừng ném đá - đừng phạm tội.

Chúa Nhật – V  – MC – C                            Đừng ném đá - đừng phạm tội . “ Chúa thương chúng ta vì Chúa là Thiên Chúa. Chúa thương ...